Category Archives: Thơ

Thủng thẳng với thơ… (phần 11)

    Cái tưởng tượng trong thơ ảo nhưng mà thực không nhưng mà có, vô lý nhưng mà hữu lý…

    Trí tưởng tượng có mức độ thượng và hạ cách của nó. Hạ cách của trí tưởng tượng diễn ra dưới dạng liên tưởng, suy tưởng. Dạng này thường nặng nề về hình thức, nêu không biểu đạt một cách tinh tế thì dễ sa vào sự gán ghép khiên cưỡng – gán ghép cho từng hình ảnh, hình tượng, gán ghép diễn ra trong từng câu thơ. Thượng cách của trí tưởng tượng là sự bay bổng của một tâm hồn thơ, một trí tuệ thơ, trong từng bài hoặc từng khổ thơ. Người đọc chỉ cảm thấy một cái gì say sưa, một cái gì cao hơn cuộc sống thực nhưng vẫn là cuộc sống, một cái gì rất thơ. Thượng cách của trí tưởng tượng sử dụng rất nhuyễn, rất ảo, rất lôgích một chuỗi hình ảnh, hình tượng xảy ra trong cuộc đời đã được thơ hóa bằng trí tuệ nhà thơ.

Từ Trời Đất Đến Trăng sao…

Phải đến thế kỷ thứ 21, may ra bước chân của con người mới thực sự đặt lên mặt trăng, trong khoảng không vũ trụ mới bay lượn những con tàu…Nhưng từ vạn năm nay, trí tưởng tượng đã đưa con người tới đó. Xã hội vũ trụ trong trí tưởng tượng của con người cũng hệt như xã hội con người vậy, những thiên thần, thiên tướng, những tiên nữ, tiên đồng…Chẳng những thế mà còn có Giáng Kiều Tú Uyên bích câu kỳ ngộ, lại có thằng Cuội ngồi gốc cây đa, để trâu ăn lúa gọi cha hời hời…Với trí tưởng tượng, con người như có cánh bay, sao Hỏa sao Kim đều cũng hóa nên gần.

Continue reading Thủng thẳng với thơ… (phần 11)

Gọi bạn tình

 

Thơ  Trần Vân Hạc– Lời bình của Lâm Thị Thanh Trúc

 
Dậy đi em
Dậy đi em
Anh hồi hộp nâng khèn
Trăng vàng sóng sánh
Dặt dìu dòng suối âm thanh
Nhà sàn đợi chờ thao thức
Đầu khèn
chạm vào hò hẹn
Sao hôm đậu xuống mái nhà
Đêm trở mình da diết nhớ sàn hoa
Đầu khèn
chạm vào đợi chờ
Sao mai lung linh cửa sổ
Hội hái hoa ban nọong ơi
Trái tim chung đôi e ấp lời bầy tỏ
Đầu khèn
chạm vào mong nhớ
Trăng neo khau cút bâng khuâng
Trinh trắng hoa ban
Thắm tình hoa mạ
Cầu thang rạo rực rung rinh
Em như nàng tiên mùa xuân
Bước ra từ câu khắp

Continue reading Gọi bạn tình

Thủng thẳng với thơ… (phần 10)

 

    … lục bát… và song thất lục bát…

    Vì sao lại phải nghiên cứu phép làm thơ truyền thống ? Phải nghiên cứu phép làm thơ truyền thống, bởi đấy là hồn cốt của mọi phép làm thơ khác. Cũng ví như đất vậy, đất làng ta trồng ra hạt lúa làng ta…

    Nắm được vững chắc các phép làm thơ dân tộc thì việc sử dụng các thể thơ mới không còn là điều khó khăn nữa. Bởi lẽ, tất cả các thể thơ mới đều tôn trọng và mở rộng các cách hiệp vận, cách gieo nhạc điệu, các đồng hưởng, điệp từ và tiểu đối như ở các thể thơ dân tộc. Không có sự kế thừa ấy quyết không phải là thơ Việt.

