Trên đường hành hương
Dừng chân bên hồ vắng
Trời trong xanh
Nước trong xanh
Ném viên sỏi vào mặt hồ tĩnh lặng
Ô những vòng đồng tâm
Của lòng ta gợn sóng
Một cánh hồng hạc
Lao xuống lòng hồ rồi lại vút lên
Mất hút vào quãng trời không
Những vòng sóng lăn tăn
Lại biến tan vào tĩnh lặng
Mây trắng
Lững lờ đáy nước
Tựa gốc phong già
Lá tím gió nắng lao xao
Con đường hành hương đất đỏ
Hun hút dài, hun hút cao
Qua dải đồi chiều
Biến mất sau cánh đồng thông
Về hướng rừng phong chập chùng vách núi
Trước đây, trong bài Đường Thật chúng ta đã nói đến thi sĩ thiền sư Ikkyu, được xem như thiền sư có ảnh hường mạnh nhất trong văn hóa phổ thông của Nhật ngày nay, kể cả trong cách sách truyện bằng tranh cho trẻ em. Trong “Đường Thật” chúng ta đã nói đến bài Các Bộ Xương, một bài thơ lớn trong văn học thiền tông Nhật Bản.
Hôm nay hãy cùng đọc hai bài thơ nhỏ, nhưng rất ý nhị, của thi sĩ thiền số một này: Bạn, và Người Ngư Phủ.
Bạn
Chỉ một công án đáng giải
Bạn
You
Only one koan matters
You
Người ngư phủ
Học kinh và thiền cứng ngắc có thể làm bạn mất Chân Tâm.
Nhưng dòng nhạc đơn chiếc của người ngư phủ có thể là kho tàng vô giá.
Mưa chiều trên sông, trăng lấp ló giữa những làn mây;
Tuyệt vời không tả được, hằng đêm người ngư phủ hát.
A Fisherman
Studying texts and stiff meditation can make you lose your Original Mind.
A solitary tune by a fisherman, though, can be an invaluable treasure.
Dusk rain on the river, the moon peeking in and out of the clouds;
Elegant beyond words, he chants his songs night after night.
Trước khi Ninakawa qua đời thiền sư Ikkyu đến thăm ông. “Tôi dẫn độ cho anh nhé?” Ikkyu hỏi.
Ninikawa trả lời: “Tôi đến đây một mình và tôi đi một mình. Thiền sư giúp tôi được gì?”
Ikkyu nói: “Nếu anh nghĩ là anh thật có đến và đi, đó là ảo tưởng của anh. Để tôi chỉ cho anh con đường trên đó chẳng có đến, chẳng có đi.”
Với các lời giảng, Ikkyu đã chỉ ra con đường rõ ràng đến nỗi Ninakawa mỉm cười và từ trần.
.
Bình:
• Ikkyu chính là người con trai nhận di chúc của mẹ trong bài Di Chúc ta đã nói qua. Người ta nói rằng Ikkyu là con không chính thức của Thiên hoàng Go-Komatsu.
Ikkyū (一休宗純 Ikkyū Sōjun, 1394-1481) là một thiền sư và thi sĩ lập dị hàng đầu trong lịch sử Thiền tông Nhật Bản. Ikkyu học nhiều thầy, nhưng không thích chùa chiền và cái mà Ikkyu cho là đạo đức giả và sự lười biếng của các nhà sư, nên chỉ sống lang thang ngoài đường. Tuy vậy Ikkyu vẫn có nhiều bạn bè trong giới thi ca và nghệ sĩ.
Ikkyu thích ăn ngon, thi ca, âm nhạc, và công khai ca tụng tình dục (sex) như là một phần tự nhiên của đời sống con người. Ikkyu có người yêu là cô ca kỹ mù Mori và làm một số bài thơ về nàng. Người ta cho rằng Ikkyu là người đã tạo ra truyền thống Thiền Chỉ Đỏ (Red Thread Zen), một nhánh của thiền Lâm Tế chấp nhận tình dục (sex) và cho phép các sư và ni được lập gia đình.
Dù Ikkyu thích đi lang thang và không ưa chùa chiền, khi chùa Daitoku-ji, một chùa Lâm Tế lớn ở Tokyo, bị hủy hoại trong trận nội chiến Ōnin (応仁の乱 Ōnin no Ran, 1467 – 1477), Thiên hoàng Go-Tsuchimikado chỉ định Ikkyū làm sư trụ trì. Ikkyu bất đắc dĩ phải nhận lời, và có công rất lớn trong việc gầy dựng chùa này trở lại. Chức vụ này cũng đặt Ikkyu vào vị trí truyền nhân chính thức và quan trọng của dòng thiền Lâm Tế.
Ikkyu có ảnh hường rất lớn trong văn hóa phổ thông của Nhật ngày nay. Các trẻ em xem Ikkyu là một anh hùng, thường xuyên phê phán quan chức sư sãi. Có rất nhiều sách truyện và phim hoạt hoạ trẻ em nói về cuộc đời Ikkyu.
Ikkyu cũng ảnh hưởng nhiều đến thi ca và nghệ thuật Nhật và góp phần lớn trong việc đưa Thiền vào mọi lãnh vực của đời sống Nhật.
• Ikkyu đã nói gì với Ninakawa?
Dĩ nhiên là ta không biết. Tuy nhiên, Ikkyu có để lại nhiều bài thiền thi, trong đó bài nổi tiếng nhất là “Các Bộ Xương” (Skeletons), tóm tắt những điều quan trọng để “để lại” như là một di chúc. Có lẽ điều gì đó Ikkyu đã nói với Ninakawa cũng không ngoài bài thơ này. Bài thơ nói sâu hơn về các điểm mà mẹ của Ikkyu đã để lại cho Ikkyu trong chúc thư ngắn ngủi của bà nhiều năm về trước, chứng tỏ là lời mẹ đã không bao giờ phai trong lòng Ikkyu.
