Tag Archives: Thiền

Trong cõi mộng

“Thầy của chúng tôi thường ngủ trưa,” một học trò của Soyen Shaku kể lại. “Đám con nit tụi tôi hỏi tại sao thầy ngủ trưa và thầy nói: ‘Thầy vào cõi mộng để gặp các bậc thánh hiền như Khổng Tử làm.’ Khi Khổng Tử ngủ, ngài mơ đến các thánh nhân xa xưa và sau đó kể lại cho học trò.

Ngày nọ trời rất nóng cho nên vài đứa chúng tôi ngủ trưa. Thầy mắng tụi tôi. ‘Tụi con đến cõi mộng để gặp các thánh nhân xa xưa như Khổng Tử làm,’ chúng tôi giải thích. ‘Vậy các thánh nhân nói gì?’ Thầy tra vấn. Một đứa trong bọn chúng tôi trả lời: ‘Tụi con đến cõi mộng và gặp các thánh nhân và hỏi họ có phải thầy của chúng con đến đây mỗi trưa, nhưng họ nói là họ chẳng bao giờ thấy ai như vậy cả.’”
.

Bình:

• Soyen Shaku là thiền sư đầu tiên quảng bá Thiền tại Mỹ, mà chúng ta đã nói đến trong bài Quả Tim Tôi Cháy Như Lửa.

• “Cõi mộng” là “cõi chủ quan” ở trong đầu mình. Mình nói thế nào—dù là nói thật hay nói dối—thì cũng chỉ có mình biết điều mình nói; mọi người khác nghe thì nghe vậy, nhưng chẳng cách nào kiểm chứng.

Và người khác vào cõi mộng của họ, thì họ lại chỉ thấy điều họ thấy, chẳng phải điều ta thấy, và họ có kể lại—thật hay dối—thì ta cũng chỉ biết nghe chứ chẳng làm gì được.

Nghĩa là, trong cõi mộng ai muốn nói gì thì nói, và chẳng cách nào chúng ta hiểu nhau, gặp nhau, đồng ý với nhau, thấy cùng một điều như nhau. Và chẳng đối thoại gì với nhau được.

• Đời là cõi mộng

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán
(Kinh Kim Cang)

Tất cả những gì có
Như mộng ảo bọt ảnh
Như sưong cũng như điện
Cứ như vậy mà suy niệm
(TĐH dịch nghĩa)

Cho nên, tất cả những gì ta thấy trong “cõi mộng đời” đều rất chủ quan, chỉ ta thấy ta biết, chẳng nói với nhau được.

Cho nên, không thể giải thích cho nhau được, huống hồ “cãi nhau để cho ra chân lý.”

Mỗi người phải tự tìm thấy chân lý cho chính mình. Chẳng truyền chân lý cho nhau được.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

In Dreamland

“Our schoolmaster used to take a nap every afternoon,” related a disciple of Soyen Shaku. “We children asked him why he did it and he told us: ‘I go to dreamland to meet the old sages just as Confucius did.’ When Confucius slept, he would dream of ancient sages and later tell his followers about them.

“It was extremely hot one day so some of us took a nap. Our schoolmaster scolded us. ‘We went to dreamland to meet the ancient sages the same as Confucius did,’ we explained. ‘What was the message from those sages?’ our schoolmaster demanded. One of us replied: ‘We went to dreamland and met the sages and asked them if our schoolmaster came there every afternoon, but they said they had never seen any such fellow.'”

# 40

Ngủ ngày

Thiền sư Soyen Shaku qua đời năm sáu mươi mốt tuổi. Làm tròn sự nghiệp đời mình, thiền sư để lại một giáo huấn phong phú hơn hẳn giáo huấn của nhiều thiền sư khác. Học trò của thiền sư thường ngủ ngày giữa mùa hè, và dù là thiền sư bỏ qua việc này, thiền sư vẫn không bao giờ phí phạm một giây phút.

Ngủ trưa ở Nhật

Khi thiền sư chỉ mới 12 tuổi, người đã học triết lý thiền Thiên Thai. Vào một ngày hè, trời nóng bức đến nỗi cậu bé Soyen duỗi thẳng chân và ngủ trong khi thầy mình ra ngoài.

Ba tiếng đồng hồ trôi qua, cậu bé Soyen bỗng nhiên tỉnh giấc, nghe thầy đang bước vào, nhưng trễ quá rồi. Cậu đang nằm dài ra đó, chắn ngang cửa.

“Thầy xin lỗi, thầy xin lỗi,” thầy của Soyen thì thầm, bước rón rén qua người Soyen, như thể Soyen là một người khách quý. Kể từ đó, Soyen không bao giờ ngủ trưa nữa.
.

Bình:

• Ngủ trưa là thói quen tại các xứ nóng. Buổi trưa, nhất là trưa hè, trời oi bức đến nỗi mọi người mọi vật đều thấy mệt mỏi và cần nghỉ. Ở Tây Ban Nha (Spain) và các nước có ảnh hưởng Tây Ban Nha ở Nam Mỹ, giấc ngủ trưa gọi là “siesta.”

Theo bài này, ngủ trưa được các thiền sư xem như là phí phạm thời gian. Điều này có lẽ hợp lý với các thiền sư, nhưng đối với nông dân phải làm việc ngoài trời, thì ngủ trưa có lẽ là giúp nông dân làm việc tốt hơn. (Xin đọc thêm về 7 Nguyên Tắc Cho Giấc Ngủ Trưa).

(Thực ra tựa đề bài này nên là “Ngủ trưa” thì đúng hơn là “Ngủ ngày”. Trong văn hóa Việt, ngủ trưa thì được, ngủ ngày thì không. Tuy nhiên, vì bản chính tiếng Anh viết là Daytime, chúng ta dịch là “Ngủ ngày” để tôn trọng bản chính. Nếu là ngủ trưc thì tiếng Anh nên là “noon nap” hay “afternoon nap”.)

• Điểm chính của bài này là Soyen không phí phạm thời gian, hay ảnh hưởng của thầy của cậu bé Soyen trên cách sống của cậu trong suốt cuộc đời?

Cả thầy của Soyen và Soyen đều tôn trọng giấc ngủ trưa của người khác, vì cả hai biết rằng đó cũng là chuyện tự nhiên và thông thường. Cho nên, ngủ trưa không được xem là chuyện xấu, hay lười biếng, dù là các thiền sư có thể nghĩ rằng không ngủ trưa thì vẫn hơn.

Điểm chính là, thầy Soyen xin lỗi cậu học trò 12 tuổi là đã phá giấc ngủ của cậu. Thầy xin lỗi học trò là chuyện hầu như chẳng bao giờ xảy ra ở phương đông, nơi mà thầy tát tai trò là chuyện thường ngày. Ở đây, thầy xin lỗi học trò, mà lại là học trò nhỏ xíu, đang ngủ trưa trong giờ học, tức là làm chuyện chẳng nên làm (dù đó chỉ là bản năng tự nhiên).

Thái độ cực kỳ khiêm tốn của thầy, và cực kỳ tôn trọng học trò của thầy, gây ấn tượng quá lớn trên Soyen, đến nỗi cậu không bao giờ ngủ trưa nữa (để thầy không bao giờ phải xin lỗi cậu lần nữa).

Và Soyen cũng rất tôn trọng [giấc ngủ của] học trò sau nầy như thầy đã tôn trọng mình.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

Sleeping in the Daytime

The master Soyen Shaku passed from this world when he was sixty-one years of age. Fulfilling his life’s work, he left a great teaching, far richer than that of most Zen masters. His pupils used to sleep in the daytime during midsummer, and while he overlooked this he himself never wasted a minute.

When he was but twelve years old he was already studying Tendai philosophical speculation. One summer day the air had been so sultry that little Soyen stretched his legs and went to sleep while his teacher was away.

Three hours passed when, suddenly waking, he heard his master enter, but it was too late. There he lay, sprawled across the doorway.

“I beg your pardon, I beg your pardon,” his teacher whispered, stepping carefully over Soyen’s body as if it were that of some distinguished guest. After this, Soyen never slept again in the afternoon.

#39

Sự nghiệp của Gisho

Gisho được truyền giới ni cô khi cô chỉ mới 10 tuổi. Cô được huấn luyện cũng như các sư nam. Khi cô được 16 tuổi, cô đi khắp nơi tim học với mọi thiền sư.

