All posts by hlinhnie

Nam quyền trong chế độ mẫu hệ ở Việt Nam

 

(Trích )

Ở Việt Nam, xét về văn hoá tổ chức đời sống cộng đồng dựa trên tương quan nam nữ, đang tồn tại cả ba chế độ gia đình phụ hệ, song hệ, và mẫu hệ, không kể những hình thức chuyển tiếp, tàn dư. Trong đó, phổ biến nhất là chế độ gia đình phụ hệ; từ người Việt đa số đến các tộc người thiểu số cư trú ở các vùng miền như Thái, Mường, Tày, Nùng, Dao, Mông, Brũ, Ta-ioh, Katu, Mạ, Stiêng, Hoa, v.v. đều theo chế độ gia đình phụ hệ từ lâu. Chế độ gia đình song hệ chỉ phổ biến ở các tộc người Sedang, Bahnar, Gié-Triêng, Hrê thuộc ngữ hệ Nam Á (Austro-Asiatic) ở Bắc Tây Nguyên, và ở người Khmer Nam Bộ. Còn chế độ mẫu hệ thì phổ biến ở các tộc người Chăm, Jarai, Êđê, Raglai, Churu thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian), cư trú ở Nam Trung Bộ – Tây Nguyên, và ở các tộc người M’nông, K’ho thuộc ngữ hệ Nam Á, cư trú ở Nam Tây Nguyên bên cạnh các tộc người Nam Đảo.

Continue reading Nam quyền trong chế độ mẫu hệ ở Việt Nam

Giai điệu âm nhạc trong trường ca – sử thi Tây Nguyên

 

          1. GIAI ĐIỆU ÂM NHẠC

Một chi tiết quan trọng trong sự truyền bá từ đời này qua đời khác của thể loại trường ca,sử thi Tây Nguyên  là sự tồn tại hoàn toàn không phải qua bản in ấn, mà hoàn toàn qua hình thức truyền miệng. Đặc điểm bao trùm thống nhất trong thể loại trường ca ở mọi tộc người là : Lời văn trong trường ca bắt buộc phải phù hợp với cách hát để kể, xướng lên để kể, để hoàn toàn không thể là văn học thành văn bản chỉ đọc bằng mắt mà thôi. Lời văn của trường ca được cất lên từ miệng các nghệ nhân,  qua sự diễn tả của nghệ thuật diễn xướng âm nhạc, mà ở đây chúng tôi dùng thuật ngữ “ Hát – kể” cho hình thức diễn xướng văn học độc đáo này ở Tây Nguyên.Đo đó, nghiên cứu trường ca – sử thi Tây Nguyên, không thể chỉ đơn giản ở dưới dạng văn học truyền miệng.

Các phương tiện dùng để diễn tả nội dung câu chuyện bằng ngôn từ, như ngữ điệu và nhịp điệu đều chỉ là cơ sở để tiến hành việc hát kể và đã hoàn toàn được âm nhạc hóa.

Continue reading Giai điệu âm nhạc trong trường ca – sử thi Tây Nguyên

Về chủ đề Trường ca – sử thi TN

 

sưu tầm văn hoá dân gian

 

Thể theo nguyện vọng của nhiều bạn đã ghé qua “ nhà” tôi, than rằng biết về sử thi mà chưa từng được đọc, tìm ở đâu cũng không thấy. LN mở thêm chủ đề sử thi để giới thiệu với các bạn “ Sản phẩm tri thức dân gian quý báu” này. Nhưng thành thật mà nói, việc đưa sử thi đến với các bạn, cái khó nhất là thiếu thời gian. Mỗi bản trường ca – sử thi có độ dài vài trăm trang, mà LN không có cộng tác viên, nên sẽ rất lâu mới hoàn thành được một văn bản. Vậy chỉ mong các bạn đừng sốt ruột, và ai có cách gì giúp đỡ thì góp một tay nhé. Chân thành cám ơn.