Các Bộ Xương, một tuyệt tác văn chương, với đạo pháp sâu sắc:
Các bộ xương
Này các thiền sinh, hãy tọa thiền chăm chỉ, và các bạn sẽ nhận ra rằng tất cả mọi thứ sinh ra trên đời này rốt cuộc chỉ là không, kể cả chính ta và mặt mũi nguyên thủy của hiện hữu. Tất cả mọi thứ đều từ không mà ra. Cái không nguyên thủy là “Phật”, và tất cả các từ tương tự khác — Phật tính, Phật vị, Phật tâm, Giác Ngộ, Tổ, Thượng đế — chỉ là những cách diễn tả khác nhau của cùng một cái không. Hiểu sai điều này thì bạn sẽ rơi vào địa ngục.
Một đêm… một bộ xương thảm hại hiện ra và nói những lời này:
Một cơn gió thu buồn rầu
Thổi qua thế giới
Cỏ tranh dợn sóng,
Trong khi chúng ta trôi đến đầm lầy,
Trôi ra biển.
Làm được gì
Với tâm trí của một người
Lẽ ra thì nên sáng
Nhưng dù hắn choàng áo thầy tu
Hắn chỉ để cuộc đời vuột qua hắn?
Gần sáng tôi thiếp đi, và trong mơ tôi thấy tôi bị nhiều bộ xương bao vây… Một bộ xương đến gần tôi và nói:
Ký ức
Bỏ chạy và
Không còn hiện diện.
Tất cả đều là những giấc mơ trống rỗng
Chẳng ý nghĩa gì.
Vi phạm sự thật của vạn vật
Và lảm nhảm về
“Thượng đế” và “Phật”
Thì bạn sẽ không bao giờ tìm thấy
Đường thật.
Tôi thích bộ xương này… Hắn thấy mọi sự rất rõ, như chúng là. Tôi nằm đó với tiếng gió giữa những hàng thông thì thầm trong tai và ánh trăng thu nhảy múa trên mặt.
Cái gì không là mơ? Ai sẽ không kết thúc là một bộ xương? Chúng ta hiện diện như là những bộ xương có da bao bọc – đàn ông đàn bà – và mê đắm nhau. Nhưng khi hơi thở chấm dứt, da vỡ, sinh lý biến mất, và chẳng còn cao thấp. Bên dưới lớp da của người mà ta đang ôm ấp vuốt ve chẳng gì khác hơn là một bộ xương khô. Hãy nghĩ đến điều đó – cao và thấp, trẻ và già, đàn ông và đàn bà, tất cả đều như nhau. Hãy tỉnh thức về điều hệ trọng này và bạn sẽ lập tức hiểu ý nghĩa của “không sinh và không tử”.
Nếu các mảnh đá
Có thể là vật nhắc nhở
Đến người chết,
Thì các cối giã trà
Có thể là mộ bia tốt hơn.
Con người thật sự là những sinh linh đáng sợ.
Một vầng trăng
Sáng và trong
Trên bầu trời không một gợn mây;
Vậy mà chúng ta loạng choạng
Trong bóng tối của thế giới.
Nhìn kỹ đi – ngưng thở, gỡ lớp da, và tất cả mọi người rốt cuộc nhìn như nhau. Không cần biết bạn sống bao lâu, kết quả không thay đổi (kể cả hoàng đế). Vất đi cái ý niệm là “tôi hiện hữu.” Trao thân mình cho những đám mây trôi trong gió, và đừng mong sống mãi.
Thế giới này
Chỉ là
Cơn mơ thoáng qua
Vậy sao lại run sợ
Nó biến mất?
Quãng đời của bạn đã được định sẵn và mọi cầu khẩn với thần linh để kéo dài nó ra đều vô ích. Hãy tập trung tâm trí vào một vấn đề lớn của sống và chết. Đời sống tận cùng bằng sự chết, đó là điều hiển nhiên.
Các đột biến của cuộc đời
Dù đau nhức,
Dạy chúng ta
Đừng bám chặt
Vào thế giới phù du này.
Tại sao người ta
Tốn phí trang sức
Trên bộ xương này
Khi nó đã được định phải biến mất
Chẳng lưu dấu vết?
Thân thể nguyên thủy
Phải trở về
Nơi nguyên thủy của nó:
Đừng tìm
Cái không tìm được.
Không ai thực sự biết
Bản chất của sinh
Hoặc nơi ở thật:
Chúng ta trở về nguồn
Và trở thành cát bụi.
Nhiều con đường bắt đầu
Từ chân núi
Nhưng tại đỉnh núi
Tất cả chúng ta ngắm nhìn
Một vầng trăng sáng.
Nếu tại cuối cuộc hành trình
Không có nơi
An nghỉ cuối cùng
Thì chúng ta không cần phải sợ
Lạc đường.
Không có khởi đầu,
Không có chấm dứt;
Tâm ta
Sinh ra và chết:
Cái không của không!
Lơ đểnh
Và tâm
Chạy loạn xạ;
Kiểm soát tâm
Và bạn có thể gạt nó sang một bên.
Mưa, mưa đá, tuyết và băng:
Tất cả đều rời rạc
Nhưng khi rơi xuống
Chúng trở thành một dòng nước
Của con suối trong lòng thung lũng.
Những cách hiển lộ
Chân Tâm đều khác nhau
Nhưng trong mỗi một cách
Ta có thể thấy
Cùng một sự thật thiêng liêng.
Hãy lấp kín con đường của bạn
Bằng lá thông rụng
Để không ai có thể
Biết được
Nơi ở thật của bạn.
Thật vô ích
Những tang lễ không ngừng trên núi Toribe:
Những người than khóc không nhận ra
Họ sẽ là người kế tiếp hay sao?
“Cuộc đời phù du!”
Chúng ta suy tư nhìn cảnh
Khói bay trên núi Toribe:
Nhưng khi nào chúng ta nhận ra
Rằng ta đang ở trên thuyền hỏa táng?
Tất cả chỉ là hão huyền!
Sáng nay,
Một người bạn khỏe mạnh,
Chiều nay,
Vài sợi khói hỏa táng.
Tội nghiệp!