Cô học với Unzan ba năm, sáu năm với Gukei, nhưng không nắm được trí tuệ sáng suốt. Cuối cùng cô đến với thiền sư Inzan.

Inzan chẳng đối xử với cô khác với các thiền sinh nam tí nào. Thiền sư la mắng cô như sấm động. Ông trói buộc ni cô đủ cách để đánh thức bản chất bên trong của ni cô.

Gisho học với thiền sư Inzan mười ba năm, rồi ni cô tìm được cái cô đang tìm.

Để ca ngợi ni cô, Inzan làm một bài thơ:

    Ni cô này học mười ba năm với tôi
    Chiều tối cô quán chiếu công án thâm sâu
    Sáng ra lại vùi đầu vào công án khác
    Ni cô Hoa Tetsuma đã hơn tất cả, trừ Gisho.
    Và kể từ Mujaku chẳng ai thật như Gisho!
    Nhưng vẫn còn nhiều cửa cô phải đi qua
    Cô còn phải chịu nhiều đấm từ bàn tay sắt của tôi

Sau khi Gisho đã giác ngộ, ni cô đến tỉnh Banshu, lập thiền viện và dạy hai trăm ni cô khác cho đến khi cô qua đời vào tháng 8 năm nọ.
.
Bình:

• Gisho đi tu năm 10 tuổi. Học với nhiều thầy, kể cả ba thầy lớn từ năm 16 tuổi, trong vòng 22 năm, chịu đủ mọi la mắng xỉ vả, để được giác ngộ, vào năm 38 tuổi. Tức là muốn nắm được chân l‎ý nhà Phật không phải là chuyện dễ, cần cố công kiên trì nhiều năm.

(1) Một phần lý do là vì trí tuệ Phật gia bao hàm l‎ý luận thâm sâu, đến mức vượt cả lý luận.

(2) Một phần là do cái “tâm” của hành giả đã mất “cái tôi” đến mức nào, nhưng cùng lúc lại vững tin vào chính mình đến mức nào. Đây là một điều nghe như đối nghịch, nhưng người thực hành thì biết là không. Cái tôi của ta càng mất đi, ta lại càng tăng tự tin.

(3) Một phần là do chín muồi nhờ trực nghiệm cuộc đời. (Có nhiều điều mình đọc năm học triết 18 tuổi, đến năm 40 tuổi mới bắt đầu hiểu hơi rõ rõ).

• Các thiền sư lúc nào cũng nhẹ nhàng thong thả với mọi người, trừ học trò của mình. Nhiều đại sư xử với học trò rất dữ dằn.

Thực ra thì ngày nay cũng thế thôi. Ở cấp giáo dục thấp cho mọi người, các vị thầy lúc nào cũng vuốt ve khuyến khích. Nhưng ở mức thượng đẳng, mức học để làm thầy thiên hạ, thì đó là giáo dục elite, nhằm đào tạo một lớp lãnh đạo rất nhỏ. Người học trò ở mức này thực ra cũng đã là thầy, và phải đủ sức chịu đựng kỹ luật thép, để thành “thép đã tôi thế đấy”, nếu không thì xìu xìu ển ển như cọng bún, chẳng lãnh đạo ai được cả.

Trong các công ty (hay nhà nước) cũng thế. Ở cấp cao, chẳng ai vuốt ve ai cả, mà mọi người đòi hỏi nhau phải chịu được kỹ luật thép để đạt được phẩm chất cao nhất.

Và kỹ luật thép đó thực ra cũng chỉ là để đòi hỏi ta đánh mất cái tôi của mình.

• Và giác ngộ cũng có nhiều cấp. Giác ngộ tầng thấp thì vẫn còn nhiều gian khổ tiếp tục trí tuệ thâm sâu hơn. Luôn luôn phải học thêm hậu tiến sĩ. 🙂

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

Gisho’s Work

Gisho was ordained as a nun when she was ten years old. She received training just as the little boys did. When she reached the age of sixteen she traveled from one Zen master to another, studying with them all.

She remained three years with Unzan, six years with Gukei, but was unable to obtained a clear vision. At last she went to the master Inzan.

Inzan showed her no distinction at all on account of her sex. He scolded her like a thunderstorm. He cuffed her to awaken her inner nature.

Gisho remained with Inzan thirteen years, and then she found that which she was seeking!

In her honor, Inzan wrote a poem:

    This nun studied thirteen years under my guidance.
    In the evening she considered the deepest koans,
    In the morning she was wrapped in other koans.
    The Chinese nun Tetsuma surpassed all before her,
    And since Mujaku none has been so genuine as this Gisho!
    Yet there are many more gates for her to pass through.
    She should receive still more blows from my iron fist.

After Gisho was enlightened she went to the province of Banshu, started her own Zen temple, and taught two hundred other nuns until she passed away one year in the month of August.

# 38

Ấn hành kinh sách

Tetsugen, một người sùng mộ Thiền ở Nhật, quyết định sẽ ấn hành kinh sách, vào thời kinh sách chỉ có bằng tiếng Hán. Sách phải in với những khối khắc gỗ, bảy ngàn bản in một lần, tốn rất nhiều công sức.

Tetsugen bắt đầu đi khắp nơi và quyên góp tiền bạc. Vài người ủng hộ cho vài trăm đồng vàng, nhưng thường thì Tetsugen chỉ nhận được vài xu lẻ. Ông cám ơn mỗi người bố thí với lòng tri ân như nhau. Sau mười năm Tetsugen đã có đủ tiền để bắt đầu in.

Nhưng vào lúc đó Sông Uji gây lụt lội. Nạn đói theo sau. Tetsugen dùng tiền đã quyên góp cho sách để giúp mọi người khỏi chết đói. Rồi ông lại bắt đầu quyên góp tiền.

Bảy năm sau một trận dịch lan khắp nước. Tetsugen lại dùng tiền quyên góp, để giúp mọi người.

Ông lại quyên góp tiền lần thứ ba, và sau 20 năm ước mơ của ông thành hiện thực. Những khối gỗ khắc in những bản kinh đầu tiên ngày nay còn trưng bày trong tu viện Obaku ở Kyoto.

Người Nhật dạy con cái họ là Tetsugen in ba bộ kinh, và hai bộ đầu vô hình vượt trội hơn cả bộ cuối cùng.
.

Bình

• Tetsugen cám ơn người cho trăm đồng vàng và người cho vài xu lẻ “vói lòng tri ân như nhau.”

• In kinh sách không quan trọng bằng cứu người.

• Sách in sớm hay muộn cũng không chết chóc ai, người đói người bệnh mà không cứu ngay thì chết. Thời tính ấn định ưu tiên lúc này.

• Việc gì cần phải làm thì làm, đừng nhắm mắt mù quáng theo đúng “kế hoạch”. “Kế hoạch được sinh ra để được điều chỉnh.” (Plan is made to be changed).

• 37 năm để hoàn thành tâm nguyện in một bộ kinh. Nhẫn.

Trần Đình Hoành dịch và bình

.

Publishing the Sutras

Tetsugen, a devotee of Zen in Japan, decided to publish the sutras, which at that time were available only in Chinese. The books were to be printed with wood blocks in an edition of seven thousand copies, a tremendous undertaking.

Tetsugen began by traveling and collecting donations for this purpose. A few sympathizers would give him a hundred pieces of gold, but most of the time he received only small coins. He thanked each donor with equal gratitude. After ten years Tetsugen had enough money to begin his task.

It happened that at that time the Uji River overflowed. Famine followed. Tetsugen took the funds he had collected for the books and spent them to save others from starvation. Then he began again his work of collecting.

Several years afterwards an epidemic spread over the country. Tetsugen again gave away what he had collected, to help his people.

For a third time he started his work, and after twenty years his wish was fulfilled. The printing blocks which produced the first edition of sutras can be seen today in the Obaku monastery in Kyoto.

The Japanese tell their children that Tetsugen made three sets of sutras, and that the first two invisible sets surpass even the last.

# 37

Phân Giờ Tấc Ngọc


Một lãnh chúa hỏi Takuan, một thiền sư, làm thế nào để dùng thời gian. Lãnh chúa cảm thấy ngày của mình quá dài, ở trong khách sảnh cả ngày và ngồi cứng ngắc để nhận lễ viếng từ những người khác.

