Tag Archives: Chứng Nhân

Thiền sư TỪ ĐẠO HẠNH và văn khắc chuông chùa Thiên Phúc

Nguyễn Hữu Vinh dịch
Thích Thiện Niệm chỉnh sửa

Thiền sư Đạo Hạnh là một danh sư đời Lý, có công lớn đối với triều đình. Công đức của ngài được ghi lại nhiều trong Thiền Uyển Tập Anh, Lĩnh Nam Chích Quái, Việt Sử Lược, Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư v.v. An Nam Chí Lược, một cuốn sử xưa, quyển thứ 15 viết rằng: “Thiền sư Từ Đạo Hạnh là một nho sinh, thích thổi sáo, ngày cùng bạn đi chơi khắp nơi, đêm đọc sách suốt sáng. Một hôm vào chơi núi Phật Tích, thấy một hòn đá có dấu chân bên phải, ấn chân vào so thử, in như hệt. Về nhà từ biệt cha mẹ vào núi cất am tu hành. Vua Lý chưa có con nối dõi, khiến các thầy chùa danh tiếng cầu đảo. Có một ông sư, không đến làm lễ cầu tự cho vua mà còn dùng phép trán yểm. Vua nghe được bèn hạ ngục tất cả các thầy chùa trong vùng. Nhờ có một hoàng tử, hết lòng cứu giúp mới khỏi. Hoàng tử nói với sư rằng: “Ta cũng không có con, xin sư vì ta mà cầu đảo”. Sư nói với hoàng tử bảo với phu nhân vào phòng tắm rửa, sư đi ngang cửa phòng, phu nhân liền có thai. Đến ngày hạ sinh, hoàng tử cho mời sư đến, thì sư đã mất trong núi. Phu nhân sinh được một trai, mặt mũi khôi ngô. Vua Lý lập làm Thái tử…”. Chuyện này khá trùng hợp với chính sử ghi trong Việt Sử Lược. Hoàng tử này là Sùng Hiền Hầu, em vua Lý Nhân Tông. Sau vua Lý Nhân Tông vì không có con, nên nhường ngôi cho con của Hầu,, tên là Dương Hoán, sau này là Lý Thần Tông.

Theo Thiền Uyển Tập Anh, thì “Thiền sư Đạo Hạnh (? – 1117) ở chùa Thiên Phúc 天福寺, núi Phật Tích 佛跡, họ Từ, tên Lộ. Cha là Vinh, làm quan tới chức Tăng quan Đô Án, thường đi học tại làng An lãng. Lấy một người con gái họ Tăng rồi theo quê vợ…”. Sư cuộc đời thần bí, thường ngao du cầu sư học đạo, tu và mất ở chùa Thiên Phúc. Theo Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú thì “chùa Phật Tích (nguyên văn viết là chùa, có lẽ viết nhầm) ở xã Thuỵ Khê, huyện Yên sơn, một tên khác là núi Sài. Phong cảnh đẹp đẽ trông ngang xuống mặt hồ, trên núi có hang sâu là chỗ Từ Ðạo Hạnh mất. Vách hang còn có dấu đầu và dấu chân. Trên đó có am Hương Hải và viện Bồ Ðà đều do Thiền sư dựng nên, nay là chùa Thiên Phúc…”. Chùa Thiên Phúc, theo Việt Sử Lược, phần Lý kỷ thì chùa do vua Lý Thánh Tôn xây vào năm Đinh Dậu Long Thuỵ Thái Bình thứ 4 (1057). Theo Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Ðôn, phần Phong Vực (bờ cõi) thì chùa toạ lạc ở núi Sài (Sài sơn) thuộc huyện Yên sơn, núi này đời Lý gọi là Bồ Ðà Lạc, đời Trần gọi là núi Phật Tích. Trên núi có động tiên và chùa, trong núi có tám chỗ lõm, như dấu chân người va chạm vào, lại có dấu chân như của người khổng lồ. Dưới núi có chùa Thiên Phúc, trước có hồ nước lớn, sau có lầu chuông, có chuông do Thiền sư Ðạo Hạnh đúc thành vào năm Long Phù Nguyên Hoá thứ 9 (1109) đời Lý Nhân Tông, do đệ tử Huệ Hưng soạn ra văn khắc trên chuông…Ðấy là vật xưa 700 năm đến nay. Dưới văn khắc có khắc sắc chỉ của vua Trần Anh Tông cấp ruộng thờ vào năm Hưng Long thứ 12 (1304)… Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí, phần Bắc Kỳ, tỉnh Sơn Tây, mục Tự quán thì “Chùa Thiên Phúc toạ lạc tại xã Sài tây, huyện Yên Sơn, xưa gọi là am Hương Hải, còn gọi là viện Bồ Ðà. Bên trái chùa thờ Thiền sư, bên phải có tượng thờ vua Lý Thần Tông, ở giữa thờ Phật…”. Chùa, nay tục gọi là chùa Thầy, còn gọi là Tử Trầm sơn, toạ lạc tại chân núi Sài, tức núi Phật Tích, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây.

Văn khắc trên chuông chùa Thiên Phúc dưới đây là một tư liệu rất quý nói về công đức hoằng pháp Phật giáo của ngài. Nhiều điều trong bài văn khắc này rất phù hợp với An Nam Chí Nguyên trang 209 khi viết về Từ Ðạo Hạnh như sau: “Thiền sư Ðạo Hạnh là vị sư ở huyện Thạch Thất, thường đi khắp nơi trong núi non tầm sư học đạo. Sư đắc đạo, có thể gọi kêu chim rừng thú nội cùng nhau đến nghe lệnh sai bảo. Sư cầu mưa trị bệnh, không có gì là không ứng nghiệm…”. Cũng như rất phù hợpvới những điều mà Lê Quý Đôn đã đề cập tới trong cuốn Kiến Văn Tiểu Lục. Có lẽ đây chính là chuông này. Tư liệu nguyên viết bằng chữ Hán lối cổ, được công bố trong sách “Văn khắc Hán Nôm Việt Nam- từ Bắc thuộc đến thời Lý”. Sách này là công trình nghiên cứu về văn khắc xưa của Việt Nam, do sự hợp tác của Viện Nghiên Cứu Hán Nôm ở Hà Nội, École Francais d’Extrême Orient ở Paris và trường đại học Chung Cheng ở Taiwan.

Nhận thấy đây là tài liệu quý về vị thiền sư nổi danh này, dịch giả xin dịch ra tiếng Việt để giới thiệu và cũng để tiện bề tham khảo.

Nguyên văn chữ Hán trích trong sách “Văn khắc Hán Nôm Việt Nam- từ Bắc thuộc đến thời Lý”:

[山西處國威府安山縣瑞圭杜佛蹟山]

天福寺洪鐘銘文

龍符元化九年己丑正月、道行禪師緣化巨越國、朱門白屋、人人喜供、獲赤銅貳千餘斤、鑄洪鐘一口、懸於蒲陀落香海院內、扣擊六時行道、上報四恩、下濟三塗者。

夫妙理雖一、妄境寔繁、稟雖一而萬化生成、隨萬化而惟一圓點、無形可測、無語可諳、無形而形遍大千、無語而語周億剎、窄不為礙、雜不為緇、在纖塵而花藏莊嚴、居濁劫而圓珠瑩徹、是眾生之幸意、非諸佛之別心、覺也者、一路涅槃,迷也者、六趣生滅、由是自相悲憫、假相殊倫、聖賢服如蟻慕羶、神力化如風偃草、亟職芒昧、邪病纏綿、演古教而導矣、定未齊知,俾信器而警焉、方能漸進、其教也、依根立說、以一乘而括囊,其器也、取象成名、以洪鐘為鈐轄。

鐘者、外示圓寔、內表含虛、其圓也、常用而靡覺,其寔也、取難壞之名,其含也、諸入而勿礙,其虛也、揚無盡之意、不如是、何佛命一叩、天雷吞聲、地籟收響、即三界返悟;幸智乃三塗纘諸苦真、豈越列不以事濟天下耶、洎後欣光結席、承撻而淨眾駢羅,慶喜登猊、依擊而說法嚴備、自茲、孰能繼者、是真可矣。

而今即有道行禪師、幼而秀骨、長乃奇姿、誦習蓮經、玉戛喉而嘹喨,出家運度、佛生意而慈悲、建八種而海寓盡嚴,究三篋而禪經共貫、覯時大旱、燃一指而雨霈然、斅古休糧、坐多年而容無饑色 、萬民起厲、持水洒而幸絕病源,諸事未萌、預言知而的如符契、經曰:「佛有八辨」、非師而不繼圓音、佛制尸羅、非師而不能堅固、帝釋福田、非師而不播雄馨、藥王燒臂、非師而不奈苦誠、觀音救難、非師而不紹功名、高僧顯異、非師而不踵神靈」。

然濟機云畢、擇處栖遲、出城西而耳斷喧、歷禍路而心自淨、越一江水、見一山青、掉石而步落俗塵、捫蘿而身登上界、其山也、聳()之繞、生寶月之秋、有奇尺梯、八圓龕、石龕也、五色雲成就、七珠寶纍垂、蛛網相聯、銖衣間綵、下存佛跡、中壯倪臺、其跡也、白玉在底、青龍盤外,其臺也、犀角鎮傍、燈釭連次、豈模仗室、即模鷲峰、昔隱者功德所成、豈神靈造化所異、師居未逾旬、事還感應、野虎來伏、山虯自馴、寂寞夜而誦蓮經、穹崇天而送花鼓、處周六載、惠普積千、諸王子之車馬響風、傾國人之香花頂禮、御書赍詔、法席降臨、賜寶衣而等上朋、陟佛車而牟四果、齋罷之日、金錫迴立於山腳、弟子各伸其言意、雷同曰:「岩巔峭直、雲路歌(敧)危、師神足之易登、客凡蹤之難步、唯占下土、亦合勝方、巒屈曲而豈異蒲陀、水澄徹而何殊香海」、命其良匠、揆彼中央、構玉宇而晃四維、坐金容而光有截、眾馳斯語、樹即揚聲、片時而士女親來、不日而境界便現、採梓杞木、陶碧瓦爐、繩墨縱橫、斤斧雜遝、峨峨新院、業業巍樓、裁(栽)松而徑引清涼、藝化而景延馥郁。

師乃曰:「斯堂秩秩、就眾森森、不免說法之筵、必掛洪鐘之警、法雖自我、鐘必從他」、故築(策)仗(杖)下化、高於阡陌、如麟遊獸舞、逐鳳翔凰、競隨行未兩旬、施堆一阜、詣於興福寺、章飛雲陛、天錫金宮、鍊土成模、揚火精鍛、鑄之日、師雖緘默、人競稱揚、感太后之同風、遣中使之赍室、次乃輪蹄奔而空朱戶、少艾走而閴(闃)閭閻、擅入香階、紛若東市、頃、火工肆力、金匠嚴令、鼓橐籥而聲振海隅、迸煙爐而光騰銀漢、完器有異、嘉瑞相生、未幾者、更邀庶類、抗縻巨扛、纔礱而色奪雪花、乍擊而聲逾雷吼、天下聆之、人咸慶仰、師將歸蒲陀岩畔大悲雲樓、懸以金索、撞以鯨槌、旦夕行道、先報今上永化、寶祚長新、感國器而世蕃昌、字黎元而邦彌泰、然願崇高慕道、洞達純真、以福蔭於蒼生、用匡扶於洪業、後冀施修巨細等、順風遷善、頂戴香花、今景祿來茨、後悟符本覺。

師見余曰:「新成犍稚一口、則眾緣同修、我罔績可紀、留芳施者名、聊記傳後」、惠興淺學、不辭搦管為銘 。

銘曰:

佛以洪鐘警物兮、悟本心

師成法器化世兮、發信音

天宮既著欲色兮、還自覺

地府當要刑戮兮、放若深

龍符元化九年己丑、八月、初九日立記、天福寺賜紫大沙門釋惠興撰。

[…]

[陳英宗興隆十二年、給祀田聖旨]。

Bài dịch:

Văn khắc chuông chùa Thiên Phúc

Văn khắc trên chuông chùa Thiên Phúc, ở núi Phật Tích, xã Thuỵ Khê, huyện An Sơn, Phủ Quốc Oai, xứ Sơn Tây.

Tháng giêng năm Kỷ Sửu nhằm vào năm thứ chín niên hiệu Long Phù Nguyên Hoá (1), Thiền sư Đạo Hạnh đi lạc quyên trong nước Đại Việt (2). Mọi người từ giàu đến nghèo, ai ai cũng vui vẻ cúng dường. Quyên được đồng đỏ tất cả hơn hai ngàn cân. Đúc được một cái chuông lớn, treo trong viện Hương Hải (3) ở núi Bồ Đà Lạc (4) , sáu thời (5) đánh chuông hành đạo, trước báo bốn ơn (6), sau cứu tam đồ (7).

Diệu lý tuy chỉ có một mà vọng cảnh (8) thì thật nhiều. Tuy là một nhưng do thiên biến vạn hoá tạo thành. Dù thiên biến vạn hoá tạo thành cũng chỉ là duy nhất mà thôi, không hình tượng mà có thể lường được, không lời nói mà có thể cảm được, không hình tượng mà hiện khắp cõi đại thiên (9), không lời nói mà nghe vang khắp cõi Phật (10). Nhỏ bé mà không cùng, hổn độn mà không hoá thành đen, ở đời trần bụi mà  trang nghiêm như Hoa Tạng thế giới , ở kiếp ô trược mà long lanh như ngọc thạch. Đó là sự may mắn của chúng sinh, chứ chẳng phải ý riêng gì của chư Phật. Kẻ giác ngộ thì thẳng đường lên Niết Bàn, còn kẻ mê lầm thì sinh diệt theo sáu con đường (11). Rồi thì cứ lo lắng, giả tướng thì nhiều. Việc thánh hiền sánh như kiến tìm mùi tanh. Chuyện thần lực cũng như gió đè cỏ mọc. Cứu mê tăm tối, bận rộn lăn lóc với những công việc cấp bách, lại phải vương mang vào tà ma, bệnh tật. Đem lời cổ nhân ra dạy bảo cũng khó làm được. Nay dùng chuông làm vật cảnh tỉnh, mới có thể có hiệu quả dần dần. Việc giáo hoá thì phải tuỳ căn cơ mà tìm phương cách. Thấy giáo lý “Nhất Thừa” (12) là hơn cả, mà chuông là vật quan hệ nhất.

Chuông, ngoài Tròn (13), Chắc (14), trong Rỗng (15), Không (16). Thường sử dụng, quá quen nên hay quên nên gọi là Tròn. Khó bị hư nên gọi là Chắc. Đem vật thọc vào, đổ chứa vào mà không trở ngại gì nên gọi là Rỗng. Ngân nga vang vọng nên gọi là Không. Nếu không phải thì sao Phật cho gõ một tiếng mà sấm trời im bặt, mọi âm vang trên mặt đất đều lặng câm. Đó là lúc trong Tam Giới (17) tỏ ngộ. May mắn biết rằng chúng sinh trong Tam Đồ mãi chịu Khổ. Biết như vậy mà không đem sức mình ra để cứu thiên hạ hay sao? Từ đó về sau, mỗi khi gặp lễ, đèn treo, chỗ sắp, nghe tiếng chuông Phật tử sắp thành hàng. Bước lên bệ gióng chuông thuyết pháp bội phần trang nghiêm. Làm được như vậy, có ai hơn được!

Nay có thầy Đạo Hạnh, từ bé cho đến lớn, cốt cách lạ thường, Tụng học kinh Liên (18) sang sảng. Xuất gia hành đạo, thấm nhuần ý Phật từ bi. Xây tháp (19) trang nghiêm. Học kinh kệ thấm nhuần đạo lý. Gặp lúc trời hạn, vung tay một cái trời mưa xuống dầm dề. Học thói người xưa nhịn ăn, ngồi nhiều năm mà vẻ mặt không thấy đói. Dân gặp lúc bịnh dịch, phẩy nước lạnh thì bịnh lành ngay. Việc chưa xảy ra mà đoán biết trước như có phù phép. Kinh dạy rằng Phật có “Tám Lời” (20), nếu không có thầy thì làm sao Tám Lời âm vang tiếp tục. Phật đặt ra “Thi La” (21), nếu không có thầy thì làm sao “Thi La” bền vững. Nếu không có thầy thì làm sao thắp được hương trong vườn phúc của Đế Thích (22). Dược Vương (23) đốt thịt chữa bệnh, nếu không có thầy thì ai chịu đựng nỗi. Quan Âm cứu nạn, nếu không có thầy thì ai biết đến công đức của ngài. Cao tăng tỏ việc linh dị, nếu không có thầy ai nối gót thần linh?