Khói chiều trên núi Toribe
Bị thổi lồng lộn
Tới lui
Với gió.
Khi hỏa táng
Nó thành tro,
Và thành đất khi chôn.
Phải chăng chỉ có tội lỗi của ta
Là còn sót lại?
Tất cả tội lỗi
Đã phạm
Trong ba thế giới (*)
Sẽ phai mất
Cùng với tôi.
Thế giới là vậy đó. Những kẻ không nắm được lẽ vô thường của thế giới kinh ngạc và sợ thất thần vì những thay đổi đó. Rất ít người ngày nay kiếm tìm sự thật của Phật pháp, và các tu viện thì trống rỗng. Các sư ngày nay đa số là dốt nát và lãng tránh ngồi thiền như là một phiền phức; họ lười biếng thiền định, họ tập trung vào trang trí chùa chiền. Thiền tọa của họ là giả tạo, và họ chỉ mang mặt nạ các nhà sư – những chiếc áo chùng họ mang sẽ trở thành những bộ áo giáp tra tấn một ngày nào đó.
Trong vũ trụ của sinh và tử, sát sinh sẽ đưa vào địa ngục, tham lam đưa đến tái sinh thành ma đói; si mê làm người ta tái sinh thành súc vật; sân hận biến người ta thành quỷ. Tuân theo giới luật và bạn sẽ tái sinh là người. Làm việc thiện và bạn sẽ lên hàng trời. Trên sáu cõi này còn bốn cấp độ của Phật tử Trí Tuệ, tổng cộng là 10 cõi giới. Tuy nhiên, một Niệm Giác Ngộ cho thấy tất cả các cõi giới này đều là không, chẳng có gì giữa chúng, và ta chẳng nên ghê tởm, sợ hãi hay ham mê chúng. Hiện hữu chẳng là gì hơn một làn mây mỏng trên bầu trời mênh mông hay bọt bóng trên mặt nước. Không một niệm nào khởi sinh trong tâm, nên không có điều gì được tạo sinh. Tâm và vật là một, và là không, tuyệt đối chẳng nghi ngờ.
Sự sinh của con người cũng như lửa – bố là đá lửa, mẹ là hòn đá, và tia lửa tóe ra là đứa con. Lửa được khởi sinh từ các thành tố căn bản và cháy cho đến khi hết nguyên liệu. Sự ân ái giữa bố và mẹ tóe ra tia sống. Vì bố mẹ không có điểm khởi đầu, nên họ cũng chập choạng mờ ra; tất cả mọi thứ đến từ không – nguồn của mọi hình sắc. Hãy tự giải thoát mình khỏi hình sắc và trở về với nền tảng khởi thuỷ của hiện hữu. Từ nền tảng này, cuộc đời đi ra, nhưng hảy xả bỏ luôn cả ý niệm này.
Chẻ toang ra
Một cây se-ri
Và chẳng có đóa hoa nào cả
Nhưng gió xuân
Mang đến hàng loạt bông hoa!
Không có cầu
Nhưng mây đi lên nhẹ nhàng
Đến tận thiên đàng;
Chẳng cần phải lệ thuộc vào điều gì cả
Phật Thích Ca dạy.
Phật Thích Ca thuyết pháp trong 50 năm, và khi đệ tử Ca Diếp hỏi ngài tinh yếu của giáo pháp, Phật nói, “Từ đầu đến cuối ta chưa hề nói lời nào,” và đưa lên một đóa hoa. Ca Diếp mỉm cười và Phật trao đóa hoa cho Ca Diếp, và nói những lời này: “Con đã nắm được Diệu Tâm của Chánh Pháp.” “Ý thầy là sao?” Ca Diếp hỏi. “Năm mươi năm thuyết giảng của thầy,” Phật nói, “hằng mời gọi con luôn luôn, như là gọi đứa trẻ vào vòng tay với lời hứa phần thưởng.”
Đóa hoa giáo pháp này không thể diễn tả được bằng vật thể, ý niệm hay lời nói. Nó không phải là vật chất hay tâm linh. Nó không phải là kiến thức. Giáo Pháp của chúng ta là Đóa Hoa của Một Cổ Xe chở tất cả Phật của quá khứ, hiện tại và tương lai. Nó mang 28 tổ sư Ấn Độ và 6 tổ sư Trung quốc; nó là nền tảng nguyên thủy của hiện hữu – tất cả hiện hữu. Tất cả mọi sự đều không có điểm khởi đầu và như vậy tất cả đều gồm trong nó. Tám cảm quan (**), bốn mùa, tứ đại (đất, nước, lửa, gió), tất cả đều đến từ không, nhưng ít người nhận ra điều này. Gió là hơi thở, lửa là hoạt động, nước là máu; khi xác thân bị chôn hay đốt nó trở thành đất. Nhưng tứ đại cũng không có khởi đầu và chẳng bao giờ trường tồn.
Trong thế giới
Mọi thứ, chẳng trừ gì,
Đều không thật:
Ngay cả sự chết cũng là
Hư ảo.
Ảo tưởng tạo ra ảo ảnh là dù thân xác chết, linh hồn vẫn tồn tại – đây là một lầm lỗi lớn. Người giác ngộ nói rằng cả thân xác và linh hồn tan biến với nhau. “Phật” là không, và trời và đất trở về với nền tảng nguyên thủy của hiện hữu. Tôi đã gạt qua một bên 80 ngàn quyến kinh và gởi đến các bạn tinh túy trong quyển ngắn này. Nó sẽ mang an lạc đến với các bạn.
Viết điều gì
Để lại
Cũng lại là một loại mơ nữa
Khi tôi tỉnh thức tôi biết rằng
Sẽ chẳng có ai đọc nó.
Thiền sư Ikkyu
Trần Đình Hoành dịch từ tiếng Anh
TĐH chú thích:
(*) Ba thế giới (tam giới) là dục giới (thế giới của ham muốn), sắc giới (thế giới của hình sắc), vô sắc giới (thế giới vô hình).