Takuan viết tám chữ Hán và trao cho lãnh chúa:

Không hai hôm nay
Phân giờ tấc ngọc

(Hôm nay không đến hai lần
Mỗi phút là một viên ngọc vô cùng qu‎ý)

Bình:

* Vậy thì câu trả lời là gì?

Thưa: Sử dụng thời giờ vào điều gì mà mình cảm thấy đáng tốn một viên ngọc quý cho mỗi phút.

Mỗi người có ưu tiên khác nhau–học, chơi với con cái, đi dạo, làm việc gì đó… Đừng làm gì mà mình cảm thấy phí thời giờ.

Cuộc đời quá ngắn để lãng phí thời gian vào những việc mà mình không thấy đáng làm.

* Takuan Sōhō (Trạch Am Tông Bành, 澤庵宗彭), 1573-1645, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế, dòng Nam Phố Thiệu Minh (ja. nampo jōmyō). Sư không những là một vị Thiền sư lỗi lạc, tinh thông kinh điển mà còn là một nghệ sĩ trứ danh, một thi hào với những tác phẩm còn được nhắc đến ngày nay.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Inch Time Foot Gem

A lord asked Takuan, a Zen teacher, to suggest how he might pass the time. He felt his days very long attending his office and sitting stiffly to receive the homage of others.

Takuan wrote eight Chinese characters and gave them to the man:

Not twice this day
Inch time foot gem.

(This day will not come again.
Each minute is worth a priceless gem)

# 32

Mưa hoa

Tu-bồ-đề là đệ tử của Phật Thích Ca. Sư có thể hiểu được uy lực của Không, quan điểm rằng không có gì hiện hữu ngoại trừ trong liên hệ chủ quan và khách quan của nó.

Ngày nọ Tu-bồ-đề đang ngồi dưới gốc cây, trong trạng thái cực kỳ tĩnh lặng, Hoa bắt đầu rơi quanh ông.

“Chúng tôi ca ngợi ngài về đàm luận của ngài về Không,” các vị Phạm thiên thì thần với ông.

“Nhưng tôi đâu có đàm luận gì về Không,” Tu-bồ-đề nói.

“Ngài đã chẳng đàm luận gì về Không, chúng tôi đã chẳng nghe gì về Không,” các Phạm thiên trả lời. “Đó chính là Không.” Và hoa rơi trên Tu-bồ-đề như mưa.

Bình:

• Cảnh “mãn thiên hoa vũ” (mưa hoa đầy trời) nầy thường xảy ra trong kinh Phật, thông thường là khi Phật Thích Ca hay một vị Bồ Tát nào đó dạy một “pháp” rất lớn, rất vi diệu.

• Phạm thiên, lấy từ chữ Brahman trong Ấn giáo, là vua của một cõi trời.

• Chữ emptiness trong bản tiếng Anh được dịch ở đây với hai chữ khác nhau ở hai nơi: “Không”, và “tĩnh lặng” (khi Tu-bồ-đề ngồi dưới gốc cây).

“Không” là tất cả vũ trụ của ta (cả nội tâm lẫn ngoại tại).
“Tĩnh lặng” là một trạng thái nội tâm.

Trạng thái nội tâm của ta (tĩnh lặng, emptiness) cũng chính là vũ trụ của ta (Không, emptiness). Đây là một mệnh đề triết lý có thể được lý giải bằng những lý luận và từ ngữ triết lý phức tạp. Nhưng chúng ta có thể giản dị hóa vấn đề bằng quan sát rằng: “Khi tâm ta cực kỳ tĩnh lặng thì ta thấy thế giới quanh ta cực kỳ tĩnh lặng.”

Tức là, Vũ trụ ta thấy là do tâm ta thấy như vậy. Đây là quan niệm chủ quan về hiện hữu—Hiện hữu quanh ta chỉ có thể thấy được như tâm ta thấy.

Tức là, Vũ trụ mà ta thấy chỉ là l‎ý giải của tâm ta về vũ trụ ta nhìn.

Nghĩa là, mỗi người chúng ta “thấy” một vũ trụ, và vũ trụ ta thấy thì khác với vũ trụ người khác thấy.

Và nếu tôi không hiện hữu (ví dụ, tôi chết đi) thì vũ trụ tôi thấy cũng chết theo tôi. Không có tôi thì vũ trụ của tôi không hiện hữu.

Không có những người khác, thì những vũ trụ của họ cũng không hiện hữu.

Cho nên ta nói “Vũ trụ là do tâm ta sinh ra.” Nếu ta chết, vũ trụ của ta chết theo.


• Nhưng, dù là chúng ta chỉ có được cái nhìn chủ quan về hiện hữu thì hiện hữu vẫn phải “có” đó một cách khách quan, trong một dạng nào đó, dù là không ai nắm bắt được khách quan tính của nó. (Ngay cả nói nó “có” đó một cách khách quan cũng đã là sai rồi, vì “có” là hiện hữu, mà hiện hữu nào thì cũng chỉ là cái nhìn chủ quan méo mó, không bảo đảm, của tôi).

Ta gọi tính khách quan của vũ trụ là Không, vì không diễn tả được cách nào cả, ngoài việc dùng tạm tên “Không”; nếu diễn tả bằng ngôn từ, thì ngôn từ sẽ biến Không thành “l‎ý giải chủ quan của hiện hữu” mất rồi.

• Đó là ‎ý nghĩa của câu: “Không có gì hiện hữu ngoại trừ trong liên hệ chủ quan và khách quan của nó.”

Không có gì hiện hữu đối với tôi ngoại trừ trong liên hệ chủ quan giữa nó với tôi—cái nhìn chủ quan của tôi về nó.

Không có gì hiện hữu với tôi ngoại trừ trong liên hệ giữa hình ảnh chủ quan của nó trong tâm trí tôi và một suy luận chủ quan của tôi là nó phải hiện hữu khách quan một cách nào đó (để tôi có thể nhìn và thấy nó một cách chủ quan).

Ngoài những cái nhìn chủ quan (méo mó) và suy luận chủ quan (méo mó) của tôi về chủ quan và khách quan, thì chẳng thể nói gì chính xác về hiện hữu cả.

Bên ngoài và bên trên những cái nhìn và suy luận này thì cùng lắm chỉ có một “cái” chính xác nhưng lại không diễn tả được–đó là Không, cái khách quan tính của hiện hữu mà vĩnh viễn tôi không thể nào mô tả hoặc nắm bắt được.

• Vì không thể mô tả và nắm bắt “Không” được, nên Tu-bồ-đề đã chẳng nói gì về Không, và chư thiên đã chẳng nghe gì về Không, và như thế Không là Không.

• Liên hệ chủ quan và khách quan là các từ triết lý tây phương. Ở Đông phương, người ta thường nói đến “tánh” (khách quan) và tướng (chủ quan), hay “thể” (khách quan) và “dụng” (chủ quan).

• Đây là vũ trụ quan của Phật giáo. Và đồng thời cũng là nhân sinh quan, khi Tu-bô-đề ở trong “subtime emptiness” (“cái Không vi diệu”, mà chúng ta đã dịch là “cực kỳ tĩnh lặng”).

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Flower Shower

Subhuti was Buddha’s disciple. He was able to understand the potency of emptiness, the viewpoint that nothing exists except in its relationship of subjectivity and objectivity.

One day Subhuti, in a mood of sublime emptiness, was sitting under a tree. Flowers began to fall about him.

“We are praising you for your discourse on emptiness,” the gods whispered to him.

“But I have not spoken of emptiness,” said Subhuti.

“You have not spoken of emptiness, we have not heard emptiness,” responded the gods. “This is true emptiness.” And blossoms showered upon Subhuto as rain.

# 36

Thiền từng phút

Thiền sinh học với thầy tối thiểu là hai năm trước khi được cho dạy người khác. Tenno vừa xong chương trình tập sự và mới thành thầy dạy. Tenno đến thăm Nan-in. Trời mưa nên Tenno mang guốc gỗ và dù. Sau khi chào hỏi, Nan-in nói: “Chắc thầy để guốc và dù ở trong căn phòng đằng trước. Tôi muốn biết thầy để dù ở phía bên phải hay bên trái đôi guốc.”