Luận Về Những Chiếc Áo Của Thơ

Tôi có ý định viết về phép làm thơ lục bát của Nguyễn Du và phép làm thơ song thất lục bát của Đoàn Thị Điểm, nhưng ý định ấy chưa thực hiện được, vì tôi cứ có ý chờ những chuyên gia nghiên cứu về luật thơ viết những nguyên lý đó. Tôi đã nói điều này với Thầy tôi và yêu cầu Người viết. Nhưng cho đến nay Người cũng chỉ mới hứa sẽ bắt đầu.

Continue reading Thủng thẳng với thơ… (phần 10)

Thủng thẳng với thơ… (phần 9)

    Sự cô đọng là cốt lõi của thành công. Do đó sự tự loại bỏ những hình ành, hình tượng không cần thiết, cắt những ý, những câu không thuộc về chủ đề là một “đau lòng” đáng có. Chính cái đó đã quyết định sự thành công.

    Ngày xưa, các bài thơ ngắn được qui định bởi niêm luật rất nghiêm ngặt, sự gò bó này có làm khó dễ cho nội dung tư tưởng, song lại đòi hỏi người làm thơ phải có nhiều công phu và muốn có thơ hay người viết đã trả đúng giá cho nó. Biết bao nhiêu bài tứ tuyệt, bát cú, đã thành bất tử chỉ với 4 câu hay 8 câu. Ngày nay, các bài thơ gọi là ngắn đã không còn là ngắn nữa, 50 câu như tôi nói cũng được coi là ngắn, nhưng dưới 100 câu cũng chưa phải thơ dài. Do sự mở rộng ước lệ dài ngắn này, đã khiến tính cô đọng của thơ có bị giảm sút, nguyên nhân chính là do người viết nhiều tham lam. Cái tinh túy của vàng, bạc lẫn quá nhiều với quặng và sỏi đá. Người đọc phải thanh lọc rất nhiều mới được những hạt bạc, hạt vàng.

Loại Thể Những Khúc Ca

Trong quá trình lao động, tôi đã cố gằng sử dụng gần hết các thể loại có thể sử dụng được để biểu đạt thơ. Tuy vậy, vẫn không đúc rút được kinh ngiệm gì đáng kể, chưa định được qui luật đã là sự nhảm nhí, định một khuôn mẫu cho thơ mà hổ thẹn ư?

Continue reading Thủng thẳng với thơ… (phần 9)

Cùng Trần Vân Hạc Lên Tây Bắc Hái Thơ

 

Nguyễn nguyên bảy đò đưa thơ Trần Vân Hạc

1/ Tôi thực không biết mình lên Tây Bắc trước hay sau Trần Vân Hạc, và cũng không biết Trần Vân Hạc lên và ở lại Tây Bắc vì duyên cớ gì, còn tôi, vì bốn câu thơ hoành tráng, thúc gọi trí trai của Chế Lan Viên, mà mon men lên Tây Bắc /Tây Bắc ư? Có gì riêng Tây bắc/ Khi lòng ta đã hóa những con tầu/ Khi Tổ Quốc bốn bề lên tiếng hát / Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu / ( 4 câu thơ này tôi thuộc trong trí nhớ, nếu sai với nguyên gốc xin bạn đọc thể tất).

Lần thứ nhất, khoảng 1963-64, lúc ấy, tuổi sức hai mươi, hùng hổ tưởng mình chân đi sóng gió, vậy mà mới qua vài cua vùng biên Tây Bắc, từ Yên Bái đi Nghĩa Lộ, trên xe hơi chở khách, vào đến Nghĩa Lộ thì tôi ơi đã say xe “mướt cò bợ” và đổ gục tại Nghĩa Lộ, được nàng tiên người Kinh Tây Bắc, quen dọc đường, đánh gió cháy lưng, cò bợ tôi mới oai hùng trở lại theo nữ tiên ra suối rửa mặt tắm hôi. Và, một kỳ lạ của lần đẩu lên Tây Bắc ấy, đã ùa vào tâm khảm tôi, mà sau này Trần Vân Hạc gọi là Huyền thoại tắm tiên Tây Bắc.