Continue reading Về chủ đề Trường ca – sử thi TN

Hệ thống các trường ca, sử thi Tây Nguyên

Là sản phẩm đích thực của nền văn minh nương rẫy, trường ca thường là những câu chuyện kể dài, có vần, có điệu, thậm chí có vùng còn được diễn tả hoặc minh họa bằng động tác, bằng hành động. Độ dài ngắn của trường ca cũng khác nhau. Có tác phẩm chỉ kể một hai đêm, nhưng có tác phẩm kể bốn, năm ngày chưa hết (tùy theo sức tưởng tượng phong phú hoặc trạng thái thăng hoa của người kể). Trường ca thường chỉ kết thúc khi người anh hùng hoặc nhân vật trung tâm đã đạt mục đích nào đó. Đặc biệt các trường ca của tộc người Mnông (ot n’trong) thường có độ dài gấp đôi trường ca của các tộc người khác. Nếu so sánh với những truyện thơ dài như : Đẻ đất đẻ nước, Hùy Nga – Hai Mối của người Mường, Xống chụ xôn xao của người Thái… hoặc so với cả các  trường ca Ramayana của Ấn Độ, hay Iliat – Ôđixê của Hy Lạp thì các trường ca, sử thi Tây Nguyên có bản hơn gấp mấy lần cả về số lượng, độ dài hơi của tác phẩm lẫn số lượng nhân vật xuất hiện trong câu chuyện. Theo tư liệu đã công bố của các nhà sưu tầm, ở Tây Nguyên hiện đã có các sử thi, trường ca sau đây được biết đến :

Continue reading Hệ thống các trường ca, sử thi Tây Nguyên

Sử thi Bâhnar : Dyông Dư

                                                                   Sử thi Bâhnar Kriêm ( Bình Định)

Người kể : Bok Hmai – Bok Klích

Sưu tầm & Biên dịch : Hà Giao – Đinh Lưu

Tóm tắt cốt chuyện : Dyông Dư là em kề anh cả Dăm Joong và là anh của Dăm Dyă, của nàng Bia Jơ Răng Matnar với cậu em út Xem Đum. Dyông Dư là người kỳ dị, có thân hình to lớn, mắt lồi, miệng rộng, tai to, ăn hết nồi bảy nồi bung, uống chơi năm bảy ghè rượu cần. Ngủ say đến nỗi phải nấu chì đổ lỗ tai mới thức. Là một chàng trai có phép thần nhưng mang lốt người xấu xí, lười biếng. Dyông Dư còn là người có tài cao và đức độ,đánh bại mọi kẻ thù. Khi người thân trở thành kẻ phản bội, phải chiến đấu với nhau một mất một còn, chàng rất đau lòng như phải “ tự chặt chân chặt tay” . Lòng ham muốn của cải và quyền lực đã đẩy ngưòi anh ruột Dăm Joong trở mặt lại với Dyông Dư và các em. Đó là một bi kịch hiếm thấy trong sử thi Bâhnar. 

Dyông Dư

Xưa nghe Dyông Dư

Do cha anh xa xưa hơamon cho con em nghe

Đây chuyện kể về người Bahnar kỳ lạ

Bài này dài quá xin hát mấy khúc nghe chơi

Cha của Dyông Dư qua đời không ai biết

Cô của chàng mất lúc chưa chồng

Mẹ của chàng cùi cũi nuôi con năm đứa

Continue reading Sử thi Bâhnar : Dyông Dư

Sử thi chàng Dam San – Klei Khan Y Dam San

KLEI KHAN Y DAM SAN

    Người sưu tầm & dịch tiếng Pháp : Sabachier – 1933
    Người dịch tiếng Việt : Đào Tử Chí – 1959-1977
    Người hiệu đính, dịch thuật : Nguyễn Hữu Thấu – 1988

gallopingTóm tắt cốt chuyện :

Theo tục cuê nuê của Êđê, khi bà của H’Nhĭ, H’Bhí chết, hai nàng phải nối dây với chồng bà là ông Y Kla ( cậu của Dam San) . Khi cậu chết, Dam San phải thay cậu nối sợi dây hôn nhân với H’Nhĭ, H’Bhí ( Họ bằng tuổi nhau) .Câu chuyện bắt đầu từ lúc H’Nhĭ nhờ các anh sang  hỏi Dam San về làm chồng theo luật tục.