Tenno, lúng túng, không có câu trả lời. Chàng nhân ra là chàng đã không thể hành thiền trong từng phút. Tenno trở thành học trò của Nan-in, và học thêm sáu năm nữa để đạt được Thiền từng phút.

Bình:

Thiền sư Tào Động Daizui MacPhillamy của Edmonton Buddhist Meditation Group ở Edmonton, Alberta, Canada, viết ngày 4.4.2006 về “Thiền từng phút” như sau:

Thiền không phải là điều giới hạn trong vài lần ta ngồi thiền định một ngày. Ta có thể mang tâm thiền của ta vào đời sống hàng ngày, với một cách sống ta gọi là “tập trung”, hay “thiền khi làm việc” hay “Thiền từng phút”. Các trường phái Phật giáo có nhiều cách khác nhau để thực hành. Sau đây là cách của [Tào Động] chúng tôi. Cách này cực kỳ giản dị và chẳng đòi hỏi gì ngoài quyết tâm kiên trì thực tập nó. Thiền này có thể tóm tắt trong 5 bước.

1. Chỉ làm một lúc một việc.
2. Chú tâm hoàn toàn vào việc đang làm.
3. Nếu tâm trí của bạn lang thang qua việc khác, kéo nó lại.
4. Thực tập bước số 3 khoảng vài trăm nghìn lần.
5. Và, khi tâm trí của bạn cứ lang thang đến một vấn đề hoài hoài, ngừng một tí và để ‎ý
đến vấn đề “quấy phá” đó: Có thể là nó đang cố gắng nói điều gì đó với bạn.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Every-Minute Zen

Zen students are with their masters at least two years before they presume to teach others. Nan-in was visited by Tenno, who, having passed his apprenticeship, had become a teacher. The day happened to be rainy, so Tenno wore wooden clogs and carried an umbrella. After greeting him Nan-in remarked: “I suppose you left your wooden clogs in the vestibule. I want to know if your umbrella is on the right or left side of the clogs.”

Tenno, confused, had no instant answer. He realized that he was unable to carry his Zen every minute. He became Nan-in’s pupil, and he studied six more years to accomplish his every-minute Zen.

# 35

Một nụ cười trong cả một đời

Mokugen được xem là không bao giờ cười, cho đến ngày cuối cùng trước khi chết. Khi giờ chết đã gần kề, thiền sư nói với các đệ tử: “Các con đã học với thầy hơn 10 năm. Hãy cho thầy thấy cách các con biểu hiện Thiền. Ai trình bày được điều đó rõ ràng nhất sẽ là người kế vị thầy và nhận y bát của thầy.”

Mọi người nhìn khuôn mặt nghiêm trọng của Mokugen, nhưng không ai trả lời.

Encho, một đệ tử đã theo thầy nhiều năm, bước đến bên giường. Encho đẩy chén thuốc đến trước vài phân. Đây là câu trả lời của Encho cho câu hỏi của thầy.

Khuôn mặt của thầy càng thêm nghiêm trọng. “Con chỉ hiểu vậy thôi sao?” thầy hỏi.

Encho với tay và đẩy chén thuốc ngược lại chỗ cũ.

Một nụ cười đẹp nở trên mặt Mokugen. “Thằng nhóc này,” thầy nói với Encho. “Con ở với thầy mười năm và vẫn chưa thấy cả người của thầy. Lấy y bát của thầy đi. Nó là của con.”

Bình:

• Truyền y bát là truyền áo và bát (khất thực) lại cho người thừa kế.

• Chỉ một cử chỉ đẩy chén thuốc giản dị. Rất khó cho người ngoài cuộc biết được ‎ý của hai người. Ta chỉ có thể đoán mà không thể chắc.

Đẩy chén thuốc đến trước, có thể có hai ý nghĩa hơi khác nhau:

1. “Đây là câu trả lời của con. Thầy uống thuốc đi.”

2. Nhưng có thể là Encho chẳng trả lời gì cả, chẳng hề quan tâm đến câu hỏi của thầy, mà chỉ đẩy thuốc cho thầy vì thầy đang bệnh: “Thầy uống thuốc đi.”

Số (1) có nghĩa là: “Câu trả lời của con là ‘sống ở đây, lúc này.’ Thầy đang bịnh thì uống thuốc.”

Số (2) có nghĩa là Encho không trả lời gì cả, không hề quan tâm đến câu hỏi một tí nào. Encho thực sự đang sống ở đây lúc này, và đang thực sự bảo thầy uống thuốc đi.

• Và thầy hỏi: “Con chỉ hiểu vậy thôi sao?”

Nếu Encho đã có ý trình bày “cái hiểu” trong trả lời Số (1), thì có lẽ là Encho đã gật đầu: “Dạ đúng rồi thầy.”

Nhưng Encho đã chẳng trả lời gì cả, đã chẳng có “ý hiểu” gì trong đầu cả. Encho chỉ đẩy thuốc cho thầy uống, và thầy không uống, cho nên Encho chỉ mang chén thuốc để lại chỗ cũ.

Tức là:

1. Encho có một tâm hoàn toàn rỗng lặng, không hề bận tâm đến chuyện đạt Thiền, hay chuyện thừa kế.

2. Encho chỉ sống “Ở đây, lúc này.” Thầy đang bệnh thì đưa thuốc cho thầy uống. Thầy không uống thì lấy lại. Vậy thôi.

Và đó là Thiền.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

A Smile in His Lifetime

Mokugen was never known to smile until his last day on earth. When his time came to pass away he said to his faithful ones: “You have studied under me for more than ten years. Show me your real interpretation of Zen. Whoever expresses this most clearly shall by my successor and receive my robe and bowl.”

Everyone watched Mokugen’s severe face, but no one answered.

Encho, a disciple who had been with his teacher for a long time, moved near the bedside. He pushed forward the medicine cup a few inches. This was his answer to the command.

The teacher’s face became even more severe. “Is that all you understand?” he asked.

Encho reached out and moved the cup back again.

A beautiful smile broke over the features of Mokugen. “You rascal,” he told Encho. “You worked with me ten years and have not yet seen my whole body. Take the robe and bowl. They belong to you.”

# 34

Bàn tay của Mokusen

Mokusen Hiki sống trong một ngôi chùa ở tỉnh Tamba. Một trong những thiền sinh của Mokusen phàn nàn về tính hà tiện của vợ anh ta.

Mokusen đến thăm bà vợ và đưa nắm tay ra trước mặt chị.

“Thầy có ‎ý gì vậy?” chị ta hỏi với ngạc nhiên.

“Giả sử nắm tay tôi cứ như thế này hoài. Chị gọi nó là gì?” thiền sư hỏi.

“Tật nguyền,” chị trả lời.

Rồi thiền sư mở thẳng bàn tay trước mặt chị và hỏi: “Nếu nó cứ như thế này hoài. Thì sao?”

“Cũng tật nguyền,” chị nói.

“Nếu chị hiểu được bao nhiêu đó,” Mokusen kết thúc, “chị là một người vợ tốt.” Rồi thiền sư ra về.

Sau lần viếng thăm của thiền sư, chị vợ giúp anh chồng phân phát cũng như dành dụm.

Bình:

• Bài này không hẳn là chỉ nói đến cách dùng tiền, mà nó còn áp dụng cho mọi lĩnh vực khác của đời sống. Điều gì cực đoan cũng là tật nguyền. Điều gì cũng có chừng mực tự nhiên của nó, cứ vậy mà sống.

• Các thiền sư thường có lối giáo dục rất ấn tượng, khó quên. Thay vì giảng giải lằng nhằng cả nửa tiếng đồng hồ, chỉ một nắm đấm đưa ngay trước mặt, rồi tiếp theo là một bàn tay. Bài học không đến 1 phút, nhưng cực mạnh.

• Trong cả bài giảng, chẳng có chỗ nào chê, chỉ có kết thúc bằng câu “chị là một người vợ tốt”, nhưng bắt đầu bằng chữ “nếu” (“Nếu chị hiểu được bao nhiêu đó”).

Trần Đình Hoành dịch và bình

.

Mokusen’s Hand

Mokusen Hiki was living in a temple in the province of Tamba. One of his adherents complained of the stinginess of his wife.