Continue reading Cùng Trần Vân Hạc Lên Tây Bắc Hái Thơ

Thủng thẳng với thơ… (phần 8)

    Tôi lắng nghe nhịp đập trái tim mình từ mọi phía khác nhau của cuộc đời, sự chỉ huy không phải là bộ óc, mà là trái tim, cho nên những phấn khích nội dung nơi trái tim liền tức khắc thành thơ, những vần thơ ấy nhiều khi mâu thuẫn với chính tư duy của mình. Vì sao không có sự thống nhất giữa trái tim và khối óc mà tôi vẫn làm? Việc hôm nay chớ để ngày mai, rung cảm trái tim có lập lại bao giờ…

    Cần thiết phải có một tư duy không mệt mỏi, một thái độ lao động nghiêm ngặt, chuyên cần. Tìm đủ mọi cách rèn luyện cho bằng được dòng tư duy thơ, chuyển hóa tất cả cái gì mắt gặp và khi tay cầm bút thì ghi lấy những rung cảm trái tim. Phương pháp ấy đã khiến cho mở rộng rất nhiều trong cách biểu đạt và thường là những bất ngờ mới lớn làm sao, trước khi cầm bút, ý nghĩ về bài thơ còn chưa chín, thế mà cầm đến bút, cứ thế viết, và thực sung sướng, bài thơ đã đi xa hơn trí tưởng tượng rất nhiều.

Thơ Là Thơ

Trong tập viết nhỏ này đã hai lần tôi nhắc đến một luận đề nghe mơ hồ: Thơ là thơ…Cứ làm như là thiếu nữ phải là con gái vậy. Nhưng quả thực sự mơ hồ ấy đã trở thành một phổ biến trong hiện tình văn học. Thơ phải là thơ! Đưa ra luận điểm này, vì hiện đang có nhiều du nhập vào thơ, làm biến chất thơ, không phải là sự làm hiện đại nó, làm thời trang nó, mà chuyển hóa nó từ vị này trí khác, từ hướng này sang phương khác, từ khuôn này sang mẫu khác. Quá trình biến chất ấy đã xảy ra trên cả hai mặt nội dung và hình thức.

Continue reading Thủng thẳng với thơ… (phần 8)

Thủng thẳng với thơ

    Ngơ ngác quá tôi gào cùng trời đất: Đâu gian tà? Đâu chính nghĩa? Đâu trong sạch? Đâu thối tha? Ai ngụy trang? Ai mộc mạc? Ai kẻ cướp? Ai bà già? Hay chân lý chỉ là danh từ chưa bao giờ có thật?

    Tôi đi giữa thác người như đi trên sa mạc, chới với đuổi theo một cái gì ảo ảnh tít mù xa, chân lý nơi đâu? Bên Tàu, bên Nhật hay bên Nga? Mà nước Mỹ nữ Thần Tự Do vẫn hồng tươi sắc mặt?

    Ôi mỉa mai, viển vông và huyền hoặc. Họng súng đen ngòm, hay lí lịch ông cha? Lý tưởng vữa tan khi ánh sáng chói lòa và chính nghĩa đã thành khuôn lệch lạc.

Tung Cánh Đại Bàng

Đối với người cầm bút đề tài nào là đề tài nên né tránh ?

Người cầm bút chân chính không thể né tránh bất kỳ đề tài nào. Nhưng vì sao lại phải đặt câu hỏi này? Có phải chủ thể của câu hỏi, là  bây giờ – thời đại chính trị của chúng ta thì cái khó, cái nên né tránh mới xảy ra đối với người cầm bút? Câu đáp là Không. Thời đại nào cũng có những cái đẹp, cái khó của nó và không cái khó, cái đẹp của thời  nào giống thời nào. Ai dám bảo thời Nguyễn Du dễ viết hơn bây giờ, và ngược lại thời bây giờ khó viết hơn thời Nguyễn Du?