Không bằng lòng, Dam San  tìm nhiều cách chống đối, nhưng không thoát khỏi luật lệ. Chàng phải từ bỏ người yêu về làm chồng hai người đẹp, nên chán, thường bỏ đi chơi hoặc đưa tôi tớ đi săn bắt xa. Các tù trường Quạ & Sắt thấy H’Nhĭ xinh đẹp nên lừa bắt cóc nàng. Dam san đánh nhau & cướp lại được vợ. Không thỏa mãn , chàng tìm đường đến hỏi nữ Thần Mặt trời về làm vợ, nhưng bị từ chối và chết trong đầm lầy. Hồn Dam San nhập vào chị gái, làm nàng có thai. Đứa bé sinh ra đặt tên là Dam San mới thôi khóc. Được vài tuổi, H’Nhĭ lại cho các anh sang hỏi chồng. Không trái được luật tục & sợ mất của cải, Dam San nhỏ lại phải cuê nuê cùng H’Nhĭ, H’Bhí.

( LN đã phóng tác một góc câu chuyện tình của Dam San trong truyện ngắn Hoa Plang)

 

                                                                                I

 H’Nhĭ : Ơ Y Đhing ơi ! Ơ Y Ling ơi ! Ơ Y Đhang ơi ! Ơ Y Lang ơi ! Ở ngoài cổng làng có xử chém kẻ lạ nào đâu! Ơ Y Suh ơi ! Y Sah ơi ! vào đây nào !

Y Đhing : Ở em, có việc gì mà em gọi, có việc gì mà em kêu chúng tôi đấy hả em?

H’Nhĭ : Tôi gọi anh em chẳng vì công này, cũng không vì việc nọ. Danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi, nghe đông tây đâu đâu cũng nói H’Nhĭ, H’Bhĭ như gốc nhiều cành, nha cây nhiều nhánh, anh em lắm, họ hàng nhiều . Thế mà sao đến nay chúng tôi vẫn thui thủi một mình, chình ình ra đó như cây put ải (1), tấm chồng còn chưa có để mà dùng ?

Continue reading Sử thi chàng Dam San – Klei Khan Y Dam San

Trường ca, sử thi trong môi trường văn hóa dân gian Tây Nguyên

 

Đâu là nơi đầu tiên sản sinh ra thể loại trường ca? Chưa có công trình khoa học nào tìm biết điều này. Kể từ bản trường ca của người Êđê “ Bài ca chàng Dam San – Klei khan Dam San” do công sứ Pháp cai trị tại DakLak Sabachie phát hiện ra đầu tiên, cách nay gần 80 năm, các nhà sưu tầm đã lần lượt công bố “ Xinh Nhã, Dăm Di, Khinh Dú, Nàng H’ Điêu – Chàng M’ Hiêng, Gyông Dư” rồi hệ thống các trường ca Mnông “ Cây nêu thần, Mùa rẫy Bon Tiăng”… hầu như dân tộc nào cũng có. Nếu chỉ kể tên, riêng ở vùng DakLak, các nhà sưu tầm đã ghi được 39 tên trường ca Êđê, hơn 100 tên trường ca Mnông, 6 trường ca Jrai. Tại Phú Yên, Bình Định có sử thi Bâhnar Kriem, Bâhnar Chăm. Ở Kom Tum cũng đã ghi được hàng chục trường ca Bana Rngao, tìm ra hệ thống trường ca Xơđăng với những tác phẩm cũng đồ sộ không kém… chưa có điều kiện thống kê hết, nhưng theo thông tin từ chương trình sưu tầm sử thi của nhà nước đang được triển khai ở năm tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, thì hiện đã ghi được tên của 202 trường ca, nhiều nhất vẫn là của hai dân tộc người Êđê và Mnông ở DakLak. Chắc chắn sắp tới hệ thống các trường ca, sử thi Tây Nguyên sẽ được giới thiệu một cách đầy đủ hơn.

Continue reading Trường ca, sử thi trong môi trường văn hóa dân gian Tây Nguyên

Ôi, hai tiếng Đồng Bào

1- Có lẽ không người Việt Nam nào không biết và không tự hào với huyền thoại cội nguồn về cuộc hôn phối giữa Cha Rồng Lạc Long Quân, Mẹ Tiên Âu Cơ, để sinh ra chiếc bọc một trăm trứng, nở thành một trăm người con. 50 con theo Cha lên rừng, 50 con theo Mẹ xuống biển .

2- Ở các tỉnh Tây Nguyên, không biết tự bao giờ, trong mọi giao tiếp với bà con các dân tộc, hoặc nội dung trao đổi về công tác dân tộc ( kể cả chính thức và không chính thức, thậm chí đôi khi ngay trong cả các văn bản, cụm từ  “ người đồng bào ”, luôn được dùng để nói đến các đối tượng là người dân tộc thiểu số.