Nay chuyện hành đạo đã xong, muốn tìm nơi ẩn náu. Ra phía tây kinh thành, nơi tĩnh mịch xa, chốn ồn ào huyên náo, đi qua đường lối hiểm nghèo nhưng lòng thanh tịnh. Qua khỏi con sông, gặp núi xanh, leo đường dốc đi lên, đất đá rơi xuống lăn lóc, nắm dây trèo lên nơi cao. Núi này cao ngút bao bọc như núi Lăng Già (24), có trăng thu tròn đẹp, có dốc đá kỳ vĩ, có vòm đá, động đá thờ Phật, có mây ngũ sắc kết tủa như châu ngọc buông rèm, rực rỡ tơ vương đan hình vào nhau như màng nhện. Dưới có vết tích của Phật, giữa có đài nghê tráng lệ. Dấu Phật có ngọc trắng dưới đáy, có rồng xanh bao bọc bên ngoài. Ðài nghê có tê giác đứng trấn bên cạnh. Có đèn treo kết chuỗi thành hàng. Ðây đâu phải chỉ giống phòng phương trượng, mà chính là ngọn Thứu Phong (25). Ngày xưa các bậc ẩn sĩ góp sức, góp của làm nên, đâu có khác gì thần linh tạo thành? Thầy đến ở chưa tới mười ngày mà đã có điều linh ứng. Cọp tới chầu hầu, rồng kia thuần tính. Ðêm vắng tụng kinh Liên, trời cao vòi vọi vang nghe tiếng trống. Thầy ở suốt sáu năm, ân huệ vun đầy. Các hoàng tử xe ngựa tới lui tấp nập. Mọi người trong nước đến dâng hoa đảnh lễ. Vua cho người lại ban chiếu chỉ, làm tiệc chay cúng dường. Ban cho áo mão cà sa, cung nghinh như bậc thượng khách. Lên xe Phật để cầu Tứ quả (26). Lễ chay xong rồi, thầy chống gậy đi trở xuống chân núi. Tất cả các đệ tử mọi người cùng nói rằng: “Vách đá dựng đứng, đường đi nguy hiểm. Bước chân như thần của thầy thì đi dễ, chứ khách phàm thì làm sao bước đi được. Xem chỗ đất này cũng là nơi thắng cảnh. Ðồi núi chập chùng đâu khác gì núi Bồ Ðà. Nước trong vắt thua gì biển Hương Hải. Gọi thợ giỏi, chọn nơi chính giữa, xây lầu ngọc sáng chói bốn phương. Giữa đặt tượng Phật hào quang sáng rạng. Mọi người cùng tỏ lời nói này. Cây cỏ rì rào cùng loan tin đi. Trong chốc lát, thiện nam tín nữ tề tựu đông đúc. Chỉ trong một ngày mà quang cảnh trở nên khác lạ. Người đốn cây quý, kẻ xây lò gạch. Thước mực giăng đầy. Búa rìu chan chát. Chốc lát, sân mới nguy nga, gác lầu sừng sững. Trồng tùng xanh cho mát mẻ lối đi. Gầy hoa cảnh cho vườn thêm ngát.

Thầy nói rằng: “Chùa thì trang nghiêm, Phật tử thì đông đúc. Gặp lúc lễ lượt thuyết pháp thì phải treo chuông cảnh tỉnh. Phật pháp là chuyện của ta, nhưng chuông thì phải nhờ người”. Nói rồi, chống pháp trượng ra đi, thoăn thoắt trên khắp nẻo đường, như lân vờn thú nhảy, như phượng múa rồng bay. Người ta tranh nhau đi theo, chưa tới hai mươi ngày đã quyên được (đồng đỏ) đem về chất một đống cao. Rồi đem đến chùa Hưng Phúc. Gửi thư về tâu cho vua rõ, ngài đã cho phép dựng chùa. Nhào đất làm khuôn, đốt lửa luyện đồng Ngày đúc, thầy dù chẳng nói gì, nhưng người người vui vẻ huyên náo. Cám ơn Thái Hậu (27) nhiệt tình cho người đem tặng lễ vật. Rồi thì hết cả nhà giàu đều kéo xe tới, trai trẻ cũng lũ lượt tới giúp đến nối buôn làng vắng vẻ. Người đến đông như đi phiên chợ đông vậy. Chẳng mấy chốc, thợ rèn gắng sức, thợ đúc lo lắng chuẩn bị, thổi ống bệ tiếng nghe vang dội, lửa đỏ cháy rực, chiếu sáng lên tới dãy ngân hà. Chuông đúc xong thấy rõ lạ thường, có nhiều điểm tốt lành. Không lâu sau đó, mời mọi người buộc thừng khiêng lên. Mới chùi mà sáng bóng tợ hoa tuyết. Vừa gõ thì tiếng ngân vang như sấm, vang dậy khắp nơi. Mọi người đều mừng rỡ thích thú. Thầy sắp trở về lầu Đại Bi trên núi Bồ Đà. Dùng dây vàng buộc treo, dùng chày kình đánh chuông, ngày đêm hành đạo. Trước, báo ân dày của vua (28), cầu mong ngai vàng bền vững. Nhờ pháp khí (chuông) mà dân gian thanh bình, đất nước bình yên, con dân no ấm. Nguyện rằng đem đạo nhiệm mầu, thấu triệt thuần chân làm phúc lớn che chở cho mọi người, để khuông phò nghiệp lớn. Sau, mong cho mọi. người lớn bé cùng nương theo mà hướng đến cõi thiện, cùng theo Phật pháp. Hôm nay có được phúc lành để sau chứng ngộ.

Thầy nói với tôi rằng: “Chuông đã đúc xong, vì mọi người có duyên tu tập, còn ta chẳng có công đức gì. Hãy ghi lại tên tuổi của những người đã cúng dường để lưu truyền lại mai sau”. Huệ Hưng ít học, cầm bút viết bài minh này.

Viết rằng:

Chư Phật dùng chuông (29) cảnh tỉnh để ngộ bản tâm
Nay thầy dùng chuông phát tín âm để răn dạy đời
Trời đã mang dục sắc, hãy trở về bốn giác
Âm phủ đã bắt đầu hình phạt, hãy nghĩ cho sâu xa

Sa Môn áo tía (30) Thích Huệ Hưng phụng soạn vào ngày mồng chín, tháng tám, năm Kỷ Sửu niên hiệu Long Phù Nguyên Hoá thứ chín.

[…]

Đời Trần Anh Tông thứ 12 niên hiệu Hưng Long có chiếu cấp cho ruộng thờ. (31)

Do câu cuối trong văn khắc trên chuông, chúng ta biết chuông đã được người đời Trần khắc thêm hàng chữ này.

Chú thích:

1)  Long Phù Nguyên Hoá cửu niên Kỷ Sửu: Tức là năm Kỷ Sửu niên hiệu Long Phù Nguyên Hoá thứ chín (1109), đời vua Lý Nhân Tôn.

2)  Đại Việt: Nguyên chữ Cự Việt quốc 巨越國, Cự nghĩa là Lớn, Đại

3) Viện Hương Hải: tên xưa của chùa Thiên Phúc.

4) Bồ Ðà Lạc sơn: tức là núi Phật Tích, nơi chùa toạ lạc

5) Sáu thời 六時 Nguyên chữ “Lục thời” chỉ: Sáng, Trưa, Chiều, Tối, Khuya và Sáng sớm.

6) Bốn Ơn: 四恩 Tứ Ân, có nhiều thuyết. 1. Theo Kinh Tâm Ðịa Quán Bốn ơn gồm: , Ơn mẹ cha, Ơn chúng sanh, Ơn quốc vương và Ơn Tam bảo. Theo Thích Thị Yếu Lãm thì bốn Ơn gồm: Ơn cha mẹ, Ơn sư trưởng, Ơn quốc vương và Ơn thí chủ.

7) Tam đồ: 三塗 Chỉ ba con đường ác là Ðịa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh. Ba đường còn là: 1. Hỏa đồ (đường lửa): Chỉ cho Ðịa ngục là chổ nổi lửa mạnh để thiêu đốt tội nhân; 2. Huyết đồ (đường máu): Chỉ cho nẻo Súc sanh là chổ ăn thịt lẫn nhau; 3. Ðao đồ (đường dao): Chỉ cho nẻo Ngạ quỷ là chổ bị gươm đao, gậy gộc bức bách.

8 ) Vọng cảnh : 妄境 Cảnh giả, không thật

9) Đại thiên: 大千. Tức là Tam thiên Ðại thiên thế giới, Kinh nói: Thế giới chia ra làm Tiểu thiên, Trung thiên và Ðại thiên, ba loại khác nhau. Gộp 4 đại châu, mặt trăng, mặt trời, chư thiên lại thì thành một thế giới. Một ngàn thế giới thì gọi là Tiểu thiên thế giới. Một ngàn Tiểu thiên thì gọi là Trung thiên thế giới. Một ngàn Trung thiên thì gọi là Ðại thiên thế giới.

10) Cõi Phật: Nguyên chữ “Sát 剎” , nghĩa là: Ruộng, nước, xứ. Thông thường dùng để chỉ “đất Phật”

11) Sáu con đường: Nguyên chữ Lục thú: 六趣 Còn gọi là Lục đạo, sáu đường ở chốn luân hồi. Theo Phật học, chúng sanh tùy theo nghiệp quả của mình mà chuyển sanh vào lục đạo: Thiên (Trời), A Tu La (Thần), Nhân (Người), Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ (Quỷ đói), Súc Sinh (Thú vật).

12) Nhất Thừa: 一乘 Cỗ xe duy nhất, để chỉ Phật thừa, là pháp môn duy nhất viên mãn. Cỗ xe mà Phật dùng đi đường, tức cỗ xe độc nhất tối sơ tối hậu mà mỗi chúng sanh vốn mang Phật tính dùng để đi trên con đường Ðạo nhất như chân thật. Danh từ này còn dùng để chỉ Bồ tát thừa trong Tam thừa.

13) Tròn: Nguyên chữ Viên 圓

14) Chắc: Nguyên chữ Thực 寔

15) Rỗng: Nguyên chữ Hàm 含

16) Không:.Nguyên chữ Hư 虛

17) Tam Giới: 三界 Chỉ nơi sinh sống của chúng sinh gồm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.

18) Kinh Liên: Nguyên chữ Liên kinh 蓮經 chỉ Diệu Pháp Liên Hoa kinh, tức kinh Pháp Hoa

19) Xây tháp: Nguyên chữ Bát Chủng 八種, chỉ Bát Chủng tháp 八種塔 như tháp Như Lai 如來塔, tháp Bồ Tát 菩薩塔, tháp Duyên Giác 緣覺塔, tháp A La Hán 阿羅漢塔, tháp A Na Hàm 阿那含塔, tháp Tư Ðà Hàm 斯陀含塔, tháp Tu Ðà Hoàn 須陀洹塔 và tháp Chuyển Luân Vương 轉輪王塔. Tám vị: Như Lai, Bồ Tát, Duyên Giác, A La Hán, A Na Hàm, Tư Ðà Hàm, Tu Ðà Hoàn và Chuyển Luân Vương sau khi nhập diệt (chết) phải xây tháp thờ.

20) Tám Lời: Văn khắc viết 辨(辯), nguyên chữ Bát Biện 八辯 Tám biện tài. Chỉ tám tài khéo biện luận của Như Lai: 1. Bất Tư Hát biện 不嘶喝辯 (Biện luận chẳng cần hò hét, gào thét) ; 2. Bất Mê Loạn biện 不迷亂辯 (Biện luận chẳng mê loạn, lú lẫn) ; 3. Bất Bố Úy biện 不怖畏辯 (Biện luận mạnh dạn, không sợ hãi gì) ; 4. Bất Kiêu Mạn biện 不憍慢辯 (Biện luận không tỏ vẻ kiêu mạn) ; 5. Nghĩa Cụ Túc biện 義具足辯 (Biện luận nghĩa lý đầy đủ) ; 6. Vị Cụ Túc biện 味具足辯 (Biện luận ý vị đầy đủ) ; 7. Bất chuyết sáp biện 不拙澀辯 (Biện luận lưu loát, chẳng vụng về ngắt ngứ) ; 8. Ứng Thời Phân biện 應時分辯 (Biện luận đúng lúc).

21) Thi La: 尸羅 Dịch âm tiếng Phạn Sila, có nghĩa là phòng ngừa, ngăn cấm sự sai trái của thân và tâm. Phật đặt ra để đệ tử thi hành ngăn ngừa điều dữ.

22) Vườn phúc của Đế Thích: Nguyên chữ Đế Thích phúc điền 帝釋福田. Do chữ Đế Thích tứ uyển 帝釋四苑 là nơi Đế Thích Thiên cư ngụ, có hồ Như Ý đầy ắp nước tám Công Đức 帝釋天居於須彌山頂之善見城,城外之四面各有一苑,形皆正方,於各苑之中央皆有一如意池,池中八功德水盈滿,為帝釋諸天遊戲之處

23) Dược Vương: 藥王 vị Bồ Tát chuyên ban phát thuốc lành cứu chữa bệnh tật cho chúng sinh.

24) Lăng Già sơn: 楞伽山 núi Lăng Già, còn gọi là Già Sơn. Tương truyền nơi đây Phật truyền giảng kinh Lăng Già. Núi chất đầy bảo vật, hào quang sáng lạng, chiếu khắp mười phương, có đầy hoa thơm cỏ lạ, nhiều chùa, nhiều bảo vật cúng dường Phật pháp.

25) Thứu phong: 鷲峰 Còn gọi là Linh Thứu phong, Thứu Ðầu sơn, Thứu Ðài. Tương truyền đây là nơi Phật truyền giảng kinh Pháp Hoa.

26) Tứ quả: 四果 Chỉ bốn loại thánh quả khác nhau của Thanh Văn thừa: Các nhà phiên dịch cũ dùng tên Phạn gọi bốn quả đó là: Quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm và quả A-la-hán. Các nhà phiên dịch mới dịch là: Dự Lưu quả, Nhất Lai quả, Bất Hoàn quả và A La Hán quả.

27) Thái hậu: Tức Ỷ Lan nguyên phi của vua Lý Thánh Tông, mẹ vua Lý Nhân Tông.

28) Vua: Chỉ vua Lý Nhân Tông

29) Chuông: Nguyên chữ Kiền Trĩ 犍稚 dịch từ chữ Phạn Ghantà, nghĩa là các dụng cụ dùng để báo giờ giấc trong chùa. Trong truyện Cảm Thông kể rằng ngày xưa Phật Tỳ Lô Giá Na ở nước Tu Ða La xứ Càn Trúc tạo một cái chuông bằng đá xanh, mỗi lần đánh lên thì có vô số Hoá Phật hiện thân trong hư không tuyên thuyết diệu pháp, người nghe ngộ đạo đến vô số. Chuông ở đây là chuông lớn, nguyên bản viết “Hồng Chung” 洪鐘 còn gọi là Ðại hồng chung hay chuông U Minh, đánh vào mỗi buổi sáng và khi hoàng hôn. Ðánh lúc hoàng hôn để nhắc nhở cảnh vô thường, đánh vào buổi sáng sớm thức tỉnh lòng người bỏ tà quy chánh, dứt bỏ trần duyên để thoát ly sanh tử luân hồi.

30) Áo tía: Vua ban Cà Sa màu tía cho các vị thường là Quốc sư. Tục này bắt đầu tới Võ Tắc Thiên (684-774) ở Trung Quốc. Ở nước ta Thông Biện là người đầu tiên nhận áo tía được biết (theo Thiền Uyển Tập Anh).

31) Tức năm Giáp Thìn 1304 đời vua Trần Anh Tông,

Tham khảo:

  1. “Văn khắc Hán Nôm Việt Nam-từ Bắc thuộc đến thời Lý”, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 1999
  2. “Phật Quang đại từ điển”, Fo Kuang xuất bản xã, Taipei
  3. “Thiền Uyển Tập Anh”, Lê Mạnh Thát, nhà xuất bản T.P Hồ Chí Minh, 1999
  4. “Lĩnh Nam Chích Quái”, Chen Ching Hao, Học Sinh thư cục xuất bản, Taipei, Taiwan, 1987
  5. “300 ngôi chùa nổi tiếng Việt Nam”, Võ Văn Tường, CD, Tin Việt, T.P Hồ Chí Minh, 1996
  6. “Việt Sử Lược”, bản Tứ Khố Toàn Thư, Library of Academia Sinica, Taipei, Taiwan
  7. “Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư” bản Chính Hoà, 1696, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1999
  8. “Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư”, Hiệu hợp bản của Chen Ching Ho, Soka university, Tokyo
  9. “An Nam Chí Nguyên”, École Francais d’Extrême Orient, Hà Nội, 1931

10.  “Lịch triều hiến chương loại chí”, Library of Academia Sinica, Taipei, Taiwan

11.  “Kiến Văn Tiểu Lục”, Lê Quý Đôn, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1977.

12.  “An Nam Chí Lược”, “Lê Trắc (Tắc)”, Trung Hoa thư cục xuất bản, Peking, 1995 .

13. “Đại Nam Nhất Thống Chí, quyển Sơn Tây”, Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Đặc Trách   Văn Hoá, phủ Quốc Vụ Khanh, 1963, Sàigon.

Bước chân tí hon giữa đời

TĐH: Cám ơn chị Phạm Vũ, báo Tuổi Trẻ, đã đóng góp bài.