Continue reading Thủng thẳng với thơ

Ai Mua Hồ Tây Ra Mua

(Đồng cảm cùng nhà thơ Hoàng Xuân Họa qua bài thơ: Ai Mua Hồ Tây Ra Mua)

 

AI MUA HỒ TÂY RA MUA

Ai mua đi hộ Hồ Tây
Đem xa ra khỏi chỗ này cho xong
Khỏi tôi rối bối bòng bong
Khỏi nhìn sóng cộm, khỏi mong cháy hồn
Khỏi qua đây để đếm buồn
Khỏi chuông Trấn Quốc thỉnh xuông mỗi chiều
Đầy hồ sao sáng bao nhiêu
Bỏ tôi đứng đực ước điều hư không
Đã từng một giải bờ mong
Đã từng chộn rộn sóng lòng dâng chao
Quanh đi bước thấp bước cao
Quành lại gió ném ào ào lá khô
Liễu buông mành liễu vu vơ
Mộng du nện gót đến trơ khấc mình

Hoàng Xuân Họa (Trót một thời yêu II – Nhà xuất bản Hội nhà văn 2006)

Continue reading Ai Mua Hồ Tây Ra Mua

Thủng thẳng với thơ… (phần 6)

 

    Vấn đề được tôi quan tâm nhất trong khi làm thơ là cái đạo mà thuyền thơ chở. Thuyền thơ của mỗi thế hệ nhà thơ phải chở cái đạo của thời đại mình. Cái đạo nào? Cái đạo mà thời đại quan tâm nhất. Trong phạm vi một xứ xở thì đấy là cái đạo mà đồng bào xứ xở quan tâm. Cái đạo khái quát được xã hội mà lại rất riêng – riêng cho từng số phận con người. Nguyễn Du đã đau khổ với mình về thân phận con người. Chẳng lẽ chúng ta ngày nay lại không đau khổ về thân phận con người của thời đại chúng ta?  Xã hội thời Kiều có vấn đề của thời Kiều, xã hội thời ta có vấn đề của thời ta . Thời Kiều ở trong truyện Kiều, lẽ nào thời ta không hiện diện trong thơ ta?

Bạn đường thân yêu

Không người làm thơ nào lại không có những bạn đường thân yêu của mình. Người có  Puskin, người có Erenbua, người có Aragông, người có Lý Bạch, Đỗ Phủ. Tôi có nhiều người bạn, nhưng người bạn đường thân yêu nhất của tôi là Truyện Kiều.

Vì sao lại có sự lựa chọn lạ lùng ấy?

Continue reading Thủng thẳng với thơ… (phần 6)

Khi sông Cái mỉm cười

Nguyễn Anh Tuấn
Đọc trường ca “Sông Cái Mỉm Cười” của Nguyễn Nguyên Bảy

 
Một chiều mưa phùn gió bấc, tôi qua cầu Long Biên, dừng xe ngắm nhìn dòng sông Hồng trơ cạn… Đây là dòng sông đỏ lựng phù sa mà biết bao nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhà điện ảnh… đã tìm thấy nguồn cảm hứng nghệ thuật vô tận và mãnh liệt của mình! Và tôi bỗng nghĩ đến cái Dự án “Thành phố Sông Hồng”- một công cuộc chỉnh trang lại đê điều sông Hồng lớn nhất trong lịch sử kể từ khi Hà Nội và châu thổ sông Hồng có đê ngăn lũ; và ít ai biết được rằng: Dự án đó lại xuất phát từ tình yêu sông Hồng và ý tưởng của một hoạ sĩ- hoạ sĩ Vũ Văn Thơ…