Continue reading Ôi, hai tiếng Đồng Bào

Đưa sử thi về lại buôn làng

    Viện Phát triển bền vững Tây Nguyên vừa tổ chức cuộc tọa đàm về việc ” làm thế nào đưa sử thi Tây Nguyên về lại với cộng đồng”. ( ngày 5-4-2011 tại Buôn Ma Thuột) Xin giới thiệu với các bạn trích đoạn bài phát biểu của Nay Jek  ( Y Jek Niê Kdam) một trong những ngưòi đã tham gia dịch sử thi, Êđê tại cuộc tọa đàm trên.

    Linh Nga Niê Kdăm

Về điều kiện công tác, chúng tôi đều là những người làm kiêm nhiệm, vừa làm công việc chuyên môn chính của mình tại cơ quan, vừa tham  gia việc dịch thuật sử thi và một số tài liệu pháp luật khác nên thời gian nghiên cứu không được tập trung. Khả năng trình độ dịch văn học cũng như dịch thơ ( ở đây chủ yếu văn vần) còn hạn chê, hầu hết trong nhóm dịch thuật chưa ai  qua trường lớp biên dịch. Do vậy công tác dịch thuật không chuyên nghiệp, gặp nhiều khó khăn trong quá trình tra từ để diễn đạt.

Continue reading Đưa sử thi về lại buôn làng

Thêm một chút mừng vui

Trên báo Đại Đoàn kết số ra ngày 28-2-011, có thông tin về việc nhà nước chi 314 tỷ đồng phát triển giáo dục dân tộc rất ít người, cho 9 tộc người , trong đó có 7 tộc người phía Bắc là Ơ Đu, Pu Péo, Si la, Cống, Bố Y, Mảng và Cơ Lao; 2 tộc người Tây Nguyên là RMâm và Brâu, đều cư trú tập trung ở tỉnh Kon Tum. Ngân sách này được chia cho giai đoạn một đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và các chính sách hỗ trợ học sinh, bồi dưỡng giáo viên và giai đoạn hai tập trung vào việc hoàn thiện các cơ chế cụ thể đối với việc đến trường học của học sinh .

Continue reading Thêm một chút mừng vui

Ước muốn của chúng tôi



Những giáo viên nhạc tương lai đây

Có lẽ hoa đỗ quyên ( có người còn gọi là hoa anh đào, vì hoa đồng loạt nở  đầy cành và có màu phơn phớt hồng,tương tự như hoa anh đào của Nhật Bản ), là một trong những thứ hoa báo tin xuân sớm nhất ở vùng đất cao nguyên. Nhưng đó cũng còn là loài hoa kiên nhẫn song hành cũng gió xuân cho đến tận ngoài giêng. Có khi cũng vì sắc tím hồng ấy vẫn cứ rực lên như mời gọi ở cửa hoa viên đối diện lối rẽ và cây mai tứ quý trong sân nhà tôi bây giờ mới nở, mà cô trò chúng tôi quyết định làm một chuyến du xuân muộn, sau mấy tuần nghỉ tết dài vừa tựu trường, khi bài vở chưa có gì gấp gáp, chăng?

Continue reading Ước muốn của chúng tôi

Mười mùa xuân, văn học Trường Sơn – Tây Nguyên

Không một vùng đất nào trên trái đất, có được kho tàng văn học dân gian truyền miệng phong phú về giai điệu, giàu có về nội dung, đồ sộ về khối lượng, độc đáo về hình thức trình diễn , như thể loại trường ca – sử thi của các dân tộc thiểu số khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên. Cho dẫu trải qua nhiều biến động của thời gian, của lịch sử xã hội, của phương thức sản xuất du canh, luân canh; của sự chuyển đổi tín ngưỡng, tôn giáo, có làm cho đứt gãy , thì thuở xa xưa, có thể tộc người thiểu số bản địa nào của Tây Nguyên, cũng có trường ca, sử thi.