(**) Tám giác quan đây là ngũ quan của cơ thể – sắc, thanh, hương, vị, xúc – và 3 cảm quan về ý: ý thức, mạt-na thức, a-lại-da thức.
Skeletons
Students, sit earnestly in zazen, and you will realize that everything born in this world is ultimately empty, including oneself and the original face of existence. All things indeed emerge out of emptiness. The original formlessness is the “Buddha,” and all other similar terms — Buddha-nature, Buddhahood, Buddha-mind, Awakened One, Patriarch, God — are merely different express- ions for the same emptiness. Misunderstand this and you will end up in hell.
One night . . . a pitiful -looking skeleton appeared and said these words:
A melancholy autumn wind
Blows through the world;
The pampas grass waves,
As we drift to the moor,
Drift to the sea.
What can be done
With the mind of a man
That should be clear
But though he is dressed up in a monk’s robe,
Just lets life pass him by?
Toward dawn I dozed off, and in my dream I found myself surrounded by a group of skeletons . . . . One skeleton came over to me and said:
Memories
Flee and
Are no more.
All are empty dreams
Devoid of meaning.
Violate the reality of things
And babble about
“God” and “the Buddha”
And you will never find
the true Way.
I liked this skeleton . . . . He saw things clearly, just as they are. I lay there with the wind in the pines whispering in my ears and the autumn moonlight dancing across my face.
What is not a dream? Who will not end up as a skeleton? We appear as skeletons covered with skin — male and female — and lust after each other. When the breath expires, though, the skin ruptures, sex disappears, and there is no more high or low. Underneath the skin of the person we fondle and caress right now is nothing more than a set of bare bones. Think about it — high and low, young and old, male and female, all are the same. Awaken to this one great matter and you will immediately comprehend the meaning of “unborn and undying.”
If chunks of rock
Can serve as a memento
To the dead,
A better headstone
Would be a simple tea-mortar.
Humans are indeed frightful beings.
A single moon
Bright and clear
In an unclouded sky;
Yet still we stumble
In the world’s darkness.
Have a good look — stop the breath, peel off the skin, and everybody ends up looking the same. No matter how long you live the result is not altered[even for emperors]. Cast off the notion that “I exist.” Entrust yourself to the wind-blown clouds, and do not wish to live for ever.
This world
Is but
A fleeting dream
So why be alarmed
At its evanescence?
Your span of life is set and entreaties to the gods to lengthen it are to no avail. Keep your mind fixed on the one great matter of life and death. Life ends in death, that’s the way things are.
The vagaries of life
Though painful,
Teach us
Not to cling
To this floating world.
Why do people
Lavish decoration
On this set of bones
Destined to disappear
Without a trace?
The original body
Must return to
Its original place:
Do not search
For what cannot be found.
No one really knows
The nature of birth
Nor the true dwelling place:
We return to the source,
And turn to dust.
Many paths lead from
The foot of the mountain
But at the peak
We all gaze at the
Single bright moon.
If at the end of our journey
There is no final
Resting place
Then we need not fear
Losing our way.
No beginning,
No end;
Our mind
Is born and dies:
The emptiness of emptiness!
Let up
And the mind
Runs wild;
Control the [mind]
And you can cast it aside.
Rain, hail, snow, and ice:
All separate
But when they fall
They become the same water
Of the valley stream.
The ways of proclaiming
The Mind all vary
But the same heavenly truth
Can be seen
In each and every one.
Cover your path
With fallen pine needles
So no one will be able
To locate your
True dwelling place.
How vain
The endless funerals at the
Cremation grounds of Mount Toribe:
Don’t the mourners realize
That they will be next?
“Life is fleeting!”
We think at the sight
Of smoking drifting from Mount Toribe:
But when will we realize
That we are in the boat?
All is vain!
This morning,
A healthy friend;
This evening,
A wisp of cremation smoke.
What a pity!
Evening smoke from Mount Toribe
Blown violently
To and fro
By the wind.
When burned
It becomes ashes,
And the earth when buried.
Is it only our sins
That remain behind?
All the sins
Committed
In the Three Worlds
Will fade away
Together with me.
This is how the world is. Those who have not grasped the world’s impermanence are astonished and terrified by such change. Few today seek Buddhist truth, and the monasteries are largely empty. Priests now are mostly ignorant and shun zazen as a bother; they are derelict in their meditation, concentrating on decorating their temples. Their zazen is a sham, and they are merely masquerading as monks – the robes they sport will become the heavy coats of torture someday.
Within the cosmos of birth and death, the taking of life leads to hell; greed leads to rebirth as a hungry ghost; ignorance causes one to be reborn as an animal; anger turns one into a demon. Follow the precepts and you will attain rebirth as a human being. Do good deeds and you ascent to the level of the gods. Above these six realms there are four levels of the Wise Buddhists, altogether ten realms of existence. However, One Thought of Enlightenment reveals them to be formless, with nothing in between, and not to be loathed, feared, or desired. Existence is perceived as being nothing more than a wispy cloud in the vast sky or foam on the water. No thoughts arise in the mind, so no elements are created. Mind and objects are one and empty, beyond any doubts.
Human birth is like a fire – the father is the flint, the mother the stone, and the resulting spark is the child. The fire is ignited with the base elements and burns until it exhausts the fuel. The lovemaking between the father and mother produces the spark of life. Since the parents are without beginning, they too flicker out; all things emerge from emptiness – the source of every form. Free yourself from forms and return to the original ground of being. From this ground, life issues forth, but let go of this too.
Break open
A cherry tree
And there are no flowers
But the spring breeze
Brings forth myriad blossoms!
Without a bridge
Clouds climb effortlessly
To heaven;
No need to rely on
Anything Gotama Buddha taught.
Gotama Buddha proclaimed the Dharma for fifty years, and when his disciple Kashyapa asked him for the key to his teaching, Buddha said, “From beginning to end I have not proclaimed a single word,” and held up a flower. Kashyapa smiled and Buddha gave him the flower, saying these words: “You posses the Wondrous mind of the True Law.” “What do you mean?” asked Kashyapa. “My fifty years of preaching,” Buddha told him, “has been beckoning to you all the while, just like attracting a child into one’s arms with the promise of a reward.”