Nhưng Dự án này khi triển khai, với nhiều nhà khoa học có lương tâm thì lại nổi cộm khá nhiều vấn đề hệ trọng. Nhà sử học Lê Văn Lan đã lên tiếng cảnh báo: Dự án trên“không hiểu vô tình hay là hữu tình…về mặt lịch sử, văn hoá gắn liền với Thủ đô Hà Nội thì chẳng thấy ai đề cập đến!” Tệ hơn, như GS Lê Văn Lan đã vạch ra: Dự án còn định “cấy” một khu đô thị Hàn Quốc vào, “ như thế khác nào đánh mất mình và Hà Nội sẽ không còn nữa!” Và ông đã đặt câu hỏi hộ nhiều người: “ Hôm nay đây,chúng ta đều biết nước sông Hồng đang dần bị cạn kiệt, thì lịch sử sông Hồng,là cội nguồn của nhiều dòng đời liệu có bị cạn theo?  Trách nhiệm này thế hệ của chúng ta có phải trả lời trước lịch sử hay không? ”(Dòng chảy sông Hồng sẽ về đâu?- VN Trẻ )…Trong những ý nghĩ miên man như thế, tôi đã nhớ đến trường ca “Sông Cái mỉm cười” của nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy – một người Hà Nội đau đáu nhớ thương Hà Nội đang sống xa Hà Nội hàng ngàn cây số…

1. Không phải ngẫu nhiên mà NNB dùng trường ca “Sông Cái Mỉm Cười” để kết cho phần thơ “Kinh thành Cổ tích”*. Và trong thế giới của Kinh thành Cổ tích, Sông Cái đương nhiên cũng phải là con sông Cổ tích!

Continue reading Khi sông Cái mỉm cười

Thủng thẳng với thơ… (phần 5)

 

    Con mắt nhìn là chiêu thức đầu tiên của người làm thơ! Có một con mắt nhìn đúng đắn tức là có một sự vô tận của nguồn suối tuôn chảy những dòng thơ hòa đồng giữa mạch đập trái tim ta với mạch đập trái tim đời.

    Sự thực, nếu chỉ có nỗi thống khổ thì con người làm thể nào chịu đựng hết được những thống khổ ấy và không thể, dù khát vọng, làm được công việc sáng tạo của thi ca. Mỗi người cầm bút tìm cho mình một giải thoát nỗi thống khổ của mình, có người sung sướng với vài ba đồng tiền nhuận bút, có người hãnh diện vì cái tên, có người giải trí bằng sự thích sách… Còn tôi, tôi đã không sống thiếu tình yêu.

    Kính chào sự nghèo đói và tình yêu!

    …Những đề tài tưởng như là nóng bỏng nhất: Chiến tranh, xây dựng, luân lý, giáo huấn…Chẳng phải đều ra đời từ tình yêu và cái đói đó sao?

Nước nguồn mát trong

Nhiều bạn hỏi: Tôi đã bắt đầu công việc thơ ca như thế nào?

Câu hỏi tưởng như rất thường, bởi làm bất kỳ công việc gì cũng có sự bắt đầu, với thơ cũng có sự bắt đầu. Bắt đầu công việc thơ ca như thế nào ư? Tôi đã có hàng ngàn cái bắt đầu cho từng câu thơ và cái bắt đầu cho từng bài thơ nhưng để nói được một lời đích đáng thì thực lòng không sao nói được. Cũng như hàng ngày chúng ta ai cũng nói tiếng Việt Nam mà đã mấy người hiểu được qui luật của ngôn ngữ Việt Nam, công việc tầm nguyên chưa được bắt đầu, công việc làm từ điển chưa được chú trọng, ngay cả công việc từ đôi (chúng ta quen gọi là từ lấp láy) cũng đã chuẩn định nghĩa thế nào đâu. Rồi đây các qui luật của thơ dù người ta đã định nghĩa nhiều rồi, nhưng sẽ còn định nghĩa mãi, định nghĩa mãi. Sự bắt đầu công việc thơ ca ở mỗi người khác nhau, và đoan chắc không ở người nào giống người nào.