TT – Đã hơn một năm, từ ngày Hằng và Hà, hai cô gái tí hon, dắt nhau vào miền Nam và đến Sài Gòn. Những góc phố ở P.Tân Định, Q.1 đã quen với bước chân nhẹ như lướt và tà áo dài của hai chị em đi làm, đi học, đi diễn…

Thanh Hằng – Thanh Hà trong chương trình Tích hạt yêu thương hát vì nạn nhân Dioxin tại Nhà hát TP.HCM tháng 8-2009 – Ảnh: Nguyễn Á

Mỗi ngày của Hằng và Hà tất bật như bất kỳ người nhập cư nào ở Sài Gòn. Chỉ khác, những bước chân của Hằng và Hà nhỏ lắm, nhỏ như bước chân của các cô cậu tí hon trong chuyện cổ tích, và vẫn bước tới, bền bỉ, mạnh mẽ giữa dòng đời tấp nập.

Đám đông trầm trồ

Hằng cao 1,24m, Hà cao 1,25m, tuổi thơ ngưng đọng vĩnh viễn trên thân hình, trên khuôn mặt, trên nụ cười. Gặp Hằng và Hà, tôi phải tự nhắc mình rằng đây là những bạn gái, phải cố gắng lắm để kiềm chế mình, không đưa tay vuốt tóc, xoa đầu, thơm lên má như vẫn thường làm khi ngồi với những em bé gái. Vậy mà tôi vẫn không hết ngạc nhiên khi theo bước chân rất nhanh và tự tin của Hằng vào một quán ăn đã được cô đặt bàn trước, vẫn không hết thắc mắc khi hết ngày này sang ngày khác không thể xếp được một cuộc hẹn trong thời gian biểu dày đặc của cả hai chị em. Tôi tự xấu hổ vì mình chưa bỏ được những phản xạ đến từ trực giác, Hằng và Hà bật cười thông cảm trước sự lúng túng của tôi: “Ai cũng thế hết chị ạ, chúng em quen rồi”.

Hà cười giòn tan kể về những cái lắc đầu, những ánh nhìn nghi ngại từ anh xe ôm, người chạy taxi khi em đưa tay vẫy, những câu hỏi vặn vẹo: “Đi với ai? Cha mẹ đâu?” lúc em ra sân bay, bến xe… Hằng mỉm cười đầy vẻ khoan dung kể về các bà, các cô thường chặn bước mình lại để hỏi: “Hai chị em sinh đôi à? Mấy tuổi rồi? Học lớp mấy?”. Ông Hàn Tấn Quang, người cha tinh thần của hai cô hiện tại, cũng cười, kể về những đám đông cứ liên tục xuất hiện theo từng bước chân, trầm trồ trước những tà áo dài của hai chị em và đòi chụp ảnh chung khi ai đó nhận ra họ là ca sĩ…

“Phiêu bạt nơi phồn hoa…”

Đôi mắt của hai chị em đều rất đen. Ánh mắt Hằng đượm buồn nhưng long lanh những tia sáng quyết liệt, mạnh mẽ, ánh mắt Hà thì trong trẻo, hồn nhiên. Hai ánh mắt ấy quăng bắt nhịp nhàng, ăn ý giữa giai điệu dặt dìu của bài Về quê, da diết của Bà tôi khiến người nghe tưởng như mình đang về quê thật, với ruộng lúa, bờ đê, với tuổi thơ, cánh diều và quay lại với một phút xao lòng “phiêu bạt nơi phồn hoa cát bụi, đôi khi cánh cò xưa lạc vào giấc mơ”. Chợt giật mình nhận ra hai cô ca sĩ cũng đang lưu lạc xa nhà, đua chen giữa dòng đời với những bước chân tí hon, yếu ớt.

Hà (trái) và Hằng trong công việc hằng ngày của mình – Ảnh: Gia Tiến

Mỗi buổi sáng, như bất kỳ người phụ nữ trưởng thành nào, hai cô thức dậy chọn cho mình bộ áo dài đẹp, trang điểm xinh tươi và bắt đầu một ngày làm việc tại tòa soạn tạp chí Kiến Thức Ngày Nay. Công việc của Hằng – Hà là phân loại, đánh máy bài vở của cộng tác viên từ các nơi gửi đến. Lọt thỏm trên ghế, thấp hơn rất nhiều so với màn hình máy tính, bốn bàn tay bé xíu thoăn thoắt thao tác trên bàn phím, Hằng và Hà đã giành được sự yên tâm, tin tưởng của những nhà báo, nhà khoa học không kém phần khó tính.

Trưa, một suất cơm văn phòng chia đôi, và buổi chiều tối bận rộn hơn với đời ca sĩ bắt đầu: giải quyết những công việc tồn đọng ở văn phòng, hướng dẫn khách tham quan phòng tranh, đi luyện thanh ở nhà cô Thanh Trì, tự tập bài hát mới, đi học tiếng Anh, rảo chợ tìm tấm vải may áo, thảo luận với những người đặt sô, đi biểu diễn, thu âm, thu hình… Tối khuya, mệt nhoài về căn phòng nhỏ, hai chị em đôi khi tự đãi mình một cuộc điện thoại gọi cho bố mẹ, và đêm ấy thế nào “cánh cò xưa” cũng “lạc vào giấc mơ”.

“Cánh cò xưa lạc vào giấc mơ”

“Nhà em giờ thuộc Hà Nội đấy, nhưng thật ra là vùng quê Vĩnh Phúc, trồng lúa và nghèo lắm. Em là út, là 8X đời gần cuối, nhưng vẫn có những thời gian nhà không có gạo, phải ăn sắn suốt” – Hà hồn nhiên và lí lắc suốt câu chuyện với tiếng cười giòn tan. Mẹ là một thôn nữ mạnh khỏe, bố cũng mạnh khỏe, đi bộ đội qua những vùng rừng núi miền Trung, Tây nguyên rồi phục viên sau ngày miền Nam được giải phóng. Năm người con sinh ra thì ba chị em Huyền – Hằng – Hà lần lượt theo nhau không lớn nữa ở tuổi lên 10.

Hằng cười nhẹ kể về những bất ngờ của số phận: “Vào cấp II, mình như càng lúc càng bé giữa bạn bè cứ lớn bổng lên qua từng năm. Chị Huyền cũng thế và qua tuổi 20 thì mấy chị em biết rằng mình không thể lớn nữa. Một em gái, một em trai kế thì cao lớn, mạnh khỏe, đến Hà lại bé. Nhiều người nói có lẽ bố đã bị nhiễm chất độc da cam khi ở quân ngũ, mình không biết đích xác. Nhưng nếu đúng vậy thì có lẽ chị em mình là may mắn nhất trong số những nạn nhân. Có lúc cũng buồn và thấy khó sống trong thế giới người lớn nhưng rồi lại vui ngay, vì mình bé thế thì ai cũng chiều mà”.

Bé nhỏ và rất sợ đỉa, nhưng đôi chân của Hằng và Hà đã từng đầm dưới ruộng những ngày hè nắng nóng đến nước bốc hơi. Những ngày đông rét tím người, đôi tay bé xíu đã từng cấy, cắt lúa, tát đìa bắt cá, hái rau chăm lợn, thấm thía nỗi vất vả, bấp bênh của nghề nông. Gắng hết sức để giúp bố mẹ, mấy chị em Hằng từng rơi nước mắt vì thấy mình bất lực trước những công việc đòi hỏi sức vóc, “may mà còn giọng hát”. Những năm ở nhà, Hằng từng đi hát ở đình làng, hội làng, liên hoan, tiệc cưới, đôi chân tí hon đã đi qua vùng rừng núi Tây Bắc đến tận Lũng Cú, Hà Giang, từng đi dọc nhiều tỉnh miền Trung trong các chuyến biểu diễn theo đoàn văn nghệ.

“Ước mơ của chị em mình là dành dụm được món tiền mua cho mẹ một mảnh đất nhỏ ở thị xã để bán tạp hóa. Hiện giờ mỗi tháng tụi mình dành ra 1 triệu đồng gửi về nhà giúp mẹ, sắp tới sẽ cố gắng để được hát nhiều hơn, lập thêm một quỹ tích lũy cho kế hoạch ấy” – Hằng tính toán rất rõ ràng. Kèm theo đó là một kế hoạch cũng rất rõ ràng: luyện thanh để giọng dày dặn hơn, luyện hơi để có sức hát bền hơn, tập thêm bài hát mới và phong cách biểu diễn để có nhiều cơ hội hơn.

“Chúng mình còn nhiều may mắn, được lành lặn, được hát, vậy là đủ hạnh phúc rồi. Vui nhất là khi được đến hát ở những trường nuôi trẻ khuyết tật, làng SOS. Mọi người ngạc nhiên vì thấy bọn mình bé, bọn mình thì quá khâm phục khi thấy họ khuyết tật mà vẫn sống tốt, vẫn tự lập. Đôi bên đều vui, đều thấy tự tin hơn khi được gặp nhau”. Hằng – Hà cười vui và lại lướt đi, góp những bước chân tí hon và giấc mơ của mình vào nhịp sống Sài Gòn cuồn cuộn…

Chưa có cặp song ca tương tự

Ngước mắt lên thật cao mới nhìn thấy vật treo tường, Hằng và Hà khiến nhiều khách tham quan thú vị khi giải thích cặn kẽ từng bức tranh, từng món cổ vật ở phòng trưng bày của tạp chí Kiến Thức Ngày Nay – Ảnh: Gia Tiến

Thanh Hằng (sinh năm 1978, cao 1,24m), Thanh Hà (sinh 1988, cao 1,25m) vừa được Trung tâm Kỷ lục Việt Nam công nhận kỷ lục Cặp song ca chị em ruột có vóc dáng thấp nhỏ nhất vào tháng 2-2010. Khảo sát trên thế giới chưa có cặp song ca nào tương tự (một cặp ở Trung Quốc chưa đến tuổi trưởng thành) nên trung tâm đang tiến hành đăng ký với tổ chức kỷ lục thế giới Guinness.

Đến TP.HCM đầu năm 2009, đôi song ca Thanh Hằng – Thanh Hà có giọng hát rất thích hợp với các làn điệu dân ca, đã xuất hiện trong nhiều chương trình ca nhạc hướng về cộng đồng như Lễ hội trăng rằm 2009, Tích hạt yêu thương, Tiếp sức đến trường, Thương về miền Trung… Trong cuộc thi video clip của Đài truyền hình TP.HCM 2009, clip Bà tôi của hai chị em đã lọt vào mười bài hát được khán giả yêu thích nhất tháng 10-2009.

PHẠM VŨ

Nhà thơ Hữu Loan qua đời

Chào các bạn,

Nhà thơ Hữu Loan, tác giả của tuyệt tác Màu Tím Hoa Sim, đã qua đời tại quê nhà ở Thanh Hóa, ngày 18 tháng 3, 2010, lúc 21 giờ, hưởng thọ 95 tuổi.

Màu Tím Hoa Sim, ai đọc qua mà không buồn da diết!
Cuộc tình trong thời nhiễu loạn phân ly…

Nhưng không chết người trai chiến sĩ
Mà chết người gái nhỏ hậu phương…

Chiến tranh không có quy luật phân ly!

Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt…

Tiểu sử

Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông học Thành chung ở Thanh Hóa, đậu tú tài Tây năm 1938 tại Hà Nội (vì vậy ở quê thường gọi là cậu Tú Loan). Thời đó, bằng tú tài rất hiếm, rất ít người có nên ông được mời vào làm trong Sở Dây thép (Bưu điện) Hà Nội nhưng ông không làm mà đi dạy học và đã từng là cộng tác viên của các tập san văn học xuất bản tại Hà Nội. Năm 1939 ông tham gia Mặt trận Bình Dân rồi về tham gia Mặt trận Việt Minh tại thị xã Thanh Hóa.

Năm 1943, ông gây dựng phong trào Việt Minh ở quê nhà, và khi cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 nổ ra, ông làm Phó chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn, rồi được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính.

Trong kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tình nguyện đi bộ đội, phục vụ trong sư đoàn 304 và làm chính trị viên tiểu đoàn, đồng thời làm chủ bút tờ Chiến Sĩ của sư đoàn.

Tháng 2 năm 1948, lúc ấy ông 32 tuổi, được nghỉ phép hai tuần lễ, về quê cưới cô Lê Đỗ Thị Ninh là người học trò cũ mới 16 tuổi, con gái của ông bà tham Kỳ, một gia đình nền nếp, gia sản có tới hàng trăm mẫu ruộng ở Thanh Hoá mà trước đây ông đã từng làm gia sư dạy kèm cho các con của ông bà suốt nhiều năm liền. Cô Ninh yêu ông bằng một tình yêu kỳ lạ, nửa như người anh, nửa như người thầy. Ông cũng coi cô bé xinh đẹp 16 tuổi đó nửa như em gái, nửa như cô học trò vì khi ông mới đậu tú tài, được ông bà tham Kỳ nhờ đến dạy học cho hai người anh của cô Ninh thì cô mới 8 tuổi. Sau, ông cũng làm gia sư cho cô luôn.

Cưới nhau xong, ông lại lên đường ra mặt trận. Sư đoàn lúc ấy ở vùng Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Ba tháng sau, tháng 5 – 1948, từ ngoài mặt trận, ông được tin người vợ trẻ tuổi ở nơi quê nhà vắn số: cô giặt đồ ở ngoài sông, xảy chân ngã xuống sông, bị nước cuốn đi, chết đuối. Ông quá đau khổ, định sẽ ở vậy suốt đời, đồng thời đem nỗi lòng mình viết thành những câu thơ rồi dần dần thành bài Màu tím hoa sim đầy kỷ niệm. Mấy năm sau – khoảng các năm 1951-1953 – bài thơ này nổi tiếng, được lưu truyền trong dân chúng nhưng bị phê bình là “ủy mị, mang tính chất tiểu tư sản”!

Năm 1954, sáu năm sau ngày vợ chết, hoà bình lập lại nhưng chuyện đấu tố diễn ra. Bộ đội đóng ở Nghệ An, ông về nhà chơi, được biết ở làng bên có một gia đình địa chủ ngày trước vẫn tiếp tế lương thực cho sư đoàn của ông, nay bị đấu tố chết rất thê thảm, chỉ trừ cô gái 17 tuổi tên Phạm Thị Nhu thì được tha chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà, cấm không cho ai được phép liên lạc. Ông nhớ tới ơn xưa, bèn đi tìm xem cô ta ra sao thì gặp cô đang đói khát, mặt mũi lấm lem, quần áo rách rưới, đang đi mót những củ khoai người ta bới xong còn sót lại ở ngoài cánh đồng, chùi sơ rồi bỏ vào miệng ăn sống. Thấy ông, cô khóc rưng rức vì cảnh khốn cùng của mình và cho biết ban đêm cô ngủ trong một ngôi miếu hoang, chỉ sợ có kẻ làm bậy và không hiểu mình sẽ tồn tại được bao lâu. Ông rất thương xót, đồng thời cũng nhớ tới những kỷ niệm mà hồi trước, khi cô còn nhỏ, ông dạy học ở xã bên ấy, cô thường núp nghe ông giảng truyện Kiều.

Ông quyết định đem cô về nhà cha mẹ và lấy cô làm vợ. Cấp trên không đồng ý. Ông là đảng viên, lại trưởng phòng Tuyên huấn kiêm chính trị viên tiểu đoàn, không được lấy con cái địa chủ, nếu lấy thì sẽ bị đuổi khỏi quân đội và bị khai trừ khỏi đảng. Tính ông ngang bướng, ông chấp nhận điều kiện thứ hai và cô Phạm Thị Nhu trở thành người vợ sống với ông cho đến bây giờ, sinh cho ông được 10 người con cùng với 37 đứa cháu như chúng ta sẽ biết.

Đầu năm 1955, ra khỏi quân đội, ông về Hà Nội xin vào làm việc tại báo Văn Nghệ. Trong thời gian 1956-1957, ông tham gia Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương. Ông sáng tác những tác phẩm lên án quyết liệt những tiêu cực của các cán bộ nịnh hót, đố kỵ, ám hại lẫn nhau vv… Như trong tác phẩm Cũng những thằng nịnh hót và trong truyện ngắn Lộn sòng, ông coi mình là nạn nhân và phê phán một cách gay gắt.

Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan bị đi cải tạo mấy năm rồi được thả, cho về địa phương và bị quản chế tại địa phương. Hiện nay tất nhiên lệnh quản chế đó đã hết từ lâu nhưng ông vẫn sống tại quê nhà.

Các tác phẩm

Hữu Loan chưa xuất bản tập thơ nào. Một số bài thơ đã được phổ biến trên các báo chí của ông: Màu tím hoa sim, Đèo Cả, Yên mô, Hoa lúa, Tình Thủ đô…

Tại miền Nam, bài Màu tím hoa sim đã được các nhạc sĩ Dũng Chinh, Phạm Duy, Anh Bằng và Duy Khánh phổ nhạc… Trong đó bài của Dzũng Chinh và Phạm Duy là nổi tiếng nhất.