Đây không chỉ là những áng văn học truyền miệng dài hơi, những bộ “ tiểu thuyết” bằng thơ ca dân gian, mà còn vô cùng độc đáo ở nghệ thuật diễn xướng. Bởi mỗi nghệ nhân hát – kể trường ca, sử thi là một nghệ sỹ tổng hợp , vừa là đạo diễn dàn dựng, là diễn viên trình tấu , vừa là nhà phê bình, bình luận nội dung cốt truyện. Quan trọng nhất, họ là những tác giả chân đất vô cùng tài ba. Đội ngũ nghệ nhân hát – kể này, những “ báu vật dân gian sống” theo cách gọi của tổ chức UNESCO, đã từng rất, rất đông đảo trong mọi buôn, bon, kon, plei ở Trường Sơn – Tây Nguyên. Chẳng có lần kể chuyện nào giống hệt lần nào, bởi người nghe càng chăm chú, người kể càng thăng hoa, dẫn dắt không chỉ nhân vật của mình, mà cả khán thính giả, bay lượn khắp ba tầng trời, đất và dưới đất, dưới nước…

Continue reading Mười mùa xuân, văn học Trường Sơn – Tây Nguyên

Hồn Tết

Ảnh ” Cột nêu & đâm trâu trong lễ hội Tây Nguyên”

Cái lạnh của thiên nhiên Tháng Giêng, chính là thông điệp của Cha Trời, mẹ Đất gửi đến con người rằng mùa đông đã qua và xuân đang đến đấy. Không khí se se mà vẫn nắng, vẫn gió của cao nguyên , thường khiến người ta về đêm  hoài niệm. Tôi cũng để tâm trí mình lang thang  trò chuyện với  ký ức về những cái tết một thuở xa xôi…

Continue reading Hồn Tết

Dạy nghề dệt thổ cẩm người Châu Mạ: Hy vọng của chúng tôi

Vậy là sau ba tháng miệt mài, lớp truyền dạy nghề dệt thổ cẩm đầu tiên của bà con người Châu Mạ tại xã Quảng Khê, và một lớp dệt nâng cao của người Mnông ở xã Đăk Ha ( huyện Đăk Glong, tỉnh Đăk Nông) đã kết thúc. Không chỉ 45 chị em hỷ hả với việc hoàn tất lớp học mà tôi cũng thấy niềm vui trong mình khó kìm giữ.

Nói ra thì dài dòng, nhưng trong suốt hơn 30 năm cặm cụi với việc sưu tầm, khôi phục và bảo tồn văn hóa truyền thống, tôi đã tổ chức hàng chục lớp dạy nghề dệt thổ cẩm, tham quan nhiều cơ sở dệt của  tộc ngưòi K’Ho ở Lâm Đồng, người Bâhnar ở Gia Lai, người Sê Đăng ở Kon Tum, người Mnông ở Lăk…. Cả khóc lẫn cười trong những lần đi vận động mở lớp với bà con.

Continue reading Dạy nghề dệt thổ cẩm người Châu Mạ: Hy vọng của chúng tôi

Lễ “Ăn Trâu” – Đừng nhìn nghi lễ rởm mà phán xét

 

Chúng ta phải tôn trọng quyền của chủ thể văn hóa – quyền của con người Tây Nguyên với văn hóa của họ. Họ là người cuối cùng quyết định văn hóa đó tồn tại hay không tồn tại.

“Ăn trâu” thể hiện triết lý sống của người Tây Nguyên

Trước tiên phải gọi chính xác là lễ “ăn trâu”, như cách gọi của các dân tộc Tây Nguyên, chứ không phải đâm trâu như người Kinh thường gọi. “Ăn trâu” là một nghi lễ trong nhiều lễ hội của các dân tộc ở Tây Nguyên. Trong các lễ hội này, con trâu là vật hiến sinh cho thần linh, xưa kia phổ biến ở nhiều nơi thuộc Đông Nam Á, nơi con trâu được thuần dưỡng và là vật nuôi từ khá sớm, khác với các vùng khác nuôi bò.

Tục dùng trâu là vật hiến sinh thần linh, nay phổ biến hơn cả là Tây Nguyên của Việt Nam, một nơi duy nhất ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, còn ở các vùng khác phong tục này đã mất đi nhiều. Bản thân hội chọi trâu Đồ Sơn (Hải Phòng) cũng là di vết của tục hiến sinh trâu cho thần biển.

Continue reading Lễ “Ăn Trâu” – Đừng nhìn nghi lễ rởm mà phán xét