Continue reading Thủng thẳng với thơ… (phần 5)

Thủng thẳng với thơ… (phần 4)

 

    Xã hội con người ở dạng này hay dạng khác cũng chỉ mới thay được cái vỏ bên ngoài, chưa bao giờ thay đổi được cốt lõi của nó. Vì sự thay đổi luôn luôn là cải lương, những thành phần mới, vừa ở vị trí bạn con người đã mau chóng nhảy lên địa vị cai trị con người. Lòng tham của chúng là không cùng và thế là con người  lại lập lại mọi khổ đau. Khổ đau chỉ được thay đổi tên gọi, mầu sắc, và sự đốn mạt của nó là đau khổ mới bao giờ cũng mang những nhân danh rất hào nhoáng, những nhân danh hào nhoáng làm run động lòng người, nhưng…than ôi, cái mới còn tồi tệ hơn cái vừa bỏ đi. Do vậy phải động không ngừng, cách mạng không ngừng. Đó là qui luật mâu thuẫn của triết học và cũng chính là sứ mạng cao quí của thơ…

    Chỉ còn rất ít thơ để lay thức trái tim con người. Thơ nói vào những nơi sâu kín nhất của trái tim cả niềm dũng cảm, niềm vui và những khốn cùng, tác dụng của thơ không nhỏ, bởi khi trí tuệ con người mơ hồ về những vô lý thì có một người, bằng một dẽ hiểu nhất nói lên những nghịch lý ấy, một công việc không tầm thường và không dễ dàng. Trước những phẫn nộ của cường quyền, hồi âm vô giá của thơ chính là sự đón chào của công chúng.

 

Khi ngôi sao rụng chín

Vòm trời như một cây cổ thụ, mà những ngôi sao là những trái quả. Chỉ có điều cây trời ra hoa quanh năm và kết quả quanh năm, mỗi một quả sao khi chín rụng xuống lại nở sinh ra những cây non khác và lại ra hoa kết quả. Sự sinh sôi là không ngừng nghỉ, là mãi mãi, biết đâu chẳng có một trời sao…Trên vòm trời có những ngôi sao sáng và có những ngôi sao mờ, sao sáng tức là quả đã gần ngày chín, còn sao mờ là quả đang xanh. Một đêm hè kia, khi ta ngước mắt lên nhìn vòm trời, thấy ngàn muôn sao, và bỗng, một ngôi to như quả bưởi trời rụng xuống. Sao băng hà, một sinh mệnh đã đi vào bất tử…

Continue reading Thủng thẳng với thơ… (phần 4)

Giá Tôi Có Thể Quên Giá Mà Quên Được

nguyễn nguyên bảy đò đưa

Nguyễn Nguyên Bảy và Ngô Thế Oanh

1. Câu thơ trên của Ngô Thế Oanh, lời lòng hay thật, hay đến nỗi đọc lên ta thấy lòng ngân nga, đúng là trong cõi đời này, trong cuộc sống này, bao nhiêu là bao nhiêu chuyện,bao nhiêu là bao nhiêu điều, lòng bảo lòng quên đi, dĩ vãng đi, giấc ngủ đi, nhưng lòng không chịu, nó cứ thức, cứ nhớ,cứ làm lòng da diết, da diết một nỗi không thể quên nên mới giá mà quên được, chữ giá mà hay quá Oanh ơi, giá mà ấy thơ thật, thơ thật vì thật lòng,nên thơ không giả.

Tôi với Oanh bạn với nhau, hồi những năm 1970, tôi là phóng viên Đài Tiếng Nói  Việt Nam, Oanh là phóng viên Báo Tiền Phong. Oanh xù xì, đăm chiêu, triết gia và thật hiếm cười. Còn tôi láu cá, nhố nhăng, bạ đâu, bạ gì cũng cười toe hàm răng hô mà không biết ngượng. Tình bạn chúng tôi ngộ lắm, tôi yêu người tên Liên và sau này thành khoai lúa suốt đời. Còn Oanh cũng yêu, bạn của Liên, tuy họ không thành khoai lúa của nhau, nhưng đến tận bây giờ họ vẫn hát về nhau những lời bạn nhất, chân thành, mở lòng và nói về nhau mà lòng vẫn… Cách quãng 40 năm, chúng tôi kẻ Bắc, người Nam, không một lời tin, không một dòng địa chỉ. Nhưng khi gặp lại nhau, chúng tôi ôm nhau, tôi ôm cả cô bạn xưa của Oanh nay đã “lão” và vẫn cười toe như hoa, và vẫn như thế vừa mới xa nhau hôm qua và biết về nhau làu làu mọi chuyện. Thật đúng là Giá Tôi Có Thể Quên Giá Mà Quên Được…