Vào tháng 10 năm 2004, Màu tím hoa sim đã được Công ty Cổ phần Công nghệ Việt (viết tắt: vitek VTB) mua bản quyền với giá 100 triệu đồng. (Nguồn: datviet.com)

Để tưởng niệm Hữu Loan, sau đây là:

1. Nguyên văn bài thơ Màu Tím Hoa Sim

2. Bản dịch bài thơ sang tiếng Anh (“Berryflower Violet”) của TĐH.

3. Video bài thơ Màu Tím Hoa Sim, do Quốc Anh ngâm.

4. Video bản nhạc “Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà”, Phạm Duy viết, do Elvis Phương hát.

5. Video bản nhạc “Những Đồi Hoa Sim”, Dzũng Chinh, do Phương Dung hát.

6. Audio link “Những Đồi Hoa Sim” của Dzũng Chinh, do Hương Lan và Duy Quang hát.

7. Video bản “Chuyện Hoa Sim” của Anh Bằng, do Như Quỳnh hát.

8. Audio link bản “Màu Tím Hoa Sim” của Duy Khánh, do chính Duy Khánh hát.

9. Audio link bản “Màu Tím Hoa Sim” của Duy Khánh, do Giao Linh hát.

10. Tiếp theo đó là lời kể của Hữu Loan về cuộc tình đã tạo nên bài thơ này.

Các bài thơ khác của Hữu Loan có thể đọc tại linh này.

Cầu xin cho linh hồn Hữu Loan được an lạc nơi chín suối.

Hoành

Màu Tím Hoa Sim

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh.
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái.
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh bết bùn
Đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo.

Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi.
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…

Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương.
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh

Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được nhìn nhau một lần.

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…

Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Biết tin em gái mất
trước tin em lấy chồng;
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí.
Chiều hành quân
Qua những đồi sim
những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát
trong màu hoa
(áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…).

Hữu Loan

Berryflower Violet

She had three brothers in the army
The younger ones
some weren’t yet talking
When her hair was still soft

I was a soldier
away from home
Loving her as a little sister
The wedding day
she didn’t ask for a new dress
I wore army uniform
The hobnail boots
Battlemud-smeared
Lovely she smiled
beside the odd husband

I came back from the front
Wedding done, I left.
From the far war zone
I thought of her, uneasy
Marrying in war time
Who leaves and would return?
If I don’t come back
how pitied would it be
for the little wife waiting
in the country evenings…

Yet the boy in the firing lines didn’t die
but died
the little girl behind
I came back
seeing her not
My mother sat by her tomb in darkness
The wedding day’s flowerpot
had become an incense vessel
besieged in expired coldness

Her hair was soft
too short to pin up
O my beloved, the last minute
we couldn’t hear each other
we couldn’t see each other even once
Those days she loved violet berryflowers
Her dress was berryflower violet
Those days
night lamp
small shadow
She mended for her husband the shirt
those days…

An afternoon
rain over the forest
the three brothers in the northeastern front
received words of the sister’s death
before the wedding news
An early autumn wind
made the river waters creep
The little brother grew up
lost
looking at the sister’s picture
When came the early autumn wind
the grass withered by the tombstone

In the afternoons
my platoon passes through berry hills
berryflower hills infinitely long in the afternoons
Berryflower violet
endlessly purples the desolate afternoons
Looking at the torn shirt shoulder
I sing
in the flower’s color
“My shirt is torn by the seam
My wife died
My mother has not yet mended it.”

TĐH translated
(June 13, 1998, March 2, 2000; March 18, 2010)

 

Bài thơ Màu Tím Hoa Sim – Quốc Anh ngâm


.

Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà – Phạm Duy – Elvis Phương

.

Những Đồi Hoa Sim – Dũng Chinh – Hương Lan & Duy Quang (Nhấn chuột vào đây)

.

Chuyện Hoa Sim – Anh Bằng – Như Quỳnh

.

Màu Tím Hoa Sim – Duy Khánh (nhấn chuột vào đây)
.

Màu Tím Hoa Sim – Duy Khánh – Giao Linh (nhấn chuột vào đây)

Đôi lời tự thuật của chính tác giả bài thơ nổi tiếng trên:

Phần 1: Mà chết người gái nhỏ hậu phương…

Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và …tôi – Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất ,bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ , tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.

Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: “Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”.  Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..

Có lần tôi kể chuyện ” bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được.  Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
-Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ….Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
-Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ: -Ngọt quá.

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì….tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa…

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …

Chín năm sau, tôi trở lại nhà…Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp….

Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ” soạn kịch bản”.
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: ” yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!

Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.

Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.

Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn….Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói “Khi tóc nàng đang xanh …” …Tôi về không gặp nàng…

Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã  chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.

Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chổ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : 
Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá!  Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!

Đến vụ Nhân văn Giai phẩm

Đó là thời năm 1955 – 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng….Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông … Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chổ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?

Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi…

Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng.  Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!

Phần 2: Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ…

Vợ nhà thơ Hữu Loan – Bà Phạm Thị Nhu

Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955.

Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền.

Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông .

Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công.  Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.

Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.
 
Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.

Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no….Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai , 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!

Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.

Năm 1988, tôi ” tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự.
 
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
 
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác , nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.

© Hữu Loan

Nhà thơ Y Phương

Tiểu sử:

Tên thật: Hứa Vĩnh Sước
Dân tộc: Tày
Sinh năm: 1948
Nơi sinh: Trùng Khánh, Cao Bằng
Bút danh: Y Phương
Thể loại: thơ, kịch

Các tác phẩm:

– Người núi Hoa (1982)
– Tiếng hát tháng giêng (1986)
– Lửa hồng một góc (1987)
– Lời chúc (1991)
– Đàn then (1996)
– Thơ Y Phương (2002)

Vài bài thơ của Y Phương:

Tên làng

Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Ba mươi tuổi từ mặt trận về
Vội vàng cưới vợ

Ba mốt tuổi tập tành nhà cửa
Rào miếng vườn trồng cây rau
Hạnh phúc xinh xinh nho nhỏ ban đầu
Như mặt trời mới nhô ra khỏi núi

Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Mang trong người cơn sốt cao nguyên
Mang trên mình vết thương
Ơn cây cỏ quê nhà
Chữa cho con lành lặn

Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Lần đầu tiên ôm tiếng khóc lên ba
Lần đầu tiên sông núi gọi ông bà
Lần đầu tiên nhóm lửa trên mặt nước
Lần đầu tiên sứ sành rạn nứt
Lần đầu tiên ý nghĩ khôn lên

Ý nghĩ khôn lên nỗi buồn thấm tháp
Bàn chân từng đạp bằng đá sắc
Trở về làng bập bẹ tiếng đầu tiên

Ơi cái làng của mẹ sinh con
Có ngôi nhà xây bằng đá hộc
Có con đường trâu bò vàng đen đi kìn kịt
Có niềm vui lúa chín tràn trề
Có tình yêu tan thành tiếng thác
Vang lên trời
Vọng xuống đất
Cái tên làng Hiếu Lễ của con

Phố Xưa

Phố xưa
Bây giờ vẫn như xưa
Những mái nhà nâu
Những cột nhà đen
Đêm đêm lép bép ngọn đèn.

Tôi đi trên con đường xưa
Tránh đứa trẻ đang bò chơi bi
Tránh ông già lim dim sưởi nắng
Tránh người yêu xưa đầu đường áo trắng
Con trên vai đi thẳng chẳng nhìn ai

Giận nhau lâu
Nhớ nhau dài
Tôi trở về tìm người yêu xưa ở phố
Em gọi
Nhưng tôi không ngoái cổ
Giả vờ đi.

Mùa hoa

Mùa hoa
Mùa đàn bà
Mặt đỏ phừng
Thừa sức vác ông chồng
Chạy phăm phăm lên núi.

Mùa hoa
Mùa đàn ông
Mệt như chiếc áo rũ
Vừa vịn vừa đi vừa ngái ngủ.

Nói với con

Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con

Y PHƯƠNG

Nhạc sĩ Đỗ Thất Kinh: Ngõ Vàng Quỳ – Nghìn Tay Ôm Một Nụ Cười

Chào các bạn,

NS Đỗ Thất Kinh

Hôm nay, nhờ thông tin từ anh Trần Can, mình có dịp giới thiệu đến các bạn một tài năng Tây Nguyên nữa, đó là nhạc sĩ Đỗ Thất Kinh, tức kiến trúc sư Đỗ Kim Châu của Buôn Ma Thuột

Nhạc của anh Đỗ Thất Kinh mang nhiều màu sắc của du ca thập niên ’70–sinh viên đi qua các nẻo quê hương, hát với cây đàn guitar, cho tình yêu, thân phận, và đất nước.

Thưa em xưa nếm hạt đất vàng
Nằm buông tóc trôi một giòng sông
Ta theo vết hương thẳm đầu núi
Một sớm mai về nơi suối nguồn
(Ngõ Vàng Quỳ – ĐTK)

Ca sĩ Ngọc Huy

Đây là tuổi trẻ không bao giờ già. Những sinh viên của giai đoạn này, cho đến khi chết vẫn hoài chạy theo bóng hình quyến rũ cùa quê hương, tình yêu, và thân phận… như cành tùng chênh vênh sườn đồi nơi đầu gió, muôn thuở còn xanh.

Về với mây hát đôi câu ru hời
Về núi cao rũ vai bụi đường xa
Ngồi hát ngêu mấy con chữ ta bà
Tình hốt nhiên rớt trên mây la đà
(Nghìn Tay Ôm Một Nụ Cười – ĐTK)

Hai bản nhạc chúng ta sẽ nghe đây được ca sĩ Ngọc Huy trình bày. Ngọc Huy có giọng ca rất trầm, ấm, và đầy. Rất truyền cảm. Rất hợp với các bản nhạc này.

Chúng ta có hai links đến audio file để nghe, với âm thanh rất tốt. Bản đầu, Ngõ Vàng Quỳ, do Ngọc Huy hát chính và Đỗ Thất Kinh ca bè. Bản thứ hai do Ngjoc Huy ca solo.

Bản Ngõ Vàng Quỳ còn có link đến Youtube, cho các bạn muốn xem video, nhưng file video âm thanh không tốt, nên không nghe được giọng ca trung thực của Ngọc Huy.

Ngõ Vàng Quỳ
– Đỗ Thất Kinh –

Xưa theo em dưới Ngõ Vàng Quỳ
Bầy chim trắng bay về tựa như bông
Xưa theo em nhớ mãi từng mùi hương
Hỡi em nhu mì như đóa hường

Nay theo em bên ngõ trổ hoa vàng
Mà nhớ mang mang làn hương người xưa
À ơi! À ơi! (i) À ơi!

Thưa em xưa nếm hạt đất vàng
Nằm buông tóc trôi một giòng sông
Ta theo vết hương thẳm đầu núi
Một sớm mai về nơi suối nguồn

Ơi em khép nép đóa dị thường
Vừa hát câu ru lời u trầm Đông Phương
À ơi! À ơi! (i) À ơi!

Thưa em xưa ngõ trổ vàng quỳ
Thưa em nay ngõ trổ vàng quỳ
Thưa em nay ngõ trổ vàng quỳ.
Ai qua vương vấn một mùi hương.
(Ai qua vương vấn một mùi hương…)

Xin nhấn chuột vào đây để nghe Ngọc Huy và Đỗ Thất Kinh song ca Ngõ Vàng Quỳ

Ngọc Huy ca solo Ngõ Vàng Quỳ


.

N g h ì n T a y Ô m M ộ t N ụ C ư ờ i
Nhạc & hoà âm:đỗthấtkinh

Mọc tay dài vói mây cười nghiêng ngả
Kìa trăng lạnh bước ra hồn ngậm sương
Mọc chân dài bước quanh ngày phố lạ
Tìm dấu ai bóng chim khuất non tà

Tìm em nơi nào mông mù phố lạ
Tìm ta hoang quạnh cõi miền rất xa

Về với mây hát đôi câu ru hời
Về núi cao rũ vai bụi đường xa
Ngồi hát ngêu mấy con chữ ta bà
Tình hốt nhiên rớt trên mây la đà

Ngụm mây say tỉnh hớp một hớp tình
Đàn reo tích tịch tang tình tính tang
Có đoá hoa cười giữa muôn hoa
Ta đi vào lạc bước chân ra
Có tiếng chim rộn giữa chân chim
Ta ôm đàn reo cùng cỏ hoa

Từ biết em
Bỗng dưng đời rất lạ
Từ yêu người
Trái tim ngọt cỏ hoa
Mọc tay dài ôm người đâu mệt lả
Mọc tay dài cho ta ôm muôn loài

Nghìn tay ôm một giấc mơ đá quạnh
Nghìn tay ôm người
Trái tim lá xanh…

Xin nhấn chuột vào đây đề nghe Ngọc Huy hát.

Giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh 2009: Inrasara

Là Giải thưởng nhằm tôn vinh các học giả Việt Nam và nước ngoài thuộc mọi quốc gia. Giải thưởng được Khoa Quốc tế – Đại học Quốc gia Hà Nội tài trợ cùng đối tác là vài Đại học Quốc tế khác. Năm 2007 Giải thưởng được dành cho dịch giả triết học Bùi Văn Nam Sơn. Năm 2008 hai nhà nghiên cứu là TS David G. Marr (Australia) và TS Yumio Sakurai (Nhật) đoạt Giải.

Năm nay, toàn bộ Ủy viên Hội đồng Khoa học Giải thưởng nhất trí trao cho các công trình nghiên cứu của Inrasara.

Giải thưởng sẽ được phát tại Hà Nội ngày 24-3-2010.

Trần Can xin thông báo cùng các anh chị em trên Đọt Chuối Non & xin chia vui cùng anh Sara.

Sơ lược công trình nghiên cứu của anh Inrasara:

Về nghiên cứu văn hóa Chăm

Văn học Chăm I – Khái luận, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1994.
Văn học dân gian Chăm – Ca dao, Tục ngữ, câu đố.
+ In lần thứ nhất: NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1995.
+ In lần thứ hai: NXB Văn hóa Dân tộc, H., 2006.
Văn học Chăm II – Trường ca, sưu tầm – nghiên cứu.
+ In lần nhất: NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1995.
+ In lần thứ hai: NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh, 2006.
Từ điển Chăm – Việt (viết chung), NXB Khoa học Xã hội, H., 1995.
Từ điển Việt – Chăm (viết chung), NXB Khoa học Xã hội, H., 1996.
Văn hóa – xã hội Chăm, nghiên cứu & đối thoại, tiểu luận
+ In lần thứ nhất: NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1999.
+ In lần thứ hai: NXB Văn học, H., 2003.
+ In lần thứ ba: NXB Văn học, H., 2008.
Tự học tiếng Chăm, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 2003.
Từ điển Việt – Chăm dùng trong nhà trường (viết chung), NXB Giáo dục, H., 2004.
Sử thi Akayet Chăm, NXB Khoa học Xã hội, H., 2009.

Chủ biên
Tagalau, tuyển tập sáng tác – ¬sưu tầm – nghiên cứu Chăm (10 tập, 2000-2009).
Tủ sách văn học Chăm (10 tập – đã in 3 tập).

Có thể nói không ngoa rằng Inrasara đã làm sống lại văn học cổ điển Chăm, một nền văn học tưởng chừng đã tuyệt diệt, đã suýt bị lãng quên một cách oan uổng.

Là người con của hai nền văn hoá Chăm- Việt, anh đã sưu tầm và chuyển ngữ sang tiếng Việt rất thành công những Arya (Trường ca). Akayet ( Sử thi) Chăm cổ.

Góp phần làm phong phú nền văn hoá đa dân tộc Việt Nam.

Thông tin báo chí tại đây.

Trần Can

“Chở bao nhiêu nặng thuyền không khẳm”

(Trân trọng viết tặng Cô Huỳnh Huệ)

Em đến với Cô bằng một lần bị Cô mắng mỏ không mấy yêu thương nhưng chân tình và nghiêm túc. Rồi từ đó, như có một lực hút hấp dẫn, em trông tin Cô mỗi ngày. Biết mỗi ngày là hơi quá, hơi đòi hỏi, nhưng trông vẫn trông. Và từ đó, hai cô trò sử dụng ngôn từ để viết cho nhau. Trò thấy mình như đáng yêu hơn, trưởng thành hơn trong mỗi mail của Cô.

Cô dạy tiếng Anh, trò không có khiếu tiếng Anh. Cô khuyến khích dịch những truyện ngắn, trò vất vả cố gắng vì bị “khiêu khích” nhưng chưa có tác phẩm nào ra ngô ra khoai. Cô bảo: “Với đám nhóc yêu của Cô, truyện dịch và danh ngôn dịch không thiếu, Cô yêu chúng vì chúng hăng say và tích cực”. Trò quay sang định dịch danh ngôn để được đứng vào hàng ngũ “đám nhóc yêu” của Cô nhưng cũng bó tay. Rốt cục, chỉ có tiếng Việt là “say” hơn.