Mokusen visited the adherent’s wife and showed her his clenched fist before her face.

“What do you mean by that?” asked the surprised woman.

“Suppose my fist were always like that. What would you call it?” he asked.

“Deformed,” replied the woman.

Then he opened his hand flat in her face and asked: “Suppose it were always like that. What then?”

“Another kind of deformity,” said the wife.

“If you understand that much,” finished Mokusen, “you are a good wife.” Then he left.

After his visit, this wife helped her husband to distribute as well as to save.

# 33

Vô Tâm

Chào các bạn,

Vô tâm là đích điểm của Thiền tập. Vô tâm, hay “tâm không”, là một tâm trí không vướng mắc, hoàn toàn tự do. Một ví dụ rất nổi tiếng về vô tâm là chuyện thiền sư Tanzan ẳm cô gái đẹp qua vũng bùn mà lòng chẳng một ly vướng bận trước, trong khi, và sau khi ẳm.

Vô tâm cũng là tâm điểm của võ thuật và các môn nghệ thuật khác. Và là cách sống mà hàng triệu thiền sinh hiện nay, dù là ở chùa hay ở nhà, vẫn cố gắng mỗi ngày để đạt.

Nhưng vô tâm nói thì dễ, làm thì cực kỳ khó khăn.

Mỗi tâm trí chúng ta là một máy computer, với hàng trăm ngàn thước “dây” thần kinh nối lại trong một guồng máy cực kỳ phức tạp. Guồng máy đó là cốt tủy của tâm ta. Bây giờ đổi nó thành “tâm không” thì cũng như là vứt bỏ tất cả các dây thần kinh đó hết để tâm thành “không”, vậy thì còn gì là bộ máy nữa? Nói thế để chúng ta hiểu được khó khăn của vấn đề.

Đây là vấn đề quan trọng, bởi vi nếu mỗi người chúng ta không giải phóng được tư tưởng của mình, cứ bị cầm tù mãi trong giàn máy tư duy của mình, thì đất nước sẽ không bao giờ cất cánh.

Hãy xem xét câu này: “Anh chàng Sơn nói câu này thiếu luận lý quá. Dốt chịu không được.”

Câu “Anh chàng Sơn nói câu này thiếu luân lý quá” chính là “thấy sự việc như nó là” (seeing thing as it is) (nếu thực sự là anh Sơn thiếu khoa học luận lý).

Câu “dốt không chịu được” là “có tâm”, tức là đưa phán đoán của mình vào.

“Có tâm” thường làm cho mình bị mù mờ tâm trí, vì cái nhìn của mình bị sai lạc và thường chết yểu, không đi sâu được vào sự thật. Chẳng hạn, câu nói thiếu luận lý mình vừa nghe có thể là không dốt tí nào, mà có thể là một sự thật sâu thẳm vượt cao hơn luận lý đến mấy tầng.

Ví dụ câu “Thượng đế là tình yêu.” Câu này thì chẳng luận lý một tí nào cả, nhưng nếu bạn tin vào một “người” có tên là Thượng đế thì câu này là một câu thần học đúng. Nếu bạn là một triết gia dùng từ “Thượng đế” như là một sức mạnh tuyệt đối đến từ tình yêu của con người, có thể nối kết tất cả con người lại với nhau và giúp con người cùng đi lên trong thế giới này, thì nó cũng đúng. Hoặc nếu bạn là một thi sĩ, nhìn “Thượng đế” như là nguồn cảm xúc vô tận của trái tim con người, thì câu đó cũng đúng. Cho nên cái nhìn “có tâm”, bị cản trở bởi thành kiến và giới hạn nhỏ bé của kiến thức có sẵn của ta, thường là nguồn gốc của si mê và dốt nát.

Cái nhìn “thấy sự việc như nó là” là cái nhìn “vô tâm”. Đó là cái nhìn giải phóng, của một tâm trí tự do, không bị tù ngục trong những thói quen phán đoán, suy luận, suy diễn, hay kết luận của ta.

Cho nên người “vô tâm” nhìn một chuyện xảy ra trước mắt, có thể thấy sâu hơn người khác “có tâm” đến mấy tầng, trong kinh tế, trong chính trị, trong quản lý, trong giáo dục…

Tuy nhiên, từ “vô tâm” thường làm cho người thiếu căn cơ không hiểu được, vì “tôi chẳng có cách nào để làm tâm tôi thành ‘tâm không’ như thầy nói được cả.” Vậy thì chúng ta sẽ dùng một từ khác dễ hiểu hơn và dễ thực hành hơn.

Nếu trở lại chuyện của thiền sư Tanzan ẳm cô gái qua đường—lúc ẳm cô gái thiền sư chẳng có “tâm” gì cả, ngọai trừ phải chú tâm vào một chuyện—ẳm và đi cách nào cho tốt nhất. Chú tâm hòan tòan vào một việc duy nhất mình đang làm, gọi là “chánh niệm”. Và đó cũng là “vô tâm”, vì tâm trí chỉ tập trung vào một việc phải làm mà không bị vướng bận vào những tư duy vụn vặt tù túng khác.

Ví dụ: Ta thấy một tư tưởng hay, muốn viết một bài gởi đăng trên ĐCN để chia sẻ với các bạn. Thì tập trung tư tưởng vào việc “viết bài để chia sẻ với các bạn”, và không để các “tâm” sau đây chi phối:

– Các bạn sẽ cho rằng mình thông thái không?
– Hay là chê mình dốt?
– Hay là nói mình khoe tài?
– Hay là nói mình có mưu đồ chính trị?
– Hay là nói mình giảng đạo?
– Hay là nói mình đạo đức giả?
– Hay là nói mình cổ hủ?

Và vài chục cái tâm “hay là” như thế nữa.

Ví dụ viết là ví dụ khó, vì thực ra khi viết mình vẫn phải để ý đến các “hay là” bên trên, vì viết cho đám đông thì mình cần cố gắng để mọi người khỏi hiểu lầm ý mình. Nhưng tất cả các “hay là” đó chỉ là những điều nên để ý trong “kỹ thuật viết” để trình bày thế nào cho độc giả hiểu đúng ý mình càng nhiều càng tốt, chứ không có một cái “hay là” nào là động lực để mình viết (hay để bỏ cuộc không viết).

Khi “viết để chia sẻ” là chỉ tập trung tâm trí vào việc “viết để chia sẻ”, mà không bị các ham muốn hay lo sợ nào chi phối. Đó là “viết chánh niệm”, là một thực hành của vô tâm.

Ăn thì tập trung vào việc nhai và thưởng thức từng vị ngon của bữa ăn (mà đừng nghĩ đến ông chồng mình đang đi với ai 🙂 ).

Khiêu vũ thì tập trung vào việc thường thức nhịp nhạc và bước đi của mình (và không cần phải lo là ai chê mình nhảy dở hay khen mình là vũ sư).

Làm việc nhóm thì tập trung vào làm việc của mình và quan sát các người khác trong nhóm để cùng di chuyển đồng điệu mà không phải nói nhiều hay hiểu lầm nhau (và không làm “chính trị văn phòng”—office politics—tức là cạnh tranh ganh tị lặt vặt ta thường thấy trong các nhóm).

Cho một người hành khất vài đồng, thì cho (và đừng quan tâm là ông này có đang giả vờ để quỵt mình không. Nếu lo bị quỵt thì đừng cho, đã cho thì không lo).

Thấy chuyện sai cần phải nói cho người khác biết, thì nói (và đừng lo hậu quả. Nếu lo thì đừng nói).

Và khi đã xong thì xong: Tranh luận xong, đừng ấm ức; tập trung tâm trí vào việc khác. Người đã làm sai với mình, xong chuyện là xong; không để tâm phán đóan. Vợ chồng cãi nhau, xong là xong, tập trung tâm trí thưởng thức bửa ăn tối với nhau. Mỗi lúc làm chỉ một chuyện. Xong là xong.

Tập cho guồng máy tâm trí của mình “chỉ tập trung vào làm một chuyện một lúc” mà không có tư tưởng lắt nhắt nào xía vào, đó là “chánh niệm”, và người sống chánh niệm thì đương nhiên là vô tâm, vì nếu ăn chánh niệm, ngủ chánh niệm, làm việc chánh niệm, đi chánh niệm… cả ngày như thế thì lấy đâu còn tâm trí để cho các tư duy lăng nhăng khác xía vào.