This flower of the Dharma cannot be described in physical, mental or verbal terms. It is not material or spiritual. It is not intellectual knowledge. Our Dharma is the Flower of the One Vehicle carrying all the Buddhas of the past, present, and future. It holds the twenty-eight Indian and six Chinese patriarchs; it is the original ground of being – all there is. All things are without beginning and are thus all-inclusive. The eight senses, the four seasons, the four great elements (earth, water, fire, wind), all originate in emptiness, but few realize it. Wind is breath, fire is animation, water is blood; when the body is buried or burned it becomes earth. Yet these elements too are without beginning and never abide.
In this world,
All things, without exception,
Are unreal:
Death itself is
An illusion.
Delusion makes it appear that though the body dies, the soul endures – this is a grave error. The enlightened declare that both body and soul perish together. “Buddha” is emptiness, and heaven and earth return to the original ground of being. I’ve set aside the eighty thousand books of scripture and given you the essence is this slim volume. This will bring you great bliss.
Writing something
To leave behind
Is yet another kind of dream
When I awake I know that
There will be no one to read it.
Zen Master Ikkyu
John Stevens translated from Japanese
(Trần đình Hoành dịch và bình)
.
The True Path
Just before Ninakawa passed away the Zen master Ikkyu visited him. “Shall I lead you on?” Ikkyu asked.
Ninakawa replied: “I came here alone and I go alone. What help could you be to me?”
Ikkyu answered: “If you think you really come and go, that is your delusion. Let me show you the path on which there is no coming and going.”
With his words, Ikkyu had revealed the path so clearly that Ninakawa smiled and passed away.
Mù sương che khuất dãy đồi
Triền non mây đọng chắn đôi địa đàng
Tùng lay huyễn ảo sơ hoang
Bỗng từ đỉnh núi rực vàng ánh dương
TĐH
LOW, 10:14 am, Sun., Feb. 28, 2010
Beginning of the day
The fog hides the hills
On mountainside the cloud freezes and divides the earth
The pines sway unreal and primordial
Suddenly from the mountaintop come the golden sunrays
translated by TĐH
LOW, 4:51 pm, Wed. March 3, 2010
Ngồi yên giữa cõi vô cùng
Bỗng dưng sao đến từ vùng vô biên
Hằng hà sa số quang niên
Cớ gì nay gặp giữa triền mênh mông
Nợ duyên nào đã gieo trồng
Từ vô lượng giữa cánh đồng thời gian
Nên giờ có dịp hỏi han
Gởi về một mảnh bình an thiên hà
Cảm ơn em lại gặp ta…
Chào các bạn Lý Thái Tổ
Hôm nay chúng ta bàn đến một bài thiền thi của thiền sư Vạn Hạnh, dạy học trò, đã đăng trước đây trong PPS Thiền Thi (Lý Trần). Thiền sư Vạn Hạnh họ Nguyễn, sinh vào khoảng năm 932, người làng Cổ Pháp, phủ Thiên Đức (hiện nay là làng Đại Đình, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh). Ngài xuất giá ở chùa Lục Tổ, là học trò của Thiền Ông. Ngài thuộc thế hệ thứ 7 của dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi của chùa Pháp Vân.
Thiền Sư Vạn Hạnh đã từng giúp vua Lê Đại Hành trị quốc, nhưng khi thấy vua Lê Long Đĩnh không còn là minh quân, thiền sư Vạn Hạnh đã cùng với Đào Cam Mộc sắp xếp việc triều chính và đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua hiệu Lý Thái Tổ năm 1009.
Vào ngày rằm, tháng 5, năm Ất sửu, Thuận Thiên 16 (1025), ở chùa Lục Tổ, trước lúc qua đời, thiền sư đã gọi học trò đến dặn dò trong bài Thị đệ tử sau:
Thị đệ tử
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
Quốc sư Vạn Hạnh
(Nguyễn Vạn Hạnh ?-1018)
Việt dịch:
Dạy học trò
Thân như điện chớp, có thành không
Cỏ cây xuân thắm, thu héo tong
Suy thịnh vào tay, lòng không sợ
Thịnh suy như sương bám cỏ đồng
TĐH dịch
Thân như điện chớp có thành không.
Thời xưa người ta gọi ánh chớp trên trời là điện. Thân ta như điện chớp tức là có đó và biến mất ngay, có thành không. Tức là nói đến cái phù du tạm bợ của thân này.
“Có thành không” trong bản chữ Hán là “hữu hoàn vô”, tức là “có trở về không.” Trở về, như vậy có nghĩa là, trước là không, sau mới thành có, sau đó lại trở về không.
Tức là, “không” đây chẳng có nghĩa là “không có” theo nghĩa triệt tiêu, zero. “Không” đây là tên của bản tính nguyên thủy, bản tính đầu tiên, của tất cả mọi thứ trong vũ trụ. Vì vậy, ta nên viết hoa cho dễ hiểu–Không
Người ta hay dùng hình ảnh “nước và sóng” để diễn tả “Không và có”. Nước là bản tính nguyên thủy, sóng là hiện tượng bề mặt. Nước thì luôn ở đó, nhưng mỗi con sóng thì chỉ hiện ra vài mươi giây là biến mất. Sóng tan lại “trở về” nước. Thân ta tan biến, lại trở về Không.
Như vậy khi chết đi, cái thân như ánh chớp này lại trở về bản tính nguyên thủy của mình là “Không”. Chết chẳng phải là hết, mà là trở về bản tính nguyên thủy—Không.
Cỏ cây xuân thắm, thu héo tong
Có sinh thì có tử. “Thành, Trụ, Hoại, Không” là bốn thời kỳ sống của vạn vật—sinh ra, đứng vững, hư hại, tan biến.
Cây cỏ mùa xuân nẩy sinh mầm sống, hạ là thời sống mạnh, thu là vào giai đoạn héo úa, đông là chết.