Tôi học tiếng Việt từ hai người thầy dạy tiếng Anh. Trước là Thầy dạy tôi thời đại học. Thầy dạy viết rất vui: chọn từ này, rồi xóa từ này thay từ khác hay hơn, rồi có khi lại thay từ hay hơn đó bằng một từ đắt hơn, thực sự phù hợp với tâm trạng, hoàn cảnh của người viết. Ý sau nối với ý trước, nối chưa hay thì sắp xếp thứ tự lại cho hay hơn, logic hơn. Cô dạy tôi thời “sau đại học”. Cô là nguồn cảm hứng cho trò phát triển ngôn từ, Cô là người khám phá và khơi dậy những gì tưởng đã ngủ quên hoặc chưa từng có trong tôi. Đầu óc tôi trở nên hoạt động một cách điệu nghệ và tràn đầy những cảm nhận yêu thương. Tôi hài lòng với những gì mình viết được ra, sung sướng biết Cô bắt được những gì gì đó và Cô cười. Trò say sưa trải lòng, tha thiết “nghe” thấy Cô cười. Cô cười một, lòng trò ấm áp cười hai, ba. Blessing and blessing.

Cảm nghĩa Cô đưa trò đến biển yêu thương. Trò như đứa con tha thiết mong mỏi mẹ về sau mỗi giờ tan sở, mong tin Cô như hoa cỏ mong sương mỗi sớm. Mỗi email của Cô, cho dù hơi lộn xộn vì Cô không đủ thời gian sắp xếp nó lại, chỉ kịp gõ nhanh những gì Cô đang nghĩ, vậy mà như một món ngon khiến tôi có thể no suốt mấy ngày. Đó là lý do vì sao tôi hay nói với Cô là mình đã rất sung sướng và đầy đủ để Cô dành thời gian cho bản thân mình và những người khác đang rất cần Cô.

Sau lưng Cô mang một chiếc gùi nặng những niềm yêu. Em sung sướng được cùng những niềm yêu khác làm nặng vai Cô. Những khi Cô quá nặng những yêu thương, chia sẻ thì em lại tự động leo lên trèo ra trước thành một bông hoa thật nhỏ và thật nhẹ xin cài trên ngực Cô. Leo ra rồi lại leo vào…

Nguyễn Thị Phương Thảo

Thái Trinh – cô bé hát tiếng Anh hay

Chào các bạn,

Hôm trước mình có giới thiệu ca sĩ Taylor Swift của nước Mỹ, hôm nay mình giới thiệu 1 ca sĩ không chuyên của Việt Nam – hát nhạc và gảy đàn ghi ta giỏi quá trời luôn !

Name: Nguyễn Thị Thái Trinh
Ngày sinh: 9/9/1993
Hometown: Ho Chi Minh City
Occupation: Student
Schools: Bùi Thị Xuân High School
Thể loại nhạc yêu thích: Bossanova, jazz
Biệt danh (nick name) : Trinh Xù, Chinsu
Các quán hay ghé thăm: Hollywoodome, Cooku’s nest, Serenata
Thể loại nhạc yêu thích: Bossanova, jazz

Bạn Thái Trinh đang là học sinh 11 trường THPT Bùi Thị Xuân Quận 1.

Bạn bè Trinh nói có lần tới cooku’s nest thấy chủ quán giới thiệu em chơi piano từ năm 3 tuổi, lúc cuối buổi còn thấy cầm violin lên chơi nữa.

Cô bé này học tiếng Anh rất giỏi đạt giải Appollo, vừa dễ thương hát vừa hay, bạn bè gọi vui là No1 “Apollo english idols”.

Nếu nền thương mại âm nhạc Việt Nam phát triển như Mỹ rất có thể tài năng Thái Trinh được lăng xê không kém Taylor Swift của nước Mỹ đâu.

Các bạn trẻ tuổi teen hãy hát và học Tiếng Anh cùng Thái Trinh qua 3 bài hát cover của các ca sĩ nổi tiếng nhé : The Show, Love me tender và Like a star.

Chúc các bạn một ngày tươi vui!

Nguyễn Hoàng Long

P/S: Ai có thông tin thêm về Thái Trinh xin cung cấp thêm nhé !

.

I’m Yours – Nhạc: Jason Marz – Ca sĩ: Thái Trinh

Lyrics to I’m Yours :

Well you done done me
and you bet I felt it
I tried to be chill
but you’re so hot that I melted
I fell right through the cracks
Now I’m trying to get back

Before the cool done run out
I’ll be giving it my bestest
And nothing’s gonna to stop me
but divine intervention
I reckon it’s again my turn
to win some or learn some

But I won’t hesitate
no more, no more
It cannot wait, I’m yours

Well open up your mind
and see like me
Open up your plans
and damn, you’re free
Look into your heart
and you’ll find love love love love

Listen to the music of the moment
people dance and sing
We’re just one big family
And it’s our God-forsaken right
to be loved love loved love loved

So I won’t hesitate
no more, no more
It cannot wait I’m sure

There’s no need to complicate
Our time is short
This is our fate, I’m yours

Scooch on closer dear
And I will nibble your ear

I’ve been spending way too long
checking my tongue in the mirror
And bending over backwards
just to try to see it clearer
But my breath fogged up the glass
And so I drew a new face and laughed

I guess what I’m be saying is
there ain’t no better reason
To rid yourself of vanity and
just go with the seasons
It’s what we aim to do
Our name is our virtue

But I won’t hesitate
no more, no more
It cannot wait I’m sure

Well open up your mind
and see like me
Open up your plans
and damn, you’re free
Look into your heart
and you’ll find the sky is yours

Please don’t, please don’t,
please don’t
There’s no need to complicate
Cause our time is short
This, oh this, oh this is our fate, I’m yours

.

Love me tender – Tác giả: Elvis Presley – Ca sĩ: Thái Trinh

Love me tender,
Love me sweet,
Never let me go.
You have made my life complete,
And I love you so.
Love me tender,
Love me true,
All my dreams fulfilled.
For my darlin I love you,
And I always will.
Love me tender,
Love me long,
Take me to your heart.
For it’s there that I belong,
And well never part.
Love me tender,
Love me dear,
Tell me you are mine.
Ill be yours through all the years,
Till the end of time.
(when at last my dreams come true
Darling this I know
Happiness will follow you
Everywhere you go).
.

The show – Tác giả: Lenka – Ca sĩ: Thái Trinh

I’m just a little bit caught in the middle
Life is a maze and love is a riddle
I don’t know where to go, can’t do it alone
I’ve tried and I don’t know why
Slow it down, make it stop or else my heart is going to pop
‘Cause it’s too much, yeah it’s a lot to be something I’m not
I’m a fool out of love ’cause I just can’t get enough
I’m just a little bit caught in the middle
Life is a maze and love is a riddle
I don’t know where to go, can’t do it alone
I’ve tried and I don’t know why
I’m just a little girl lost in the moment
I’m so scared but I don’t show it
I can’t figure it out, it’s bringing me down
I know I’ve got to let it go and just enjoy the show
The sun is hot in the sky just like a giant spotlight
The people follow the signs and synchronize in time
It’s a joke nobody knows, they’ve got a ticket to the show
Yeah, I’m just a little bit caught in the middle
Life is a maze and love is a riddle
I don’t know where to go, can’t do it alone
I’ve tried and I don’t know why
I’m just a little girl lost in the moment
I’m so scared but I don’t show it
I can’t figure it out, it’s bringing me down
I know I’ve got to let it go and just enjoy the show
Just enjoy the show
I’m just a little bit caught in the middle
Life is a maze and love is a riddle
I don’t know where to go, can’t do it alone
I’ve tried and I don’t know why
I’m just a little girl lost in the moment
I’m so scared but I don’t show it
I can’t figure it out, it’s bringing me down
I know I’ve got to let it go and just enjoy the show
Just enjoy the show, just enjoy the show
I want my money back, I want my money back
I want my money back, just enjoy the show
I want my money back, I want my money back
I want my money back, just enjoy the show

.

Like a star – Tác giả: Bailey Rae, Corinne – Ca sĩ: Thái Trinh

Just like a star across my sky
Just like an angel off the page
You have appeared to my life
Feel like I’ll never be the same
Just like a song in my heart
Just like oil on my hands
Oh, I do love you
Still I wonder why it is
I don’t argue like this
With anyone but you
We do it all the time
Blowing out my mind
You’ve got this look I can’t describe
You make me feel like I’m alive
When everything else is a fade
Without a doubt you’re on my side
Heaven has been away too long
Can’t find the words to write this song
Oh, your love
Still I wonder why it is
I don’t argue like this
With anyone but you
We do it all the time
Blowing out my mind
I have come to understand
The way it is, it’s not a secret anymore
‘Cause we’ve been through that before
From tonight I know that you’re the only one
I’ve been confused and in the dark, now I understand
I wonder why it is
I don’t argue like this
With anyone but you
I wonder why it is
I won’t let my guard down
For anyone but you
We do it all the time
Blowing out my mind
Just like a star across my sky
Just like an angel off the page
You have appeared to my life
Feel like I’ll never be the same
Just like a song in my heart
Just like oil on my hands

Inrasara, chàng Kazik của Mỹ Sơn văn học

Đó chỉ là một cách nói ví von, nhưng rất đúng. Nếu ngày trước không có Kiến Trúc Sư Kasimierz Kwiatkowsky (người Balan -thường gọi thân mật là Kazik), không nằm gai nếm mật chịu muôn ngàn gian khổ thiếu thốn thì chúng ta có thể đã không có một Mỹ Sơn thánh địa hôm nay , chúng ta hãy nghe lại một nhận định của Kazik, khi lần đầu bắt gặp Mỹ Sơn :

    “Người Chăm cổ đã biết thổi hồn vào đất đá; biết dựa vào thiên nhiên để làm nên một Mỹ Sơn tráng lệ , thâm nghiêm và hùng vĩ. Đây là một bảo tàng kiến trúc điêu khắc nghệ thuật vô giá của nhân loại mà chúng ta còn lâu mới hiểu hết.”


Công lao của Kazik bỏ ra cho Mỹ Sơn không nhỏ, ông đã từng thoát chết khi đi cùng đội rà phá bom mìn còn sót lại , đã từng ăn ngủ cùng Mỹ Sơn trong hoàn cảnh thiếu thốn đến cơ cực trong những năm 1980 khi đất nước còn chật vật muôn vạn khó khăn, ông đã từ bỏ những công việc có lương cao và cuộc sống đầy đủ ở quê nhà chỉ để sống cùng và với Mỹ Sơn, tình yêu nghệ thuật kiến trúc cổ của ông làm chúng ta trân trọng và không khỏi cảm động.

Chỉ tiếc một điều khi công lao của ông được đền đáp là lúc ông không còn bên cạnh chúng ta nữa, ông mất năm 1997 thì năm 1999 Mỹ Sơn chính thức được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.

Tượng của ông sẽ được dựng tại Hội An, và sẽ có một con đường mang tên ông ở đô thị cổ này, đó cũng là một cách chúng ta nhớ ơn những gì ông đã làm cho đât nước Việt thân yêu của chúng ta.

Năm 1993, có một bài thơ mang tên Kazik của một thi sĩ lạ hoắc: Inrasara, một nhà thơ Chăm.

    KAZIK

    Như vỗ cánh bay ngược Thời Gian
    bằng đôi tay đại bàng
    Kazik
    bắt mạch đống vụn tàn
    song thoại hồn thiên cổ …

    vỡ lớp bụi ngày tháng và năm
    cho lộ thiên Quá Khứ
    đánh thức Hội An, dựng dậy Mỹ Sơn
    sống lại một trời lẫm liệt…

Đây là một bài thơ rất hay, của một thi sĩ đại diện cho cả cộng đồng Chăm nhỏ bé nói lên lời tạ ơn với Kiến trúc sư Kazik, để rồi sau đó, cũng chính anh trở thành một Kazik trong văn học Chăm, ( và cả văn học Việt ): Inrasara

Năm 1997, giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam được trao cho tập thơ Tháp Nắng của một thi sĩ Chăm : Inrasara.

Nhiều người cho đó là một hiện tượng lạ , nhưng đến 2005 một lần nữa, Inrasara khẳng định tài năng thực sự của mình bằng một cú đúp ngoạn mục: giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam lần thư 2 và giải thưởng Văn Học Đông Nam Á với tập thơ : Lễ Tẩy Trần Tháng Tư

Vinh hạnh cho Inrasara, cho cộng đồng Chăm và cho cả dân tộc Việt.

Đọc thơ Inrasara, luôn cho ta nhiều cảm xúc khác nhau, tựa như xem một bức tranh vẽ lên toàn cảnh xã hội Chăm, buồn và đẹp, u uẩn và kiêu hãnh, và làm cho người xem luôn cảm thấy day dứt.

    Thấm đẫm sương mù quá khứ
    chàng làm thơ
    những vần thơ
    chảy máu…
    những vần thơ
    lấp lánh
    như giọt nước mắt

    giọt nước mắt
    không rơi được
    chảy ngược
    lên trời
    thành những cánh sao …

    ( thơ Trần Can tặng Inrasara )

Không chỉ làm thơ, Inrasara còn dành rất nhiều tâm huyết và sức lực để nghiên cứu, sưu tầm, dịch thuật và cóp nhặt văn học Chăm, sắp xếp lại cho có hệ thống. Một công việc rất vất vả mà anh ròng rã gánh vác suốt thời tuổi trẻ, đơn thuần chỉ vì tình yêu đối với quê hương và dân tộc Chăm của mình, thật đáng trân trọng.

Từ Inrasara, mọi người đã có một cái nhìn Khác về Chăm.
Đó là điều lớn nhất mà Inrasara đã làm được.
Và nhiều người ( trong đó có tôi, đã phải tự mình đi tìm câu trả lời câu hỏi mà Inrasara đặt ra trong những bài thơ nhức nhối )

Qua những bể dâu lịch sử, người Chăm đã trở thành một bộ phận trong cộng đồng Việt Nam, tôi tin rằng từ sự khai mở quá khứ của Inrasara, những trường ca Chăm tuyệt đẹp: Ariya Xah Pakei, Cam Bini, Bini- Cam, Ppo Parơng, Glơng Anak… sẽ được phổ biến rộng rãi, và sẽ được đưa vào văn học sử Việt Nam.

Khu vườn Văn học sử thêm những bông hoa đầy hương sắc, tại sao không?

Tôi rất thích câu nói : Không có dân tộc nào mất đi, cho dù những biến thiên lịch sử có thể làm mất tên đất nước họ trên bản đồ thế giới, nhưng dân tộc ấy vẫn mãi trường tồn cùng với các dân tộc khác, cho đến ngày cuối cùng của loài người trên mặt đất này. ..

Inrasara, một người con Chăm đẹp đẽ, rất truyền thống và thấm đẫm tinh thần hiện đại, quá khứ và tương lai luôn nối liền trong anh, như một dòng chảy xuyên suốt, không bao giờ ngưng nghỉ …

Xin cảm ơn Kazik, xin cảm ơn Inrasara, những người khai mở cho quá khứ linh hiển lộ thiên …

Trần Can

* Kiếntrúc sư Kasimierz Kwiatkowsky ( tức Kazik ) sinh 1944 tại Lublin, Balan . Mất 1997 tại Huế, Việt Nam

Nguyễn Thanh Tùng: Cậu bé mù trở thành đại sứ âm nhạc

Chào các bạn,

Mình rất thích tiếng đàn bầu, cây đàn một dây thuần túy Việt Nam với những âm thanh ai oán của dân nhạc miền Nam.

Dĩ nhiên là đàn bầu có thể phát ra âm thanh cho mọi loại nhạc, kể cả rock and roll của Mỹ, nhưng đàn bầu chỉ đạt được đỉnh cao của nó với những lời nhạc đứt ruột của dân ca miền Nam–dân ca của những người biệt xứ, từ Bắc hay Trung bị đày vào miền Nam làm đồn điền cao su cho Pháp, hay đào sình đắp mương để khai phá miền Nam. Những lời ca của những kẻ xa nhà, tâm tư heo hút.

Và tiếng đàn của chàng nghệ sĩ mù Nguyễn Thanh Tùng có lẽ là tiếng đàn bầu hay nhất mình đã từng được nghe. Hôm nay chúng ta sẽ đọc về cuộc đời lạ thường và tiếng đàn tuyệt diệu của Nguyễn Thanh Tùng qua bài báo Thanh Niên năm 2007 và một số youtube videos. Continue reading Nguyễn Thanh Tùng: Cậu bé mù trở thành đại sứ âm nhạc

VINAPLAY & Tác giả


Loại “hàng độc” vừa xuất hiện trong hành trang của diễn viên Lê Tuấn Anh là một chiếc máy tinh xảo “made in Viet Nam”, đã đưa chàng nghệ sĩ thích ẩn mình từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, khiến anh hào hứng nhận vai sứ giả vô điều kiện để cổ vũ phong trào “Người Việt dùng hàng Việt”.