Continue reading Giá Tôi Có Thể Quên Giá Mà Quên Được

Hâm hâm hâm… hâm tình chưa nguội – Thơ Lý Phương Liên

 

Chào các bạn,

Vợ chồng thơ Lý Phương Liên, Nguyễn Nguyên Bảy
Nói đến nhà thơ Lý Phương Liên là nói đến một hiện tượng kỳ thú trong làng thơ Việt hiện nay—một phong cách đặc thù chân chất phát xuất từ một con tim rất thật.  Có lẽ các bạn đã đọc tập thơ “Ca Bình Minh” của chị xuất bản cách đây không lâu và đã được giới thiệu trên diễn đàn ĐCN tháng Hai vừa qua cũng đồng ý với tôi về điều này.

Sau 40 năm gác bút chị Lý Phương Liên đã bắt đầu viết lại.  Rất hân hạnh cho tôi và ĐCN, tôi là người đầu tiên được chị chọn gửi tặng 5 bài thơ rất riêng tư kể từ khi gác bút.  Xin cảm ơn tấm duyên tao ngộ cùng chị.

5 bài thơ của chị hoài tưởng đến những thâm tình đã bước vào đời chị.  Những thâm tình mà có lẽ chị sẽ cưu mang đến hơi thở cuối đời.  Trong niềm hoài tưởng này chị đã làm cho tôi lắng lòng cùng chị trong Lời mùa đông năm Mão cho Khuê.

Ta ly quê mùa đông năm Mão (Ất)
Hà Nội rét ơi là mướt

Cha (anh) ngồi núi tiễn tiếng ừ
Mẹ (anh) chạy sông cắm sào bến khóc


Vẫn năm Mão (năm này Tân Mão)
Rét gì mướt thế Mão ơi
Ta đưa gái Út về Nơi (quê)
tuổi ngày mẹ đi bằng tuổi con về

Continue reading Hâm hâm hâm… hâm tình chưa nguội – Thơ Lý Phương Liên

Thủng thẳng với thơ… (Phần 2)

    …thơ không thể dùng chiêu phát thanh, với thế độc tôn, độc quyền (trước 1975) để áp đặt, bắt buộc sư nghe nhìn của công chúng, rồi tạo ra một khuôn thơ, để bầy đàn đua nhau đúc thơ trong khuôn ấy mà lộng thơ, mà kiến tạo nghiệp thơ. Thơ ra rả phát thanh, thơ in trùng điệp sách giáo khoa, chiếm ngự toàn phần trang vàng báo chí cả nước. CâuThân ái chào các bạn! thực xứng đáng với cảnh ngộ thơ này, chào hoài chẳng thấy ai thưa, tội nghiệp mỏi mồm, gỗ tre vót hoài thì cũng chỉ là tăm sao thành kim khâu được.

 

Thân ái chào các bạn

Hồi ấy, trên dưới mười lăm tuổi đều được thổi lên thành “những anh hùng thời đại”, và lứa chúng tôi ai cũng đua tranh tu thân thành Paven Coóc sa ghin, Tôi không ngoại lệ. Chiến trường của chúng tôi là công trường làm đường Thanh Niên (Cổ Ngư) và công viên Bẩy Mẫu. Tự nhiên như thể sắp đặt của Càn Khôn, hòa trong dòng anh hùng thời đại ấy, tôi luôn được Hiệu đoàn trưởng giao nhiệm vụ ngồi trong lán phóng thanh và ngẫu hứng thơ về các kỷ lục của các Paven gánh đất, Paven đầy xe cút kít, Paven sắn mai cuốc xẻng mở đường. Và cũng tự nhiên như thế tôi thành Paven-thi sĩ trong mắt bạn bè tôi.

Continue reading Thủng thẳng với thơ… (Phần 2)