Con người có sinh thì có tử, cũng là lẽ tự nhiên. Tử có nghĩa là thân này tan biến đi để trở về Không.
Vậy thì việc gì mà sợ chết? Việc gì mà các đệ tử phải sợ, phải buồn việc thầy chết?
Suy thịnh vào tay, lòng không sợ. Thịnh suy như sương bám cỏ đồng.
Khi xuống khi lên, khi thắng khi thua, khi thành khi bại, khi suy khi thịnh, cũng là lẽ tự nhiên. Cả một đời người cũng chỉ là một ánh chớp, thì bao nhiêu suy thịnh lên xuống trong đời đó còn nhỏ và nhanh hơn cả một ánh chớp. Mong manh phù du như giọt sương trên đầu cỏ, sẽ tan biến ngay dưới những ánh mặt trời đầu tiên. Có gì mà phải quan trọng hóa chúng? Có gì mà phải sợ?
Sống chết cũng chỉ là một tí lên xuống suy thịnh, như sóng lên sóng xuống, của vòng luân lưu “có hoàn Không, Không sinh có”, mà thôi. Có gì mà phải sợ?
Chúng ta cần ghi chú thêm ở đây rằng, “không sợ” là một đức hạnh rất quan trọng trong đường tu Phật. Người Giác Ngộ có tâm tĩnh lặng, không sợ, không có bất kỳ nỗi sợ nào gây sóng gió trong tâm.
Trong 6 đường tu của Bồ tát (lục độ ba-la-mật), đường đầu tiên là bố thí—bố thí tiền (tài thí), bố thí Phật pháp (pháp thí), và bố thí tính không-sợ (vô úy thí). Trong ba loại bố thí này, thì bố thí cao quí nhất là “vô úy thí”, tức là “bố thí tính không-sợ,” là mang cho người ta sự can đảm và đức bình tĩnh.
Tóm lại, bài thơ này, nhắn nhủ đệ tử trước khi chết, rằng sống chết là lẽ tự nhiên. Thân này cũng chỉ phù du như ánh chớp. Đang có và sẽ trở về Không. Cũng chỉ là thịnh suy của sóng lên sóng xuống, sóng sinh và sóng tan, trên mặt biển. Chẳng có gì phải lo sợ.
Binh thản đối diện cái chết.
Bình thản đối diện thịnh suy thắng bại ở đời.
Bình thản đối diện cuộc đời.
Không sợ.
Không sợ thắng bại, thịnh suy, được mất, sống chết.
Trần Nhân Tông (1258-1308) là vua Đại Việt thứ ba của nhà Trần. Trước đó là Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông.
Sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, vua Trần Nhân Tông, dưới sự hướng dẫn của Tuệ Trung Thượng Sĩ, lên núi Yên Tử tu thiền, và tập hợp ba dòng thiền tại Việt Nam lúc đó là dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci), dòng Vô Ngôn Thông, và dòng Thảo Đường, thành Thiền phái Trúc Lâm, còn tồn tại cho đến ngày nay với Trúc Lâm Thiền Viện ở Đà Lạt do thiền sư Thích Thanh Từ chủ trì.
Hôm nay chúng ta sẽ nghiên cứu một bài thiền thi ngắn nhưng rất sâu sắc của vua Trần Nhân Tông, là bài Cư trần lạc đạo, vừa đăng gần đây trong slideshow Thiền Thi.
Cư trần lạc đạo
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu báo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
Trần Nhân Tông
(Trần Khâm 1258-1308)
Sống đời vui đạo
Sống đời vui đạo cứ tùy duyên
Đói thì ăn no mệt ngủ liền
Trong nhà có của, đừng tìm nữa
Nhìn cảnh vô tâm, hỏi chi thiền
TĐH dịch
• Sống đời vui đạo cứ tùy duyên. Sống đời vui đạo. Không phải là “trốn đời vui đạo” theo kiểu “Lan và Điệp” như mọi người thường lầm tưởng. Đời và đạo là sống và vui.
“Đời đạo là sống vui. Đạo đời là vui sống.”
Có “sống đời” thì mới “vui đạo” được. Vì đời là đạo và đạo là đời. Ngoài đời không có đạo, ngoài đạo không có đời. Như thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác nói trong Chứng Đạo Ca :
Vô minh thực tính tức phật tính
Huyễn hóa không thân tức pháp thân
Giải thích:
Bản tính thực của vô minh (si mê) chính là tính phật
“Thân không thực” huyền ảo này chính là thân (thực) của tất cả mọi thứ
Đây cũng chính là “sắc bất dị không, không bất dị sắc” (sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc) của Bát Nhã Tâm Kinh.
• Muốn “sống đời vui đạo” thì phải “tùy duyên” Chữ “duyên” là chữ bao gồm toàn bộ tư tưởng Phật học.
“Duyên” là nhân quả. Những gì xảy ra bây giờ là kết quả của tất cả mọi nguyên nhân (mọi nhân duyên) trước đó—một tích tắc trước cũng như vô lượng kiếp trước—và là nguyên nhân của những gì sau đó—một tích tắc sau cũng như vô lượng kiếp sau.
(Chỉ cần hiểu hết được lý lẽ của chữ duyên—thập nhị nhân duyên, mười hai bước nhân duyên của cuộc đời—là đã có thể giác ngộ thành Bích Chi Phật)
“Tùy duyên” là “theo duyên”. Nghĩa là chuyện gì xảy đến cũng có lý do của nó, cứ thuận theo đó mà sống–không cần phải chống lại nó, không cần phải phàn nàn về nó, không cần phải lo âu về nó, không cần phải stress về nó, như là:
• Đói thì ăn no, mệt ngủ liền.
Chẳng ai phàn nàn tại sao đói. Chẳng ai thắc mắc tại sao mệt. Chẳng ai đau khổ mỗi khi đói bụng hay buồn ngủ.
Vậy thì, bệnh thì tìm thuốc chữa, cần tiền thì đi làm kiếm tiền, cần thi đậu thì học, cần hết stress thì giải stress…
Việc gì phải làm thì làm, chẳng lý do gì phải stress, phải phàn nàn, phải trách móc, phải giận dữ, phải đau khổ, phải than thân trách phận, phải tiêu cực.