Cuộc “ chạm trán” thú vị ở cửa hàng

Hiểu tôi chỉ chú ý tới “vật bất ly thân” lạ mắt mà anh đang gắn trên chiếc ô tô thân thuộc chứ không định tra vấn gì khác, Lê Tuấn Anh vui vẻ kể:

– Tôi lang thang trên mạng, tình cờ thấy giới thiệu sản phẩm công nghệ mới hay hay, ra mua về dùng thử, quá thích luôn! Không ngờ người Việt mình cũng làm ra được loại máy quá hay như zậy ! Khi quay lại chỗ mua để hỏi thêm vài chi tiết, tôi gặp một cậu chạy xe máy chở những hộp VinaPlay tới giao cho cửa hàng. Ngỡ cậu ta là nhân viên tiếp thị, tôi bật ngửa khi chủ tiệm cho biết Nguyễn Nguyệt Nam, chàng trai rất giản dị khiêm tốn ấy chính là “cha đẻ” của VinaPlay! Lại càng nể hơn khi khám phá ra cậu chính là con trai của kỹ sư Nguyễn Quyền- “Ông chủ nhà máy điện tư nhân đầu tiên của Việt Nam”, người mà tôi rất kính phục qua phóng sự trên báo Tiền Phong và chương trình “ Người đương thời” của VTV. Mấy khi con cái của đại gia lại chịu khó tự lập và say mê nghiên cứu khoa học zậy chứ ! Quý mến tài năng trẻ, tôi tự nguyện làm sứ giả vô điều kiện giúp quảng bá loại sản phẩm đặc biệt, hàng Việt chất lượng cao này. Tôi thấy kiểu dáng và chất lượng VinaPlay hiện đại chẳng thua gì hàng ngoại, so với hàng Trung Quốc thì vượt trội hẳn, giá cả vừa túi tiền với nhiều người, sử dụng cũng thấy rất OK nên đã góp ý với Nam nên bổ sung thêm bộ chuyển nguồn DC để tiện dùng máy trên xe hơi. Tôi giới thiệu VinaPlay cho bạn bè nghệ sĩ thường đi xa, ai cũng thích !

Từ lời kể của nghệ sĩ Tuấn Anh, tôi tiếp tục đi tìm người sở hữu bản quyền trí tuệ của VinaPlay,  phát hiện không chỉ có một mà đến hai kỹ sư trẻ.

Hai anh em tài năng, giàu khát vọng

Từ khi còn là học trò chuyên toán ở phố núi Buôn Ma Thuột, hai anh em Nguyễn Nguyệt Nam, Nguyễn Nguyệt Minh đã nuôi ước mơ sẽ tự mình tạo ra những sản phẩm công nghệ “made in Viet Nam.

VinaPlay - 2 anh em Nam & Minh

Năng nổ, giàu nghị lực, Nam nổi bật trong số kỹ sư điện tử viễn thông tốt nghiệp loại giỏi trường Đại học Bách khoa, được nhiều doanh nghiệp lớn trân trọng chiêu hiền đãi sĩ . Chăm chỉ tích lũy tri thức, kinh nghiệm và tinh thần làm việc bền bỉ của người Nhật qua những chuyến công tác luân phiên đi- về giữa Việt Nam- Nhật Bản để  đào tạo đội ngũ kỹ sư trẻ cũng như tham gia trong nhiều dự án phát triển máy ảnh kỹ thuật số , ước mơ đeo đuổi từ thuở nhỏ trong Nam ngày càng rõ nét. Sau 7 năm làm việc cho Cty viễn thông VTC và Cty phần mềm FPT, Nam quyết định cùng em trai Nguyệt Minh sáng lập Cty Giải pháp mạng Công Nghệ Thông Tin Xanh- Green IT Solution, dồn hết tâm sức vào việc nghiên cứu phát triển “rạp chiếu phim trong bàn tay” .

Xuất sắc không kém anh trai, Nguyệt Minh thuộc thế hệ 8X đã được đào tạo chuyên ngành khoa học máy tính với 5 năm kinh nghiệm làm việc ở những cương vị đáng nể trong ngành công nghệ thông tin Australia : Quản trị mạng cho Thượng Nghị Viện Australia tại bang Victoria ; Xây dựng và quản trị hệ thống chuyển mạch đa giao thức kết nối trụ sở Australia với Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ đồng thời là chuyên gia về hệ thống ảo hóa ứng dụng Citrix của tập đoàn Cadbury Schweppes; Chuyên gia phát triển ứng dụng Mirosoft CRM, Dynamics cho công ty đa quốc gia Health Brands v.v… Về nước cuối năm 2008, Nguyệt Minh thành cộng sự đắc lực cho Nguyệt Nam trong việc đưa VinaPlay từ phòng nghiên cứu ra ứng dụng trong cuộc sống, trở thành loại hàng “độc” trên thị trường .

Tự tạo sản phẩm công nghệ tốt nhất cho người Việt

Theo hai “ông chủ” trẻ của GreenIT, hàng trăm chủng loại máy nghe nhìn di động đang lưu hành trên thị trường thế giới có thể chia nôm na thành 3 nhóm chính:

Nhóm 1 gọi chung MP4 tương tự như chiếc IPOD hiện đại của hãng Apple, bên cạnh việc nghe nhạc còn hỗ trợ chức năng xem phim ảnh trực tiếp, thông qua màn hình LCD nhỏ gọn gắn kèm. Nhược điểm là màn hình quá nhỏ và dung lượng bộ nhớ hạn chế  không nâng cấp được ,  chỉ chứa được số lượng nhỏ phim ảnh.

Nhóm 2 có thể xếp ở vị trí trung gian gọi là SD HDD media-player: máy chiếu phim trên ổ cứng độ phân giải SD, giúp người dùng giải pháp thưởng thức phim ảnh mới thay thế cho cách xem phim ảnh truyền thống lích kích và tốn kém như trên DVD, VCD. Cũng dùng điều khiển từ xa và gắn vào tivi để xem phim ảnh, nhưng dữ liệu phim ảnh lại lưu trữ trên ổ cứng. Nhóm máy này khá phổ biến ở trên thế giới. Tuy nhiên những loại đã có trên thị trường hầu hết chất lượng không ổn định, hoạt động lâu rất nóng, dễ treo máy, đứng hình khi xem phim, không hỗ trợ phụ đề tiếng Việt nên chỉ người thành thạo ngoại ngữ mới sử dụng được.

Nhóm 3 thường gọi HD HDD media-player, tức máy chiếu phim trên ổ cứng độ phân giải cao ngang cỡ Bluray, thuộc dòng sản phẩm cao cấp chỉ vừa túi nhóm “dân chơi HD”, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức đầu tư,  giá đắt khó phổ biến rộng rãi ở Việt Nam.

Nắm bắt nhu cầu thực tế của thị trường, Nam và Minh chọn hướng phát triển VinaPlay ở phân khúc nhóm 2, với những cải thiện, nâng cấp đáng kể về phần cứng, phần mềm để có mẫu mã gọn đẹp, dễ sử dụng, hoạt động bền bỉ, ổn định liên tục, và đặc biệt là hỗ trợ cả phụ đề rời tiếng Việt để có thể phục vụ tốt cho đại đa số người Việt đang sống khắp nơi trên thế giới.

“ Trở ngại lớn nhất”

Được tung ra thị trường trong nước từ cuối năm 2009, kích thước nhỏ gọn đủ sức chứa hàng nghìn phim nổi tiếng thế giới trong ổ cứng dung lượng có thể lên đến 1500 GB, VinaPlay giúp người dùng tha hồ thưởng thức rất nhiều tác phẩm kinh điển .

Trả lời câu hỏi liệu có vướng víu gì về vấn đề bản quyền phim chép trong máy, Nguyệt Nam cho biết nguồn phim chép sẵn chỉ nhằm giới thiệu tính năng và khả năng họat động “tới hạn” của VinaPlay. Còn trong thực tế, khách hàng có thể thưởng thức kho tàng phim ảnh thế giới trên VinaPlay một cách hợp pháp : 1, Tải phim trên mạng internet bởi tài khoản Rapidshare, Itunes, Megaupload v.v… Sau đó chép nguồn phim này vào VinaPlay để san sẻ và thưởng thức trong gia đình. 2, Chép/lưu trữ/nén phim ảnh từ đĩa DVD mà họ sở hữu vào VinaPlay để thưởng thức phim ảnh mọi nơi, bất kể đó là phòng khách, phòng ngủ, nhà hàng, khách sạn hay trên xe đò xe buýt miễn có màn hình tivi, như giải pháp tối ưu và hiệu quả thay thế kho đĩa DVD dễ trầy xước cùng giàn máy cồng kềnh.

Tết dương lịch 2010, Nguyệt Minh cùng vợ mới cưới hưởng tuần trăng mật bằng xe đò quanh California, từ Los Angeles  sang San Francisco . Trên xe có hệ thống chiếu phim nhưng đĩa hỏng, giật và không có nhiều phim để luân phiên chiếu suốt chặng đường dài. Minh đưa  chiếc VinaPlay cho tài xế bật thử. Vô số tên phim hiện ra trên danh sách khiến đoàn khách rất thú vị, cùng bàn tán và nhất trí chọn phim ký hiệu 2012 phụ đề tiếng Anh để xem. Một vị khách nhanh miệng hỏi mua ngay chiếc máy tuyệt diệu  khi biết Minh là chủ công ty sản xuất. Một Việt kiều đến từ Atlanta hỏi kỹ về phim được hỗ trợ phụ đề Việt Ngữ và tính năng đa dạng của VinaPlay, ngỏ ý muốn mở đại lý bán sản phẩm này cho cộng đồng người Việt ở hải ngoại.

Loay hoay sắp xếp lại mặt bàn bề bộn dây nhợ máy móc trong phòng  nghiên cứu đặt trên tầng 3 trụ sở GreenIT (phường 4 quận Tân Bình TP Hồ Chí Minh) cho tôi chụp ảnh, Nguyệt Nam sôi nổi :  Trở ngại lớn nhất chúng tôi đang vượt qua là thuyết phục người tiêu dùng Việt Nam chuyển từ lối mòn dùng DVD, băng đĩa truyền thống sang xem phim trên thiết bị lưu trữ ổ cứng di động. Lịch sử công nghệ cho thấy máy MP3, Sony Walkman chiến thắng như thế nào trong “cuộc cách mạng” lật đổ máy nghe nhạc trên CD. Về lâu dài, giải pháp VinaPlay “kinh tế” hơn nhiều so với cách thức DVD, băng đĩa. Vượt qua “đối thủ” này, GreenIT sẽ tiếp tục cải tiến VinaPlay theo hướng hỗ trợ xem phim độ phân giải cao theo xu thế chung của thế giới.

VinaPlay lên núi

Ngay từ đợt hàng xuất xưởng đầu tiên, VinaPlay đã được GreenIT ưu tiên phân phối lên phố núi Buôn Ma Thuột, nơi còn đó mái ấm đầu đời với bao kỷ niệm thời thơ ấu của anh em Nguyệt Nam, Nguyệt Minh.

Trong những người nhận được gói quà đong đầy ân tình từ GreenIT, có một nhà giáo nổi tiếng về sự thông tuệ và nghiêm khắc,  từng đào tạo rất nhiều học sinh giỏi quốc gia môn tiếng Anh cho tỉnh: cô Huỳnh Huệ , giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Đắk Lăk. Sau nửa tháng suy ngẫm cùng VinaPlay, cô xúc động email cho tôi :

Với chiếc VinaPlay dung lượng ổ cứng cả nghìn GB, tôi đã tận hưởng những phút tuyệt vời giải trí xem phim nghe nhạc và cả lưu trữ tài liệu cho việc  dạy học, kết nối với máy tính và máy chiếu với phần mềm Power Point cho học sinh, sinh viên với tốc độ cao, dễ sử dụng cùng mọi thứ thiết bị  có màn hình và ngõ kết nối.  Đặc biệt là sản phẩm đã được Việt  hoá hoàn toàn. Thật xứng với tên gọi “rạp chiếu bóng trong lòng bàn tay”.

Niềm vui đến bất ngờ khi tôi được biết  người phát triển nên sản phẩm này là Nguyệt Nam, Nguyệt Minh, hai cậu học trò chuyên Toán năm xưa tôi từng dạy ở trường cấp II Phan Chu Trinh, Buôn Ma Thuột. Ngày ấy hai anh em giỏi cả Toán lẫn tiếng Anh, rất  thông minh năng động. Tôi đặt nhiều kỳ vọng vào các em và hạnh phúc sao, tôi đã không nhầm về điều đó …

Hoàng Thiên Nga

2 Ảnh :- Anh em Nguyệt Nam (ngồi), Nguyệt Minh xem phim với VinaPlay

– Poster “ Rạp chiếu phim trong lòng tay”

* Ghi chú: Bạn đọc cần tìm hiểu thêm có thể liên lạc với nam@greenitsolution.vn, 0913613837; hoặc minh@greenitsolution.vn, 0919 83 88 77.

Vàng son huyết lệ


Những ngày đầu năm 2010 đáng nhớ này, cuốn hồi ký độc đáo: “Vàng son huyết lệ” của Minh Phụng (1922 – 1989) do nhà xuất bản Phụ Nữ in ấn, Trung tâm văn hóa Tràng An – một địa chỉ tin cậy về phát hành sách văn học và giáo dục của Thủ Đô tổng phát hành, là món quà quí cho bạn đọc nói chung, bạn đọc trẻ và giới nữ nói riêng.

Nhà văn Tam Lang từng nói: “Đời của Minh Phụng là một cuộc đời giang hồ nhưng là đời giang hồ số một của nước Việt Nam!”. Đời của Minh Phụng mở đầu bằng một thiên tình sử để khép lại bằng một thiên tình hận – Hồ Dzếnh – Báo Thần Chung số 19)…

Cuốn hồi ký của một nhân vật sống cách đây hơn nửa thế kỷ với những ước mơ, khát vọng cháy bỏng mong có cuộc sống “vàng son” không có điểm dừng, để rồi ngậm ngùi trong “huyết lệ”, luôn mới trong thời đại hiện nay.

Có lẽ mong muốn của nhà xuất bản Phụ nữ đã gặp gỡ ý tưởng và tiêu chí của Trung tâm văn hóa Tràng An: Xuất bản và phát hành cuốn hồi ký, để thông qua đó, chuyển đến bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ thông điệp và những bài học quí giá từ cuộc sống. Giúp bạn đọc có thêm sự định hướng, phấn đấu vươn lên bằng cái tài, cái tâm của mình một cách chính đáng.

Nếu bạn chưa đọc cuốn hồi ký này, có thể sẽ coi đây là một cuốn sách bình thường. Nhưng nếu bạn may mắn có cuốn sách này trong tay, chắc chắn bạn sẽ đi từ ngạc nhiên này đến sự thích thú khác về cuộc đời đầy sóng gió của một người phụ nữ tài sắc và đa đoan một thời. Với nội dung phong phú, chân thực cùng bút pháp điêu luyện, tình tiết vô cùng hấp dẫn, có sức lôi cuốn người đọc ngay từ những trang đầu tiên của tập hồi ký. Bởi vậy ngay từ khi cuốn hồi ký mới ra mắt đã được đông đảo bạn đọc đón nhận và chuyền tay nhau.

Bạn đọc có thể mua trực tiếp tại Trung tâm văn hóa Tràng An: 54/ 171 Nguyễn An Ninh, Hoàng Mai, Hà  Nội. ĐT: 04 3664 7143 – 3662 1060 Fax: 04 6284 1316 Mobile: 0912 344 084

Để bạn đọc có thêm thông tin về cuốn hồi ký độc đáo này, tôi xin trích đăng dưới đây bài viết của Xuân Ba  trên báo Tiền Phong:

Người đàn bà Nguyễn Tuân vét cạn túi tặng hoa

Xuân Ba

Bây chừ gấp lại cuốn hồi ký mà tôi cho là lạ lẫn truân chuyên này, chợt bừng ra một cái à! Hóa ra giai thoại lâu nay về nhà văn Nguyễn Tuân là có thật! Đấy là có lần ông đã từng vét sạch tiền trong túi mua (và lại còn mua chịu nữa) tất tật số hoa của những quầy hoa ở bờ hồ Hoàn Kiếm đêm ấy để tặng cho một người đẹp.

Người được tặng nhiều hoa nhất không hề khuyết danh và có niên biểu hẳn hoi. Đó là một đêm mùa xuân năm 1938. Người nhận hoa là Minh Phụng, diễn viễn chính thể hiện vở Kiều Loan của thi sĩ Hoàng Cầm.

Minh Phụng lúc 40 tuổi

Minh Phụng là ai? Là một nữ sĩ. Một nữ sĩ không thường của những năm ba bốn mươi thế kỷ trước. Nói như Tam Lang, “Đời của Minh Phụng là một cuộc đời giang hồ nhưng là đời giang hồ số một của nước Việt Nam!”.

Còn thi sĩ Hồ Dzếnh viết: “Đời của Minh Phụng mở đầu bằng một thiên tình sử để khép lại bằng một thiên tình hận” – (Báo Thần Chung số 19). “Phụng là người trí thức, trí thức giang hồ. Sống như Phụng mới là người biết sống” (Lê Văn Trương, năm 1937)…

Một nhà xuất bản lớn ở Hà Nội đang chuẩn bị cho ra mắt cuốn hồi ký độc đáo của nữ sĩ họ Trịnh có tên là Minh Phụng này. Cuốn hồi ký có tên là Vàng son huyết lệ.