Nếu ta tập được khả năng “thấy mọi sự như nó là” (seeing everything as it is), không bị các tâm lăng nhăng xía vào, ta có thể hiểu được mình và những người chung quanh sâu hơn người bình thường mấy tầng, và thấy được các hiện tượng kinh tế, chính trị, giáo dục, xã hội của quốc gia sâu hơn những người khác mấy tầng.

Đó là đưa mình và đưa đất nước đi lên.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

Bài liên hệ: Tự do đầu tiên và cuối cùng, Tâm trí tự do.

© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Không nước, không trăng

Khi ni cô Chiyono học Thiền với thầy Bukko của chùa Engaku, cô không gặt được thành quả gì từ thiền định trong một thời gian dài.

Cuối cùng, trong một đêm trăng, ni cô đang xách nước trong một cái gàu cũ bọc tre. Tre bị găy và đáy gàu rớt ra, và ngay lúc đó tâm trí của Chiyono được giải phóng.

Để k‎ỷ niệm, ni cô làm một bài thơ:

Bằng cách này cách kia tôi cố giữ cái gàu cũ
Từ lúc thanh tre đã yếu và gần gãy
Cho đến khi đáy gàu rơi ra.
Không còn nước trong gàu!
Không còn trăng trong nước!

Bình:

Chùa Engaku (円覚寺) là một chùa thiền tông Lâm Tế và một trong những chùa thiền tông quan trọng nhất ở Nhật. Chùa do một vị sư Trung quốc xây dưới thời tể tướng Nhật Hōjō Tokimune sau khi ông đẩy lui được quân xâm lăng Mông Cổ từ 1274 đến 1281. Hōjō Tokimune cũng là một ví thầy về Thiền, vì vậy chùa Engaku rất nổi tiếng về Thiền.

• “Tâm trí của Chiyono được giải phóng.” Đây là điều mà các sách vở của ta gọi là “hốt nhiên đại ngộ”. Chữ “giải phóng” hàm ý tâm trí của Chiyono đã bị tù túng trước đây.

Tù túng vì cái gì?

• Chiyono viết, “Bằng cách này cách kia tôi cố giữ cái gàu cũ”. Đó cũng là một cách để nói “Tôi cứ giữ một nề nếp cũ.” Đây rất rõ là cách suy nghĩ cũ, có nước trong gàu và có trăng trong nước. Đây chính là tù túng.

Trăng là ảo ảnh.

Gàu và nước là cái giữ trăng, cái giữ ảo ảnh. Gàu là cách suy tư, nước là biểu hiện cái sờ mó được. Gàu và nước cách suy tư dựa vào những gì mắt thấy tai nghe, dựa vào những gì sờ mó được mà suy luận. Cho nên tâm trí bị lẩn quẩn trong giới hạn của ngôn ngữ và lý‎ luận, bị cầm tù không thoát ra được.

Ví dụ: Suy tư “Con gà có trước hay trứng gà có trước?” Suy tư này sẽ giữ ta trong vòng lẩn quẩn không bao giờ ra, vì nó bị giới hạn bởi ngôn ngữ và luận l‎ý của con người.

Một ví dụ thường ngày hơn: “Nếu ta làm thiện, ta sẽ được phước, như vậy sẽ gia tăng cơ hội thành công trên đường đời, và được hạnh phúc. Vậy thì, tu học làm việc thiện là đường đưa đến hạnh phúc.” Đây là một chuỗi lý luận rất hợp lý theo lý luận hàng ngày, và chẳng có gì đáng trách cả.

Nhưng nếu ta đã nhận ra chính thân ta là phù du, vô thường, thì tất cả chỉ là ảo ảnh—các việc thiện, tu học, hạnh phúc–đều chỉ là phù du, hư ảo.

Cho nên mọi phương thức suy luận đều là cái gàu nước, giữ ảo ảnh là trăng.

• Vậy thì cái gì không là ảo ảnh? Cái gì là chân l‎ý vĩnh cửu?

Chân lý‎ đó là cái nền thường hằng bất biến (thường trực không thay đổi) của mọi thay đổi. Nếu mọi ngọn sóng đều hiện rồi mất, đều thay đổi liên tục, thì phải có cái gì làm nền cho tất cả mọi ngọn sóng đó. Cái nền đó là đại dương nước. Lọn sóng nào cũng phù du, hiện rồi mất ngay, nhưng đại dương nước thì luôn có đó.

Cái nền thường hằng bất biến của mọi thay đổi đó, ta gọi là Tuyệt Đối. Ta không thể diễn tả được tuyệt đối, không thể tưởng tượng được bằng ‎ý niệm, vì mọi ‎từ ngữ, mọi ý niệm—dài, ngắn, trắng, xanh, lớn, nhỏ…–đều là tương đối, đều là thay đổi.

Cái nền thường hằng bất biến đó, ta gọi là Không, là Như Lai, là Phật. Đó là bản tánh thật của vũ trụ, và là bản tánh thật của chính ta, vì ta cũng từ đó mà ra rồi lại trở về đó, như sóng từ nước mà ra rồi lại tan hòa vào nước.

• Để nắm bắt được Tuyệt Đối (Không, Như Lai), ta phải vượt bỏ hẳn các khái niệm và suy nghĩ, vượt ra khỏi thế giới tương đối của mắt thấy tai nghe và của suy luận trong trí óc, để lên tầng Tuyệt Đối. Cảm nhận trực tiếp được hiện diện của Tuyệt Đối bên trong, và xuyên qua, những điều tương đối ta thấy—gần như là nhìn một người phụ nữ trước mặt và cảm nhận được tình yêu bất diệt của nàng có cho bạn. Cảm nhận này vượt lên trên lý luận và ‎ý niệm.

• Gàu vỡ, hết nước, hết trăng, tức là ngưng suy nghĩ kiểu bình thường, không lệ thuộc vào những điều mắt thấy tai nghe mà suy luận, là nhảy vọt lên đến tầng cảm nhận Tuyệt Đối đó. Cho nên ta nói là “giải phóng tâm trí” hay “hốt nhiên đại ngộ”.

• Người ta dùng chữ “ngộ”, “enlightened”, “giải phóng”, mà không nói “hiểu”, hay “đột nhiên hiểu ra”, vì cái biết này sâu thẳm hơn cái hiểu của suy luận bình thường. Đó tương tự như là cái biết cùa một người nghệ sĩ vừa nắm được một dòng nhạc hiện vào đầu và không giải thích được tại sao có dòng nhạc mới lạ thật hay hiện ra trong đầu như thế.

• Xem thêm về “hốt nhiên đại ngộ” trong bài Ba Ngày Nữa.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)
.

No Water, No Moon

When the nun Chiyono studied Zen under Bukko of Engaku she was unable to attain the fruits of meditation for a long time.

At last one moonlit night she was carrying water in an old pail bound with bamboo. The bamboo broke and the bottom fell out of the pail, and at that moment Chiyono was set free!

In commemoration, she wrote a poem:

In this way and that I tried to save the old pail
Since the bamboo strip was weakening and about to break
Until at last the bottom fell out.
No more water in the pail!
No more moon in the water!

# 29

Mọi thứ đều nhất

Khi thiền sư Banzan đang đi ngang một khu chợ, thiền sư nghe một mẩu đối thoại giữa anh hàng thịt và khách hàng.

“Cho tôi miếng thịt ngon nhất anh có,” người khách hàng nói.

“Trong tiệm tôi mọi thứ đều nhất,” anh hàng thịt trả lời. “Chị chẳng tìm ở đây được miếng thịt nào mà không nhất.”

Nghe những lời này, Banzan tức thì giác ngộ.

Bình:

• “Mọi thứ đều nhất” tức là tâm không còn phân biệt. Tất cả chúng sinh đều như nhau—đều là Phật đang thành. Phải có tâm Phật mới “thấy” và “sống” được điều này.

Cho nên, Phật dạy từ tâm. Từ tâm với tất cả mọi người–thân sơ, tốt xấu.