• Trong nhà có của, đừng tìm nữa.
Cái gì là báu vật vậy? USD? Hột xoàn mười mấy cara?
Không. Báu vật đó là cái tất cả mọi người trong thiên hạ đi tìm: Hạnh phúc.
Hạnh phúc: Nhà Phật gọi là Niết Bàn—hoàn toàn tĩnh lặng, hoàn toàn an lạc, thành người tĩnh thức, thành Phật.
Nhưng Niết Bàn không nằm ngoài ta—Niết Bàn đã có sẵn trong tâm ta. Phật cũng không nằm ngoài ta, Phật đã nằm sẵn trong tâm. Mỗi người chúng ta là Phật đang thành, là Niết Bàn sắp hiện.
Đừng tìm Phật bên ngoài, đừng tìm Niết Bàn bên ngoài. Trong nhà có của, đừng tìm nữa.
• Nhìn cảnh vô tâm, hỏi chi thiền.
Nhìn cảnh thì thấy cảnh, đừng “chú giải” thêm vào cảnh đó. Như là nhìn“mưa rơi trên mái hiên” thì thấy “mưa rơi trên mái hiên”, chứ đừng chú giải thêm là “mưa rơi trên mái hiên buồn tênh” hay “mưa rơi trên mái hiên như những bước nhảy nhót của người yêu.”
Phụ chú tình cảm chủ quan vào “cảnh” ta thấy, là có tâm ý.
Chỉ nhìn cảnh, thấy cảnh, nhưng không phụ chú, không tam quốc diễn nghĩa thêm vào, gọi là “không tâm ý”, tức là “vô tâm.”
“Nhìn cảnh vô tâm” tức là nhìn người chửi mình mà không nổi giận; nhìn bệnh tật đến với mình mà không sợ hãi; nhìn nguy hiểm trước mắt mà không kinh khiếp; nhìn đống vàng mà không hoa mắt; nhìn danh vị mà không ham hố; nhìn quyền lực mà không say mê; nhìn túi quần không một xu teng mà không mặc cảm; nhìn thân thể tật nguyền mà không tủi thân, nhìn thế lực địa vị trong tay mà không kiêu mạn…
Điều gì đến thì đến, điều gì phải làm thì làm. Đến thì đến, nhìn thì nhìn, làm thì làm, nhưng tâm luôn bình lặng, luôn thoải mái, luôn an lạc.
Đó là vô tâm.
Và đó là Hạnh phúc, là Niết Bàn, là Phật tính.
Đối cảnh vô tâm. Nhìn cuộc đời với con tim hoàn toàn tĩnh lặng.
Như thế thì không còn tham lan, sân hận, si mê, kiêu mạn, sợ hãi, làm cho tâm bị mù lòa nữa.
Lúc đó tự nhiên ta thấy được của báu đã có sẵn trong nhà—cái tâm tĩnh lặng của mình, Phật tính của mình, Niết Bàn của mình.
“Đối cảnh vô tâm” là Phật, là Niết Bàn, là an lạc, là Hạnh phúc.
Thế thì đâu cần phải hỏi chi đến thiền, hay tu, hay pháp?
Nguyên Hỏa là tên một bài thiền thi của đại sư Khuông Việt (Ngô Chân Lưu, 930-1011), sống vào thời Đinh Tiên Hoàng – Lý Công Uẩn. Bài này mới được đăng gần đây trong slideshow Thiền Thi. Hôm nay mình sẽ giải thích về bài này một tí, nhấn mạnh đến khía cạnh tư duy tích cực của bài thơ.
Lời dịch tiếng Việt của bài thơ như sau:
Lửa gốc
Trong cây đã có lửa
Có lửa nên sinh lửa
Nếu cây không có lửa
Cọ xát sao thành lửa
TDH dịch
Lời nguyên thủy Hán Việt là:
Nguyên hỏa
Mộc trung nguyên hữu hỏa
Nguyên hỏa phục hoàn sanh
Nhược vị mộc vô hỏa
Toàn toại hà do manh?
Đây là lấy ý từ việc tạo lửa bằng cách dùng hai thanh củi khô cọ vào với nhau. Các bạn trong quân đội, hướng đạo (boy or girl scouts), hay các đoàn thể thanh niên, học môn mưu sinh thoát hiểm, đều biết cách tạo lửa này.
Bài thơ rất giản dị rõ ràng, chẳng có gì bí hiểm cả. Nhưng, đại sư Khuông Việt muốn chuyển tải điều gì, ngoài việc tạo lửa nấu… mì vằn thánh chay? 🙂
Trong Phật học, dĩ nhiên “lửa” ở đây là nói về đích điểm cuối cùng của tu học, tức là giác ngộ, trí tuệ, hay Bát Nhã.
(Một chú thích nhỏ ở đây: Tất cả các từ này—trí tuệ, Bát Nhã, giác ngộ– hơi khác nhau một tí về khái niệm, nhất là khi chúng ta suy nghĩ theo luận lý Tây phương–mỗi từ phải có một nghĩa rõ ràng, khác các từ khác. Ví dụ: Bát Nhã là trí tuệ tối thượng, nhờ đó ta có thể đi đến giác ngộ. Bát Nhã là phương tiện và giác ngộ là mục tiêu. Tạm thời trong bài này, ta có thể cứ suy nghĩ theo kiểu Tây như thế. Nhưng theo cách suy tư triết lý của Phật gia, thì phương tiện và mục đích là một, Bát Nhã và giác ngộ là một. Nhưng tạm thời ta không cần quan tâm đến điểm rất tế nhị đó trong bài này).