Từ gái quê thành sao sân khấu

Cô gái quê mười lăm tuổi ấy có tên là Nụ, Trịnh Thị Nụ sau đổi tên là Hoàng Minh Phụng là út trong gia đình có 7 anh chị em quê ở Tứ Kỳ, Hải Dương. Bố là một nhà nho làm nghề dạy học. Mẹ buôn bán lặt vặt, gia sản cũng chỉ đủ cho việc chi tiêu tùng tiệm. Nhưng được yêu chiều từ nhỏ, Phụng được đi học chữ nghĩa, không biết được mấy hột nhưng thuộc làu những cuốn sách của Tự Lực Văn Đoàn như Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Tố Tâm, Đời mưa gió…

Tâm hồn đa cảm trong một nhan sắc sớm trội nổi, cô gái quê mười lăm tuổi ấy thấy những lũy tre làng như những hàng rào giam hãm. Những ao chuôm như những huyệt mộ chôn vùi tuổi xuân.

Lại nghe phong thanh mình sắp bị gả cho một đám tầm thường, một sáng tinh sương, cô bé Nụ cắp nách hai bộ áo sống, cắp luôn tám trăm đồng bạc mà mẹ cô vừa bán mấy mẫu ruộng để chi dùng vào một việc quan trọng của gia đình, đáp tàu trốn lên Hà Nội, một nơi mà cô chưa từng đặt chân, chưa từng biết! Mới đầu cô bé Nụ tá túc ở nhà một bà bán bánh cuốn.

Làn gió độc xứ cát bụi kinh thành đã cuốn cô đi. Mới đầu là việc đi học nhảy… Rồi các mối quan hệ quen biết chồng chéo khi đã thạo các điệu nhảy (Nụ rất có khiếu trong môn này).

Những vũ trường nổi tiếng ở Hà thành khi đó mỗi đêm đều ngong ngóng cô Nụ, lúc này đã có tên mới là Hoàng Minh Phụng, xinh đẹp nhảy giỏi. Các con quan, các cậu ấm, lại cả những ông Phủ, ông Huyện… thay nhau bao Phụng.

Rồi Phụng thất thân với một công tử bộn bạc xứ Hà thành vào một đêm mưa ở Đồ Sơn. Phụng có khiếu như cô Kiều, hễ đụng vào tay đàn ông nào thì y như rằng đời người đàn ông đó cũng tan nát!

Biết bao đám lăn lóc với Phụng. Từ ăn uống đến mọi khoản chi tiêu xa hoa, họ đều lăn xả vào mà trả (trích hồi ký). Trong số đó, dám lăn xả hay có ông nào chết vì Phụng hay chưa thì không rõ, nhưng do lãng mạn, do liên tài, Phụng chơi thân với hầu hết đám văn nghệ sĩ nổi danh của Hà thành lúc đó, ngoài ba ông mà tôi vừa dẫn trên đây và thêm nhà viết kịch Thế Lữ, thi sĩ Hoàng Cầm đa tình còn có nhà văn Nguyễn Tuân khinh bạc của chúng ta.

Nguyễn Tuân buột ra đi mua hoa sau khi thốt lên với đám bạn trong đó có Thế Lữ về cái tài nghệ dù chỉ là diễn góp vui của Phụng trong vai Kiều Loan như thế này: “Trời ơi, Phụng tài quá! Nó giỏi, nó thông minh. Nó không phải là hoàng hậu mà sao nó giống hệt một bà hoàng?

Nó cau mày, nó cười nhạt, nó nghiến răng, nó ôm hoàng tử trong tay. Nó ghen, nó đau khổ”… (trích hồi ký). Ba đêm liền Phụng thủ vai Kiều Loan ở Nhà hát Lớn như thế. Rồi những đêm nổi danh thủ các vai chính của Lệ Chi Viên, những Đêm Phong ba của Vi Huyền Đắc…

Nhưng Phụng chỉ chơi chơi vậy thôi, không có nhập một đoàn hát nào cả… Năm 1941, Khái Hưng tặng thơ cho Phụng trên một tờ báo: Yêu khách giang hồ yêu tha thiết/ Biết người khuê các biết vu vơ…

Tưởng kiếp giang hồ ấy neo đậu bền bền với đám cưới một cậu ấm thuộc loại danh gia vọng tộc, nhưng trời đã bắt tố chất giang hồ nồng nàn, dào dạt trong huyết quản rồi, Phụng đâu có yên!

Thời gian sẽ cho tôi không sầu khổ và chỉ còn lại những quên. Cái nhớ nhung khác lạ mới là đời! Có gian nan mới biết mùi nhân thế… (trích hồi ký) .

Giang hồ số một

Phụng theo một cô bạn lên máy bay chuyển vũ khí cùng với một tốp phi công, quân của Tưởng Giới Thạch từ Gia Lâm vù sang Côn Minh. Cái duyên ông Trời se, cái que ông Giời buộc, lớ ngớ thế nào mà ông tướng Tỉnh trưởng Vân Nam vừa ngó thấy Phụng đã lăn lóc.

Cái lăn lóc của thứ đàn ông bộn bạc nhưng chung tình. Ông tướng ấy bay ngay sang Gia Lâm, đến Hà Nội sau chuyến bay của Phụng chỉ một ngày. Và diễn ra cuộc hội ngộ của vị tỉnh trưởng này với Phụng tại một nơi kín đáo.

Trên chuyến bay đặc biệt trở về Côn Minh ngày hôm sau, sánh vai cùng vị tỉnh trưởng đầy quyền lực ấy là Phụng. Dưới cánh bay kia là dòng Hồng Hà ngầu đỏ mênh mông.

Mà trên bờ là Hà thành một biển người trong đó có người chồng khù khờ nhưng chân tình của Phụng lẫn cái danh gia vọng tộc của nhà chồng tha hồ mà ngóng đợi.

Những ngày ở Côn Minh Phụng đã cháy sáng hết mình tài lẫn sắc trong những cuộc tiếp tân tiệc tùng liên miên cùng vị Tỉnh trưởng Vân Nam.

Có một chi tiết phải lấy ra đây trong tập hồi ký cồm cộm chật cứng các chi tiết sinh động ấy là trong buổi tiếp viên lãnh sự Pháp ở Côn Minh, Phụng đã nhõng nhẽo nhưng cương quyết với các quan khách rằng đòi được mặc Quốc phục (áo dài Việt Nam), đòi phải được treo cờ của nước Nam (?) không thì kiên quyết bỏ về không dự tiệc.

Việc xảy ra quá đột ngột, sợ viên Tỉnh trưởng uy quyền mất lòng, viên lãnh sự Pháp ở Côn Minh phải đứng ra dàn xếp đại ý, thưa bà tỉnh trưởng hiện nay bên nước bà đang xảy ra nội chiến(?) chưa rõ bên ông Hồ Chí Minh hay bên Pháp thắng nên chúng tôi tạm thời chưa dám treo cờ của bên nào (!)

Đàn ông mê nàng một nhẽ. Không thiếu quý bà quý cô các mệnh phụ phu nhân cũng mê Phụng mới lạ. Cuộc gặp hay cuộc đối thoại giữa vợ viên Tỉnh trưởng Vân Nam bay từ California (Mỹ) về với Phụng cực giàu kịch tính và rất sinh động. Kết thúc cuộc gặp ấy là nước mắt và tình thân ái.

Cuộc đời nhung lụa bên vị tướng thét ra lửa ấy không buộc được Phụng. Cô tranh thủ đi Nam Kinh, đi Thượng Hải và những thành phố những danh lam thắng cảnh khác của Trung Hoa rồi khẳng khái từ biệt tướng quân tỉnh trưởng…

Phụng lang thang tiếp ở Quảng Đông rồi không may sa vào một toán cướp. Nhưng thân không bại mà danh cũng chẳng liệt và kiếp giang hồ lại chói sáng hơn ở Hồng Kông trong những hộp đêm, thậm chí cô còn đoạt giải nhất trong cuộc thi sắc đẹp ở đó.

Rồi cuộc tiếp kiến với Cựu hoàng Bảo Đại đang lang thang ở đó. Rồi vinh dự được mời cắt băng khánh thành một đại lộ mới xây to nhất Hồng Kông.

Nhất Linh Nguyễn Tường Tam hồi có mặt ở Hồng Kông đã gặp Phụng và tặng thơ: Một đóa hoa danh lạc đất người/ Trăm hoa thua kém sắc xuân tươi/ Hương ngát một trời/ sắc dậy một thời/ Quân vương ngây ngất mộng uyên đôi. Hồng Công ngày 9/6/1950 ( trộm nghĩ, quân vương đây có phải là Cựu hoàng Bảo Đại đa tình không nhỉ?).

Rồi lại tiếp những cuộc tình với những tay có máu mặt lẫn vô danh. Phụng đi Nhật, đi vài nước ở Đông Nam Á do các nhà tài phiệt bao. Phụng đi đánh bạc ở Macao. Rồi suýt chết (Phụng dám tự tử) trong cuộc hôn nhân với một cự phú người Hoa ở Hồng Kông.

Lại suýt chết trong một vụ cướp biển. Nhưng số Phụng chưa đứt bởi đoạn trường của kiếp giang hồ giời còn bắt diễn. Lại cắm chân rất chắc trong những hộp đêm nổi tiếng ở Hồng Kông. Đùa cợt trêu ngươi những gã cự phú ở Trung Hoa lục địa bằng những đám cưới mà Phụng giả vờ gật.

Thế rồi bỏ, bỏ hết thời vàng son. Phụng đáp máy bay về Hà Nội đúng thời điểm chuẩn bị Hiệp định Geneva. Phụng khi đó đã hơn ba mươi nhưng nhan sắc hẳn còn mặn mòi.

Phụng quyết định không xê dịch tiếp chả biết có phải do nghe lời thi sĩ TCHYA Đái Đức Tuấn khi gặp Phụng ở Trùng Khánh năm 1947 không? TCHYA thừa biết Phụng không phải là tên loài chim Phượng như người phương Nam gọi là Phụng mà Phụng đây là phụng sự, là dâng nhưng thi sĩ năm ấy đã tặng người đẹp mấy câu thế này:

Phụng bay bay bốn phương trời/ Phụng về Phụng đậu giữa đời loạn ly/ Phụng thề Lão Bích Ngô Chi/ Phụng ơi Phụng hỡi bay về cố hương. (Trùng Khánh ngày 17/10/1947)

Cuốn hồi ký kết thúc bằng những năm tháng nữ sĩ này sống ở Sài Gòn. Lại có một cuộc hôn nhân nữa, nhưng hình như cũng không bền. Hơi văn cùng con chữ dường như ảm đạm nhọc nhằn hơn bởi việc kinh doanh một nhà hàng luôn trục trặc cũng như căn bệnh hiểm nghèo nhiều năm mà nữ sĩ mắc phải. Bà trút hơi thở cuối cùng vào năm 1989, được 67 tuổi trời.

Hơn bốn trăm trang đánh máy khổ A4. Nếu như dàn hết lên khổ in 13×19 cm như vẫn thường thấy thì phải hơn sáu trăm trang in. Cuốn mà tôi đang cầm đây, sao từ bản đánh máy, các trang đã ngả màu vàng bệch của thời gian.

Có ít nhất 4 người khiến cho cuốn hồi ký về số phận giang hồ này trở nên long đong trục trặc kể từ khi tác giả Vàng son huyết lệ giã biệt cõi đời. Người thứ nhất là Giáo sư Văn Tạo – nguyên Viện trưởng Viện Sử học.

Tháng 5/1977, GS Văn Tạo cùng đoàn cán bộ khoa học xã hội vào công tác ở Sài Gòn khi đó mới giải phóng. Tình cờ GS được gặp nữ sĩ Minh Phụng là người làng. Nữ sĩ khi đó mới ngoại ngũ tuần, như GS cho hay là hẵng còn dễ nhìn lắm…

GS Văn Tạo kém bà 4 tuổi. Trong câu chuyện hàn huyên giữa hai người làng, GS mới biết cụ thể tường tận thêm về quãng đời giang hồ lưu lạc sau này của nữ sĩ họ Trịnh mà trước ông chỉ nghe mang máng cái cô Nụ bỏ làng ra đi rồi biệt tích. Quá vãng bỗng ập về một cách rành rọt.

Thì ra bà đã thay tên đổi họ… Hoàng Minh Phụng tức là Trịnh Thị Nụ, con cụ Lý Đoài tức Trịnh Văn Đoài, gốc từ xứ Thanh ra. Nét văn hóa của gia đình ông Lý Đoài được ghi lại cả ở việc đặt tên cho con bằng vế câu đối Đoài, Trà, Cầm, Mãng, Vinh, Hoa, Nụ để đối với một nhà khác cũng thuộc loại có máu mặt trong làng là Giảng, Đàm, Nghị, Luận, Ái, Hằng, Nga.

Câu chuyện của bà Phụng đã khiến GS thương cảm. Ông gợi ý bà là bây giờ hòa bình thống nhất rồi, mai kia bà nên bố trí thu xếp về thăm lại quê nhà sau bao năm biệt tích. Biết bà thông thạo nhiều ngoại ngữ qua nhiều năm lưu lạc ở xứ người như tiếng Anh, Pháp, Hoa, Quảng Đông (Quan Hỏa), lại có tập thơ mấy trăm bài, tính tình lại cởi mở, mai kia có điều kiện bà nên chép lại câu chuyện của mình như dạng hồi ký kể ra cũng thú vị?

Điều thứ nhất thì sau này bà đã thực hiện tức là về thăm lại quê ở thị trấn Tứ Kỳ. Còn điều thứ hai, cũng chỉ là gợi ý cho vui thôi nhưng bà Minh Phụng đã làm thật. Bốn trăm trang cuốn Vàng son huyết lệ được bà hoàn thành như trang cuối bà ghi là vào tháng 5 năm 1980.

GS Văn Tạo không biết rằng, sau này cuốn hồi ký của bà Phụng đã được ký thác cho một người khác. Người đó là Dã Lan Nguyễn Đức Dụ, bạn thân của học giả Nguyễn Hiến Lê, một học giả nổi tiếng của Sài Gòn trước giải phóng chuyên biên khảo phả trạng mà bây giờ ta gọi là nhà gia phả học.

Công trình biên khảo nghiên cứu gia phả các dòng họ danh tiếng như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Hoàng, Trịnh Kiểm, Bùi Viện, Phan Thanh Giản, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Quý Ly, Mạc Đĩnh Chi vv… của Dã Lan Nguyễn Đức Dụ trước năm 1975 và sau này đã được giới gia phả học quốc tế đánh giá rất cao.

Tôi đã nghiên cứu nhiều tài liệu gia phả học của nhiều nhà khoa học. Đây là những tài liệu lỗi lạc – GS Richard C.Beals, nhà phả trạng học Hoa Kỳ đã nhận xét về công trình của Dã Lan Nguyễn Đức Dụ như vậy. Thời điểm bà Phụng gặp và quen thân với nhà phả trạng học này không rõ cụ thể như thế nào và bao lâu, nhưng chắc mối quan hệ giữa hai người khá thân thiết.

Bà đã ghi trong một trang của cuốn hồi ký như thế này: Tin tưởng ký thác anh Dã Lan Nguyễn Đức Dụ cuốn hồi ký độc nhất của tôi. Sau này, anh hoàn toàn sử dụng vào một thời điểm thích hợp để mai sau con cháu chúng ta biết rõ thăng trầm của một người sương phụ đại bất hạnh. Saigon 24-4, năm Tân Dậu, tức là ngày 27-5-1981.

8 giờ sáng, viết trong lúc đang lâm trọng bệnh.

Ông Dã Lan Nguyễn Đức Dụ đã trân trọng đón nhận cuốn hồi ký viết tay và tỷ mẩn đánh máy. Bốn trăm trang hồi ký! Thú thật tôi chưa từng thấy tập bút ký nào như thế, không phải độ dầy mà lạ! Chuyện chép hồi ký thiếu gì các chính khách lừng danh Nixon, Churchill, Charles De Gaule, Hitler…

Có điều các chính khách hay những danh nhân khác thường hay nói tốt cho mình nhiều hơn chớ mấy ai như chị lại đem phô bày hết những cái xấu xa trụy lạc của mình ra. Tôi rất thán phục chị phải can đảm lắm mới viết ra như thế. Minh Phụng quả không hổ thẹn dòng dõi Nho gia.

Chị là một phụ nữ đủ tài sắc. Tuy chị là gái nhảy chả tên tuổi gì, nhưng để lại một tập bút ký như thế với mấy trăm bài thơ là đủ cho đời sau nhắc đến chị rồi (trích bài viết về Minh Phụng của Dã Lan Nguyễn Đức Dụ trên tập san Sóng Toronto– Canada xuất bản tháng 5 năm 1992).