Kinh Từ Tâm viết:

Tấm lòng nhân ái bao la,
Thật là thuần khiết, thật là cao thâm.
Hướng về tất cả chúng sinh,

Thương người quen lẽ tất nhiên,
Cũng thương những kẻ chưa quen bao giờ.
Xóa đi ngăn cách thân sơ,

Đủ lòng độ lượng, đủ lòng thương yêu.
Với người mưu hại đủ điều,
Bất nhân ác cảm gây bao hận thù.

Với người oán ghét bao đời,
Nguồn thương yêu ấy làm vơi tị hiềm.

Không những là yêu thương tất cả mọi người, mà là tất cả mọi loài, tất cả mọi sinh linh.

• (Và yêu tất cả mọi người không có nghĩa là tin tất cả mọi người. Trong đời sống hàng ngày, đôi khi ta phải thực tế trong việc tin người và dùng người. Nhưng yêu mọi người thì được. Cũng như bố mẹ có thể yêu tất cả các đứa con như nhau, nhưng tin mỗi đứa, và do đó hành xử với mỗi đứa, có thể khác nhau).

• Ở vào mức cao nhất, Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Khi Bồ tát Quán-tự-tại thực hành trí tuệ Bát Nhã thâm sâu, soi thấy [tất cả] là Không, Ngài liền vượt mọi khổ nạn.” Tất cả là Không, tức là không còn phân biệt cái gì hơn cái gì.

• Ở một góc nhìn khác, thì không có gì là rác cả. Tất cả mọi thứ trên đời đều có thể dùng được vào việc nào đó. Tất cả mọi người trên đời đều có thể dùng được vào việc nào đó.

• Anh hàng thịt: Đối với Phật gia cấm sát sinh, thì có lẽ bán thịt là nghiệp tội nặng nhất nhì trên đời rồi. Vậy mà một lời nói của anh hàng thịt cũng “bật công tắc đèn” cho một thiền sư giác ngộ. Vậy thì, lời nói có thể giúp ta giác ngộ có thể đến từ bất kỳ ai. Ta không thể có thái độ kỳ thị, coi thường lời nói của ai, vì họ dốt, hay là người xấu, là kẻ thù, là kẻ tội lỗi, là người khác đạo… Bất kỳ lời nói đến từ đâu, từ ai, đều có thể làm cho ta giác ngộ, vào đúng lúc.

• Tâm vô phân biệt.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Everything is Best

When Banzan was walking through a market he overheard a conversation between a butcher and his customer.

“Give me the best piece of meat you have,” said the customer.

“Everything in my shop is the best,” replied the butcher. “You cannot find here any piece of meat that is not the best.”

At these words Banzan became enlightened.

# 31

Danh thiếp

Keichu, vị thiền sư lớn thời Minh Trị Thiên Hoàng, là sư trụ trì chùa Tofuku, một đại tự ờ Kyota. Ngày nọ, thống đốc Kyoto đến thăm thiền sư lần đầu tiên.

Người trợ lý thống đốc trình danh thiếp của thống đốc, có ghi: “Kitagaki, Thống Đốc Kyoto.

“Tôi không có chuyện gì để nói với một anh chàng như vậy,” Keichu nói với người trợ lý. “Bảo ông ta đì về đi.” Người trợ lý mang tấm danh thiếp trở lại với lời xin lỗi. “Đó là lỗi của tôi,” thống đốc viết, với dòng bút chì xóa cụm từ Thống Đốc Kyoto. “Hỏi thầy anh lần nữa.”

“Ô, Katagaki hả?” thiền sư reo lên khi thấy tấm danh thiếp. “Thầy muốn gặp anh ấy.”

Bình:

• Keichu Bundo (1824-1905) là thiền sư Lâm Tế, hạ nhân của thiền sư “Vậy à” Hakuin.

• Rõ là đại sư muốn dạy cho thống đốc (“anh chàng như vậy”) một bài học về khiêm tốn. Nhưng tại sao phải dạy thì ta không biết trong bài này. Có thể là có nhiều điều đã xảy ra thời đó làm cho thiền sư phải giảng dạy như thế.

• Bài này cũng cho thấy không thể lấy bụng tiểu nhân mà đo lòng quân tử. Không thể thấy việc đại sư xử với thống đốc như thế mà kết luận là đại sư kiêu căng. Cái nhìn bên ngoài có thể được l‎ý giải bằng đủ mọi cách tâm ta muốn. Nếu ta có tâm thanh thoát, ta sẽ thấy mọi điều thanh thoát.


• Điều quan trọng là, nếu ta là thống đốc, ta được đại sư cho một cơ hội bằng vàng để học cung cách khiêm tốn, ta có khiêm cung để nhận bài học không?

Ở đời gặp chuyện loại này cũng thường. Phản ứng của chúng ta thế nào khi ta nằm trong trường hợp gần như trường hợp của Thống Đốc Kyoto?

• Nhiều người đọc bài này có thể nghĩ rằng tác phong không sợ quyền hành của Kaichu là điểm chính. Nhưng đó không là điểm chính. Thầy dạy học thì có đủ cách dạy, từ dịu dàng đến dữ dội, chẳng có gì đáng ngạc nhiên hết.

Điểm chính là phản ứng khiêm tốn, yêu học hỏi, của Thống Đốc Kitagaki.

• Khi nào thì ta mang chức vụ ra để cư xử? Khi nào ta cư xử với nhau chỉ bằng cái tên bố mẹ đã cho ta?

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Calling Card

Keichu, the great Zen teacher of the Meiji era, was the head of Tofuku, a cathedral in Kyoto. One day the governor of Kyoto called upon him for the first time.

His attendant presented the card of the governor, which read: Kitagaki, Governor of Kyoto.

“I have no business with such a fellow,” said Keichu to his attendant. “Tell him to get out of here.”The attendant carried the card back with apologies. “That was my error,” said the governor, and with a pencil he scratched out the words Governor of Kyoto. “Ask your teacher again.”

“Oh, is that Kitagaki?” exclaimed the teacher when he saw the card. “I want to see that fellow.”

# 30

Mở kho tàng của bạn

Daiju đến thăm thiền sư Baso ở Trung Quốc. Baso hỏi: “Anh tìm gì?”

“Giác ngộ,” Daiju trả lời.

“Anh có kho tàng riêng của anh. Tại sao tìm bên ngoài?” Baso hỏi.

Daiju thắc mắc: “Kho tàng của tôi ở đâu?”

Baso trả lời: ‘Cái anh đang tìm là kho tàng của anh.”

Daiju mừng rỡ! Kể từ đó Daiju luôn luôn nói với bạn bè: “Mở kho tàng của anh và dùng nó.”

Bình:

Baso dōitsu (Mã Tổ Đạo Nhất, 馬祖道一, 709-788), là một Thiền sư Trung Quốc đời nhà Đường, và là môn đệ và người đắc pháp duy nhất của Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng. Sư có rất nhiều môn đệ đắc đạo như Bách Trượng Hoài Hải, Nam Tuyền Phổ Nguyện, Đại Mai Pháp Thường, Đại Châu Huệ Hải…

Mã Tổ Đạo Nhất thường được xem như người có ảnh hưởng mức thứ 3 trên Thiền tông, sau Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma và lục tổ Huệ Năng.

• Bản tiếng Anh này nói “Daiju was delighted”, tức là mừng rỡ hớn hở, khi nghe Mã Tổ Đạo Nhất trả lời. Vài bản khác dùng từ “enlightened”, tức là “giác ngộ.”

• Giác ngộ, Niết Bàn, Phật… ở trong ta. Không nẳm ở ngoài ta đâu mà tìm.

Trần Nhân Tông, tức Trúc Lâm Đầu Đà, thủy tổ của Thiền phái Trúc Lâm, nói trong bài Cư trần lạc đạo:

Gia trung hữu báo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền

(Trong nhà có của đừng tìm nữa
Nhìn cảnh vô tâm hỏi chi thiền)

Tâm ta vốn là tâm Phật, chỉ bị vô minh che khuất.

Vô minh là chấp trước—bám vào cái này, bám vào cái kia.
Bám vào tham, sân, si.
Bám vào cái tôi (ngã).
Bám vào thành kiến—cái này tồi, người kia tốt.
Bám vào đạo—phải là thế này mới là đạo, thế kia không là đạo.
Bám vào pháp tu—tu thế này mới đúng, thế kia là sai.
Bám vào Phật–người này là Phật, đi theo ngài thì sẽ giác ngộ.
Bám vào… Bám vào…
Bám vào cả quan niệm “đừng bám” (chấp ngay cả vô chấp).