Chúng ta thường nghĩ rằng trí tuệ hay giác ngộ là cái ta phải cố gắng để đạt, từ bên ngoài, từ sách vở kinh kệ, từ thầy cô. Mỗi ngày ta đạt thêm một tí, đi xa hơn một tí, lên cấp cao hơn một tí. Cho đến một ngày nào đó ta đạt đủ trí tuệ, và ta giác ngộ. A! Qua rồi, qua rồi, qua bờ rồi, qua bờ hết rồi, giác ngộ rồi, sướng quá! 🙂
Thế là ta ngỡ rằng ta đạt được trí tuệ và giác ngộ bằng cách gặt hái kiến thức và giác ngộ từ bên ngoài vào.
Nhưng, lửa đã có sẵn trong cây. Lửa không vào từ bên ngoài. Lửa có sẵn trong cây, và sẽ bùng ra khi có đủ điều kiện bùng ra, như là khi cây cọ sát vào nhau hay khi gặp sức nóng của mặt trời.
Khổng tử nói, Nhân chi sơ tính bản thiện. Thánh kinh nói, con người do Thượng đế tạo ra theo hình ảnh của Ngài với hơi thở của Ngài.
Nghĩa là, trí tuệ và giác ngộ–tức là con tim thiện hảo—của ta đã có sẵn trong ta từ nguyên thủy, khi gặp đủ điều kiện tốt, thì trí tuệ đó, giác ngộ đó, con tim thiện hảo đó, sẽ lộ diện. Trí tuệ, giác ngộ, con tim thiện hảo, không phải là cái ta lấy được từ bên ngoài, mà là cái ta đã có sẵn, nhưng ta không thấy, đến lúc ta hội đủ điều kiện thì chúng tự nhiên hiện ra (và ta “hốt nhiên đại ngộ”!).
Vậy nghĩa là sao?
Nghĩa là nếu bạn tin rằng bạn xấu xí, bẩn thỉu, tội lỗi, ngu dốt, số con rận, sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu… tức là bạn không thấy được chân tướng thiện hảo sáng láng của bạn. Chỉ cần vén được bức màn “vô minh” che mắt bạn, thì chân tướng thiện hảo sáng láng đó sẽ hiện ra.
Bức màn vô minh đó là gì?
Đó là suy tư tiêu cực về chính mình, tiêu cực về người khác, và tiêu cực về cuộc đời.
Là kiêu căng,
Là tham lam,
Là dối trá,
Là sân hận,
Là sợ hãi,
Là chỉ tin vào con mắt mà không suy xét sâu hơn,
Là con tim dao động không ngừng bởi tất cả những điều trên.
Chân tướng thiện hảo sáng láng của bạn sẽ hiện ra khi bạn chấm dứt được những điều trên–khi con tim bạn thanh tịnh tinh khiết.
Phúc cho những người có con tim tinh khiết, vì họ sẽ thấy được Thượng đế–tức là sẽ thấy được “hình ảnh và hơi thở của Thượng đế trong chính ta.”
Mỗi chúng ta là một viên kim cương. Bạn không thấy được điều đó sao?
Đừng mong cầu kim cương ở ngân hàng, hay ở các đại sư đại ni, hay ở những rừng sách vở kinh điển. Chính ta đã là viên kim cương sáng láng.
Hãy vén bức màn vô minh, thì trí tuệ hiện ra sáng láng, thì ta sẽ thấy được những điều ta đã không thấy và nhiều người đang không thấy. Và tâm ta sẽ điềm nhiên tự tại, không dao động với bao nhiêu khổ đau và stress do con tim dao động gây ra.
Mình mới làm xong slideshow này có 32 ảnh bonsai, 30 bài thơ thiền Hán Việt của hai đời Lý Trần (năm 900 đến 1400 sau công nguyên), và 30 bài thơ dịch tiếng Việt của các anh Nguyễn Duy, Nguyễn Bá Chung và Trần Đình Hoành. Bản nhạc nền Rejuvenation cũng rất thiền. Post đây để chia sẻ với các bạn.
Chúc các bạn một ngày tĩnh lặng !
Túy-Phượng
Click vào ảnh dưới đây để xem và download slideshow
Nhạn quá trường không Ảnh trầm hàn thủy Nhạn vô di tích chi ý Thủy vô lưu ảnh chi tâm
Thiền sư Hương Hải (1627-1715)
.
Nhạn và Bóng
Nhạn vút qua không Bóng chìm nước lạnh Để dấu: nhạn không có ý Giữ bóng: nước cũng vô tâm
Võ Đình (1933-2009)
.
A Wild Goose and Its Image
A wild goose, flies across the sky Its wings reflect in the cold water The bird does not mean to leave its image The water has no desire to retain it
(trích Hương Thiền, Võ Đình dịch)
.
Giải thích:
Nhạn bay qua trời, ta cho đó là THỰC. Ảnh nhạn bay dưới nước, ta cho đó là ẢO ẢNH. Nhưng nhạn bay rồi, không còn dấu tích, chỉ còn khoảng trời KHÔNG. Đó là Ý. Ảnh cũng thế, khi ảnh qua rồi không còn dấu tích, chỉ còn khoảng trời KHÔNG. Đó là TÂM. Mọi điều ta cho là THỰC hay ẢO ẢNH đều chỉ là ảnh hình trong khoảnh khắc. Chỉ có khoảng KHÔNG là tồn tại vĩnh viễn. KHÔNG đó chính là TÂM Ý. TÂM ta thanh tịnh như trời KHÔNG. Tất cả những gì đi qua tâm, dù ta cho là thực hay là ảo ảnh, cũng chỉ là phù du trong khoảnh khắc, như mây bay ngang trời. Mây đến mây đi. Trời KHÔNG luôn thanh tịnh. Đau đớn, buồn rầu, tủi hổ, hờn giận, mừng vui, thất vọng, tuyệt vọng, công hầu khanh tướng–tất cả chỉ là những đám mây qua trời, trong khoảnh khắc. Bản chất của TÂM ta là không, là rỗng lặng.
Chúc các bạn một ngày vui. Sau đây mời các bạn thưởng thức ba bức tranh của anh Võ Đình
Nguyệt Cầm là tranh sơn dầu trừu tượng Công Cha là tranh mộc bản. Con ngựa là tuổi của bố anh Võ Đình. Nghĩa Mẹ là tranh mộc bản.