Ảnh nghệ thuật – Nguyễn Hương Vượng (Đắk Lắk)

Chào các bạn,

Nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Hương Vượng (Đắc Lắc) đoạt 4 giải thưởng cao tại cuộc thi ảnh nghệ thuật “64 rd Hong Kong International Salon of Photography 2009”.

Gửi 4 tác phẩm dự thi ở thể loại ảnh digital, NSNA Nguyễn Hương Vượng đã giành được 4 giải thưởng:

– Giải về bộ ảnh đẹp nhất (Best Set of Entries),

– Huy chương vàng của Liên đoàn Nhiếp ảnh nghệ thuật quốc tế (FIAP Gold Medal) cho tác phẩm “Mặt nạ”,

– Huy chương vàng của Hội Nhiếp ảnh Hoa Kỳ (PSA Gold Medal) cho tác phẩm “Chiếc dù đỏ”,

– Huy chương đồng Hồng Kông (PSHK Bronze Medal) cho tác phẩm “Bà nội”.

Xin giới thiệu đến các bạn bốn tấm ảnh này dưới đây, cùng một số các tấm ảnh nổi tiếng khác của anh Vượng.

Chúc mọi người một ngày tươi vui !

Trần Can

Tai Họa

Bà Nội

Dù Đỏ

Mặt Nạ

Xem thêm tại Ảnh Hướng Thượng >>>

Có một giấc mơ Voi

TP – Một sáng mùa xuân, chàng Gru Buôn Đôn có mặt ở Trung tâm bảo tồn Voi bên bờ Sêrêpôk để thuần dưỡng lũ voi con thông minh khỏe mạnh. Cạnh đó, đàn voi già được chăm sóc chu đáo trong bệnh viện.

Giữa đại ngàn Yok Đôn, các cô cậu voi trưởng thành thong thả dạo chơi, yêu đương, sinh nở… Đó là giấc mơ có khả năng trở thành hiện thực của dự án bảo tồn voi sắp trình lên chính phủ.


Đếm từng dấu chân voi...

Từ hơn bốn năm trước, tháng 5 – 2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 733, phê duyệt kế hoạch “Hành động khẩn trương đến năm 2010 để bảo tồn voi ở Việt Nam”, giao nhiệm vụ cho ba tỉnh Nghệ An, Đồng Nai, Đăk Lăk triển khai xây dựng dự án bằng nguồn ngân sách.

Được gọi là “Khu dự trữ sinh quyển thế giới”, nhưng dù rất cố gắng tìm kiếm, cho tới cuối năm 2008, dự án bảo tồn voi (BTV) do Vườn Quốc gia Phù Mát xây dựng cũng chỉ đếm được 15 con voi hoang qua ảnh chụp trong vùng rừng phía Tây Nghệ An.
Sau đó, phát hiện thêm hình như có 2 voi rừng con mới chào đời. Đầu năm 2009, lãnh đạo tỉnh Nghệ An đã thông qua và đồng ý với 5 phương án hành động BTV của dự án. Riêng tỉnh Đăk Lăk đã 2 lần triển khai lập dự án BTV.

Lần thứ nhất, đề án bảo tồn và phát triển đàn voi nhà do GS.TS Lê Huy Bá cùng nhóm cộng sự thuộc Trung tâm Sinh thái- Môi trường và Tài nguyên được Sở Thương mại – Du lịch tỉnh đặt hàng nghiên cứu trong thời hạn 1 năm, đã được lãnh đạo tỉnh nghiệm thu tháng 10-2007.
Đề án này còn nằm trên giấy thì Chi cục Kiểm lâm tỉnh lại được cấp trên giao nhiệm vụ lập dự án bảo tồn cả voi nhà lẫn voi rừng. Trên cơ sở đề án có sẵn, dự án lần hai được nhóm nghiên cứu của PGS.TS Bảo Huy trường Đại học Tây Nguyên đào sâu, mở rộng, mở hội thảo tham vấn cộng đồng vào giữa tháng 12-2009.

Bằng phương pháp điều tra theo tuyến, điểm habitat (nơi có sinh cảnh đặc biệt voi thường lui tới), đo đếm phân tích vết chân và phân voi để xác định số voi theo tuổi và giới dựa vào kinh nghiệm của đồng bào bản địa, lập sơ yếu lý lịch từng con… Nhóm nghiên cứu đã xác định trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk còn khoảng 83 đến 110 con voi hoang dã, và 61 voi nhà.

Ở tỉnh Đồng Nai, nhiệm vụ “hành động khẩn trương” còn trầy trật hơn. Suốt mùa khô 2009, trong lúc các sở ngành còn tranh cãi gay gắt xem khoản kinh phí 108 triệu đồng dành cho quy trình khảo sát thực hiện dự án BTV có thể lấy từ đâu, đã có tới 6 con voi rừng bị chết không rõ nguyên nhân và thủ phạm.
Kéo qua đầu năm 2010, cán bộ Chi cục vẫn còn miệt mài viết dự thảo, dự kiến sang tháng hai quá trình gọt giũa, bảo vệ dự án mới hoàn tất để trình lãnh đạo tỉnh.
Ông Lê Việt Dũng, Chi cục phó chuyên trách mảng Bảo tồn của CCKL tỉnh Đồng Nai cho biết, tại thời điểm này, trong hơn 100 nghìn ha rừng ở Đồng Nai lẩn khuất chừng 11 đến 14 con voi. Chi cục trưởng Nguyễn Văn Thịnh than xót: Tiếc quá, nếu chương trình BTV được triển khai sớm hơn, số voi hoang dã của Đồng Nai không tới nỗi giảm mạnh thế này.

Trông voi người, xót voi ta

Trong 8 nước có nghề săn bắt, thuần dưỡng voi rừng từ lâu đời ở khu vực châu Á là Ấn Độ, Sri Lanca, Bangladesh, Thái Lan, Myanma, Nepan, Việt Nam, hai quốc gia có công nghệ tiên tiến về chăm sóc nuôi dưỡng voi là Thái Lan và Sri Lanca.

Từ năm 1969, Thái Lan đã thành lập Trung tâm thuần dưỡng voi châu Á đầu tiên trên thế giới. Gần 10 năm qua, Viện Voi Quốc gia đặt ở tỉnh Lampang dưới sự bảo trợ thuận lợi của Hoàng gia Thái Lan, hoạt động mạnh với các dự án :
Bệnh viện voi, Đội cứu hộ voi, Đội khám chữa bệnh lưu động cho voi trên khắp đất nước, Đào tạo quản tượng, Dạy voi vẽ tranh và làm xiếc, Sản xuất biogar và giấy từ phân voi v.v…

Đặc biệt, Trung tâm nghiên cứu của Viện liên kết với khoa thú y trường đại học Chiang Mai và Kasetsart đã nghiên cứu thành công quy trình thụ tinh nhân tạo cho voi, mở ra hướng phát triển mới cho voi châu Á. Trên diện tích 122 ha của Viện Voi, hiện nay 83 con voi ngày ngày được nuôi dưỡng dạy dỗ cẩn thận để bảo tồn giống nòi và… trở thành nghệ sĩ!

Trại voi Pinnawela của quốc đảo Sri Lanca được xây dựng năm 1975, với nhiệm vụ ban đầu là chăm sóc 5 bé voi con hoang dã lạc bầy. Nay trại đã phát triển thành một Trung tâm sinh sản bảo tồn voi, với 86 con voi đa số trẻ khỏe, thu hút đông đảo du khách trong ngoài nước đến ngắm voi, xem voi con được cho bú dặm bằng sữa bình tới 5 lần mỗi ngày, hoặc cưỡi voi đi dạo thong dong dưới bóng mát vườn dừa.
Voi ốm được chăm sóc kỹ lưỡng bằng các phương tiện y tế chuyên dùng cho voi như máy chụp X-quang, siêu âm chẩn đoán, theo dõi thân nhiệt, chích vac xin, tẩy giun, cho uống kháng sinh, bôi thuốc sát trùng, nhỏ mắt…

Tại Malaysia, từ năm 1974 tới nay Ban Quản lý voi thuộc Sở Động vật hoang dã đã chuyên tổ chức các cuộc di chuyển voi từ nơi dễ xung đột với người đến các vùng rừng quốc gia rộng lớn phía đông. Nhờ vậy, khoảng 500 con voi được di cư thành công. Tại Ấn Độ, chính phủ cho thực hiện Dự án voi từ năm 1992 với 25 trung tâm BTV Ấn được thành lập.

Vương quốc Nepal ngoài việc xây dựng nhiều khu bảo vệ và nuôi voi, còn đầu tư huấn luyện voi nhà vào mục đích giám sát bảo tồn voi hoang dã. Các Trung tâm BTV của Indonesia vài năm gần đây đã bắt đầu lúng túng với việc trở nên quá chật chội, không còn đủ chỗ chứa voi…

Tiến sĩ Cao Thị Lý, giảng viên trường Đại học Tây Nguyên, trong dịp tập huấn 1 tuần về Sức khỏe và sinh sản voi châu Á tổ chức tại Sri Lanca đã thu thập được nhiều thông tin, kiến thức và các mối quan hệ quý giá cho dự án BTV Đăk Lăk.
Chị cho biết, bên cạnh cơ chế chính sách điều hành thông thoáng hiệu quả, Thái Lan và Sri Lanca còn chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ thú y chuyên về cứu hộ động vật hoang dã, làm việc với tinh thần đầy tâm huyết và trách nhiệm.
Bộ môn thú y ở ta trước chỉ giảng dạy về gia súc gia cầm, gần đây mới bổ sung 30 tiết kiểu cưỡi ngựa xem… voi về mảng kiến thức này cho sinh viên .
Nhớ chuyện bé voi Khăm Bun với cái chân thương tật suýt bị cưa, tới bây giờ vẫn tù đày trong xích xiềng trường kỳ giữa thủ đô mà tội nghiệp. Nhưng dẫu sao Khăm Bun còn may mắn chán so với nhiều đồng loại khác đã được, hay bị thuần dưỡng ở xứ mình, đang ngày càng mòn mỏi suy kiệt do thiếu dinh dưỡng, bị khai thác quá mức cho trình diễn, du lịch và lễ hội; bị cưa ngà và nhổ lông đuôi đầy đau đớn, thậm chí xúc phạm tận thâm sâu bản chất kiêu hãnh của những Ông Tượng chúa tể rừng già.

Bởi Khăm Bun nổi tiếng hơn cả với lý lịch trích ngang đặc biệt, là một trong vài chú voi con xinh xắn đáng yêu cuối cùng bị săn trái phép giữa Vườn Quốc gia, đánh động dư luận tới mức văn phòng Thủ tướng phải ký lệnh giao về cho Liên đoàn Xiếc trông nom…
100 tỉ đồng cho tương lai voi Việt
Dự án BTV Nghệ An dự trù kinh phí hơn 11 tỉ đồng trong 5 năm 2009 – 2013 cho các giải pháp bảo tồn giám sát, truyên truyền quảng bá, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phục hồi sinh cảnh voi rừng, chống xung đột giữa người và voi.

Dự án BTV Đồng Nai dự kiến cần có 30 tỉ đồng trong 10 năm triển khai, ngoài những chương trình hành động tương tự Nghệ An còn chú trọng xây dựng các đội phản ứng nhanh, lập hàng rào điện tử ở vùng dân cư hay bị voi phá.
Riêng phương án mua khoảng bốn voi nhà từ Buôn Đôn về đồng bằng để xua đuổi voi rừng còn đang tiếp tục cân nhắc, trên cơ sở tiếp thu những ý kiến chắt lọc từ cuộc hội thảo BTV do Bộ Nông nghiệp & PTNT tổ chức ngày 26 – 11 – 2009 tại Vườn quốc gia Cát Tiên.
Giấc mơ voi hoàn hảo hơn trong dự án BTV Đăk Lăk, với khoản kinh phí dự trù hơn 58 tỉ đồng, dự kiến triển khai từ năm 2010 – 2014 nếu được lãnh đạo tỉnh và Chính phủ thông qua, bắt đầu từ việc xây 2 trạm BTV ở nơi voi thường xung đột với người ở 2 huyện Ea Súp và Lăk; đồng thời nhanh chóng gửi cán bộ đi đào tạo, học tập kinh nghiệm ở Thái Lan, Ấn Độ, Sri Lanca .

Một Trung tâm BTV Đăk Lăk được phác thảo trên diện tích 200 ha thuộc phân khu hành chính dịch vụ của Vườn Quốc gia Yok Đôn, giáp sông Sêrêpôk.
Trong đó, 100 ha rừng khộp được dành cho việc chăn thả và tạo môi trường tự nhiên kín đáo để voi tự do giao phối, phần diện tích còn lại sẽ xây dựng một bệnh viện voi, nhà cung cấp thức ăn và chăm sóc voi, ươm trồng bảo vệ khoảng bảy chục loại cây voi thích ăn để thực đơn voi thêm phần phong phú và tạo cảnh quan.

Tỉ lệ sinh sản quá thấp trong số voi nhà hiện có trong suốt ba thập kỷ trở lại đây, bình quân chỉ 0,6%/năm, ngoài lý do voi bị tận dụng phục vụ du lịch quanh năm, còn có phần do cơ chế phân chia lợi ích giữa các chủ voi chưa hợp lý.
Tập quán của đồng bào M’Nông: Voi con sinh ra thuộc về chủ voi cái, thế nhưng nếu voi cái bị thương trong quá trình giao phối thì chủ voi đực phải chịu phạt, cúng đền cả con trâu. Muốn khỏi rước vạ vào thân, chủ voi đực chỉ việc… cấm chúng nó gần nhau, thế là xong! Nghề săn voi bị cấm, voi nhà không đẻ, lại còn chết dần và bị bán ra ngoài tỉnh.

Ông Voong Nhi, Phó Bí thư huyện Ea Súp, đồng thời cũng là một trong những chủ voi sắp hết voi, từng đề đạt lên nhiều cấp nguyện vọng tha thiết của giới Gru (thợ săn voi giỏi):

Xin Chính phủ mở cơ chế cho đồng bào mỗi năm được mở vài cuộc săn voi với chỉ tiêu nhất định, để nghề săn bắt thuần dưỡng voi rừng không bị thất truyền, và để bản sắc văn hóa vùng miền, để biểu tượng voi Đăk Lăk còn sống mãi…
Ngay trong cuộc Hội thảo tham vấn cộng đồng do Chi cục kiểm lâm tỉnh tổ chức nhằm góp ý cho dự án BTV, Gru Ama Bích cũng đọc một “lá sớ” nắn nót viết sẵn : Nhân dân Bản Đôn chúng tôi đề nghị Nhà nước mỗi năm cho phép bắt 3 con voi rừng, giao cho nhà nước 1 con dân lấy 2 con để làm nhiệm vụ bảo tồn đàn voi nhà cho tỉnh…

PGS-TS Bảo Huy phân tích: Số voi rừng con hiện quá ít, chỉ khoảng 7-10 con trong tự nhiên, chưa phải là lúc có thể cho phép săn bắt. Tỉnh nên xem xét chuyển trả lại một số diện tích rừng đang kinh doanh khai thác thành rừng bảo tồn, tạo điều kiện cho đàn voi rừng phát triển ổn định.
Khi Trung tâm BTV ra đời, các chủ voi và nài voi cần được hưởng chính sách chi trả hợp lý để có thu nhập xứng đáng từ việc đưa voi về theo định kỳ để chăm sóc và thúc đẩy quá trình sinh sản tự nhiên.

Trả lời câu hỏi của báo Tiền Phong về giấc mơ voi Việt Nam liệu tới bao giờ mới trở thành hiện thực? ông Hà Công Tuấn, Cục trưởng Cục Kiểm lâm trầm ngâm:
Thẩm quyền duyệt dự án thuộc về UBND các tỉnh, sau đó mới đến phần trung ương quyết mức hỗ trợ thông qua ngân sách của từng địa phương. Tiến độ triển khai các dự án BTV hiện đã quá chậm, Cục rất nóng ruột đôn đốc nhưng tinh thần hành động khẩn trương theo lệnh Thủ tướng hơn 4 năm rồi vẫn chưa thấy!

Phải! Cứ lần chần mãi thế này, liệu tới lúc trăm tỉ rót về, chắc gì còn nổi trăm voi để nuôi lớn giấc mơ…
Từ năm 2004, nhóm chuyên gia voi châu Á thuộc tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế IUCN/SSC đã công bố bảng thống kê số voi rừng và voi nhà ở 13 nước trong khu vực.
Theo đó, voi hoang dã dao động từ 38 nghìn đến 52 nghìn con, tập trung nhiều nhất ở Ấn Độ, ít nhất ở Việt Nam. Voi nhà ước có khoảng từ 14,5 nghìn đến 15,3 nghìn con. Nhiều nhất ở Myanma , Việt Nam kế chót với 165 cá thể, chỉ hơn Bangladesh còn tròn 100.

Dẫu số liệu thống kê voi mang tính tương đối, nhưng rõ ràng sự cảnh báo tồn vong đã gióng lên dưới tán rừng nhiệt đới của nước ta.

Hoàng Thiên Nga