“Nhìn cảnh vô tâm”–nhìn mưa thì thấy mưa, đừng diễn giải là “chia ly đầy nước mắt”, v.v….—thì đó là Thiền, là ngộ. Như Tanzan vô tâm mang kiều nữ qua vũng bùn.

“Nhìn cảnh vô tâm” là không còn bị chấp trước nào che khuất tâm ta. Lúc đó tâm sẽ sáng láng trở lại như thời ngyên thủy, tức là tâm trở lại “bản lai diện mục” (mặt mũi nguyên sơ) của nó. Đó là giác ngộ, là Niết Bàn.

• Kho tàng ở trong ta. Hạnh phúc, an lạc, an bình… đã có sẵn trong ta. Đừng tìm ở ngoài.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Open Your Own Treasure House

Daiju visited the master Baso in China. Baso asked: “What do you seek?”

“Enlightenment,” replied Daiju.

“You have your own treasure house. Why do you search outside?” Baso asked.

Daiju inquired: “Where is my treasure house?”

Baso answered: “What you are asking is your treasure house.”

Daiju was delighted! Ever after he urged his friends: “Open your own treasure house and use those treasures.”

#28

Ba ngày nữa

Suiwo, đệ tử của Hakuin, là một vị thầy rất giỏi. Vào một kỳ mở lớp riêng một thầy một trò (zazen) trong mùa hè, một đệ tử từ một hải đảo miền nam nước Nhật đến gặp thầy.

Hotei - tranh Hakuin

Suiwo cho cậu một công án: “Nghe tiếng vỗ của một bàn tay.”

Người đệ tử ở đó 3 năm nhưng không giải được. Một đêm nọ, nước mắt dàn dụa, cậu vào gặp Suiwo. “Con phải về nam, nhục nhã và xấu hổ” cậu nói, “Con không giải được công án này.”

“Đợi một tuần nữa và thiền liên tục,” Suiwo khuyên. Nhưng giác ngộ vẫn không đến được với cậu đệ tử. “Thử thêm một tuần nữa,” Suiwo nói. Người đệ tử vâng lời, nhưng cũng chỉ hoài công.

“Thêm một tuần nữa.” Nhưng lại cũng vô ích. Tuyệt vọng, người đệ tử năn nỉ xin về, nhưng Suiwo yêu cầu cậu thiền năm ngày nữa. Cũng chẳng có kết quả gì. Rồi Suiwo nói: “Thiền thêm 3 ngày nữa, nếu con không đạt được giác ngộ, thì con nên tự tử là hơn.”

Vào ngày thứ hai, cậu đệ tử giác ngộ.

Bình:

• Hakuin Ekaku (1686-1769 hay 1685-1768) là một trong những vì thiền sư có ảnh hưởng lớn nhất trên thiền tông Nhật Bản. Hakuin cải tiến và phát huy thiền Lâm Tế từ thời trì trệ và đốn mạt, chú tâm vào cách dạy dỗ khó khăn cổ truyền, và trộn lẫn thiền quán và công án thành cách luyện tập thường xuyên. Ảnh hưởng của Hakuin lớn đến mức tất cả các thiền sư Lâm Tế ngày nay đều là hậu nhân của Hakuin và dùng những phương cách luyện tập mà Hakuin đã dạy.

Cái bao của Hotei - tranh Hakuin

Hakuin chính là thiền sư “Vậy à” ta đã nói trước đây.

Suiwo vị thầy trong bài này là học trò của Hakuin.

• Bài này nói đến nỗ lực dữ dội để đạt giác ngộ. Không đạt giác ngộ được nếu ta không cực lực cố gắng để hiểu biết.

• Thường thì thầy biết khi nào trò sắp nắm được chân lý. Nên những lúc đó nếu trò muốn bỏ cuộc, thầy sẽ ép trò đi tiếp một tí nữa để đến thành công.‎

• Tại sao “giác ngộ” có vẻ gì thật là bí ẩn như thế? Cả bao năm người học trò cứ cảm thấy mình vẫn bế tắc ngu si trơ trơ như đá, đến mức cứ đòi bỏ cuộc. Rồi đùng một cái thì “hốt nhiên đại ngộ” như là trong tối tự nhiên có một công tắc bật đèn sáng choang, chứ không phải như học toán mỗi ngày hiểu thêm một tí, từ toán cộng, lên trừ, lên nhân, lên chia, lên phân số…?

Thưa, vì chúng ta có thói quen suy nghĩ với luận lý‎ con người: Có cái bàn, thì có ông thợ mộc. Có vũ trụ thì có người làm ra, gọi là Thượng đế. Vậy thì ai sinh ra Thượng đế? Bố TĐ. Lên đến ông nội TĐ, ông cố TĐ… không bao giờ ngưng, dù có suy nghĩ 100 năm.

Con gà có trước hay cái trứng có trước? Suy nghĩ 100 năm.

Trước khi tôi sinh ra, tôi đã từ đâu đến? Chết rồi tôi đi đâu? Suy nghĩ 100 năm.

Cho nên tư tưởng của người suy tư có thể chạy vòng tròn như kiến bò miệng đĩa, bế tắc hoài, không đi đâu được cả, muôn năm.

Cho nên lúc ta đã suy luận hết cách, biết là vô ích, và dẹp bỏ mọi suy luận đó đi, và bắt đầu cảm nhận bằng xúc cảm và trực nghiệm, tức là cảm nhận trực tiếp trong lòng mà không cần suy nghĩ, một điều gì đó sâu xa hơn là suy‎ luận, như là: “Thượng đế là tình yêu—trong ta, trong mọi người, và nối kết mọi người lại với nhau”, hay “tất cả mọi thứ chỉ đều là những lọn sóng của một đại dương Sự Thật mà ta gọi là Không”.

Những điều này ta có thể hiểu tí ti bằng suy luận, nhưng thực ra ta chỉ thực sự hiểu được bằng cảm nhận rất rõ trong lòng. Cũng như là tình yêu. Chỉ có yêu là hiểu được tình yêu; không thể diễn tả bằng ngôn ngữ hay l‎ý luận.

Tranh Hakuin Ekaku

Khi ta dẹp bỏ suy luận và bắt đầu cảm xúc và kinh nghiệm trực tiếp các điều này, tư nhiên ta bừng sáng trong đầu: “hốt nhiên đại ngộ”, như người mới khám phá được tình yêu: “Ồ, đây là tình yêu, vậy mà trước nay đọc sách hoài mà chẳng biết nó thế nào.”

• Ta đã nói về “Tiếng vỗ của một bàn tay” trước đây.

• Từ “giác ngộ” (enlightened, Satori trong tiếng Nhật) không có cùng nghĩ với từ giác ngộ nguyên thủy dùng trong Phật gia. Theo truyền thống, giác ngộ có nghĩa là đạt được tĩnh lặng và hiểu biết đến mức thành Bồ tát, thành Phật. Satori trong thiền tông Nhật Bản là một mức độ hiểu biết và trực nghiệm về “tĩnh thức” đủ để được thầy xác nhận là mình có thể làm thầy (Roshi). Đây là bước đầu tiên, trong nhiều bước giác ngộ, với bước cuối cùng là Niết Bàn.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

.

Three Days More

Suiwo, the disciple of Hakuin, was a good teacher. During one summer seclusion period, a pupil came to him from a southern island of Japan.

Suiwo gave him the problem: “Hear the sound of one hand.”

The pupil remained three years but could not pass the test. One night he came in tears to Suiwo. “I must return south in shame and embarrassment,” he said, “for I cannot solve my problem.”

“Wait one week more and meditate constantly,” advised Suiwo. Still no enlightenment came to the pupil. “Try for another week,” said Suiwo. The pupil obeyed, but in vain.

“Still another week.” Yet this was of no avail. In despair the student begged to be released, but Suiwo requested another meditation of five days. They were without result. Then he said: “Meditate for three days longer, then if you fail to attain enlightenment, you had better kill yourself.”

On the second day the pupil was enlightened.

# 25