
(Trích )
Ở Việt Nam, xét về văn hoá tổ chức đời sống cộng đồng dựa trên tương quan nam nữ, đang tồn tại cả ba chế độ gia đình phụ hệ, song hệ, và mẫu hệ, không kể những hình thức chuyển tiếp, tàn dư. Trong đó, phổ biến nhất là chế độ gia đình phụ hệ; từ người Việt đa số đến các tộc người thiểu số cư trú ở các vùng miền như Thái, Mường, Tày, Nùng, Dao, Mông, Brũ, Ta-ioh, Katu, Mạ, Stiêng, Hoa, v.v. đều theo chế độ gia đình phụ hệ từ lâu. Chế độ gia đình song hệ chỉ phổ biến ở các tộc người Sedang, Bahnar, Gié-Triêng, Hrê thuộc ngữ hệ Nam Á (Austro-Asiatic) ở Bắc Tây Nguyên, và ở người Khmer Nam Bộ. Còn chế độ mẫu hệ thì phổ biến ở các tộc người Chăm, Jarai, Êđê, Raglai, Churu thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian), cư trú ở Nam Trung Bộ – Tây Nguyên, và ở các tộc người M’nông, K’ho thuộc ngữ hệ Nam Á, cư trú ở Nam Tây Nguyên bên cạnh các tộc người Nam Đảo.
1. GIAI ĐIỆU ÂM NHẠC

Là sản phẩm đích thực của nền văn minh nương rẫy, trường ca thường là những câu chuyện kể dài, có vần, có điệu, thậm chí có vùng còn được diễn tả hoặc minh họa bằng động tác, bằng hành động. Độ dài ngắn của trường ca cũng khác nhau. Có tác phẩm chỉ kể một hai đêm, nhưng có tác phẩm kể bốn, năm ngày chưa hết (tùy theo sức tưởng tượng phong phú hoặc trạng thái thăng hoa của người kể). Trường ca thường chỉ kết thúc khi người anh hùng hoặc nhân vật trung tâm đã đạt mục đích nào đó. Đặc biệt các trường ca của tộc người Mnông (ot n’trong) thường có độ dài gấp đôi trường ca của các tộc người khác. Nếu so sánh với những truyện thơ dài như : Đẻ đất đẻ nước, Hùy Nga – Hai Mối của người Mường, Xống chụ xôn xao của người Thái… hoặc so với cả các trường ca Ramayana của Ấn Độ, hay Iliat – Ôđixê của Hy Lạp thì các trường ca, sử thi Tây Nguyên có bản hơn gấp mấy lần cả về số lượng, độ dài hơi của tác phẩm lẫn số lượng nhân vật xuất hiện trong câu chuyện. Theo tư liệu đã công bố của các nhà sưu tầm, ở Tây Nguyên hiện đã có các sử thi, trường ca sau đây được biết đến :
Tóm tắt cốt chuyện : Dyông Dư là em kề anh cả Dăm Joong và là anh của Dăm Dyă, của nàng Bia Jơ Răng Matnar với cậu em út Xem Đum. Dyông Dư là người kỳ dị, có thân hình to lớn, mắt lồi, miệng rộng, tai to, ăn hết nồi bảy nồi bung, uống chơi năm bảy ghè rượu cần. Ngủ say đến nỗi phải nấu chì đổ lỗ tai mới thức. Là một chàng trai có phép thần nhưng mang lốt người xấu xí, lười biếng. Dyông Dư còn là người có tài cao và đức độ,đánh bại mọi kẻ thù. Khi người thân trở thành kẻ phản bội, phải chiến đấu với nhau một mất một còn, chàng rất đau lòng như phải “ tự chặt chân chặt tay” . Lòng ham muốn của cải và quyền lực đã đẩy ngưòi anh ruột Dăm Joong trở mặt lại với Dyông Dư và các em. Đó là một bi kịch hiếm thấy trong sử thi Bâhnar.
Tóm tắt cốt chuyện :
Đâu là nơi đầu tiên sản sinh ra thể loại trường ca? Chưa có công trình khoa học nào tìm biết điều này. Kể từ bản trường ca của người Êđê “ Bài ca chàng Dam San – Klei khan Dam San” do công sứ Pháp cai trị tại DakLak Sabachie phát hiện ra đầu tiên, cách nay gần 80 năm, các nhà sưu tầm đã lần lượt công bố “ Xinh Nhã, Dăm Di, Khinh Dú, Nàng H’ Điêu – Chàng M’ Hiêng, Gyông Dư” rồi hệ thống các trường ca Mnông “ Cây nêu thần, Mùa rẫy Bon Tiăng”… hầu như dân tộc nào cũng có. Nếu chỉ kể tên, riêng ở vùng DakLak, các nhà sưu tầm đã ghi được 39 tên trường ca Êđê, hơn 100 tên trường ca Mnông, 6 trường ca Jrai. Tại Phú Yên, Bình Định có sử thi Bâhnar Kriem, Bâhnar Chăm. Ở Kom Tum cũng đã ghi được hàng chục trường ca Bana Rngao, tìm ra hệ thống trường ca Xơđăng với những tác phẩm cũng đồ sộ không kém… chưa có điều kiện thống kê hết, nhưng theo thông tin từ chương trình sưu tầm sử thi của nhà nước đang được triển khai ở năm tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, thì hiện đã ghi được tên của 202 trường ca, nhiều nhất vẫn là của hai dân tộc người Êđê và Mnông ở DakLak. Chắc chắn sắp tới hệ thống các trường ca, sử thi Tây Nguyên sẽ được giới thiệu một cách đầy đủ hơn.
1- Có lẽ không người Việt Nam nào không biết và không tự hào với huyền thoại cội nguồn về cuộc hôn phối giữa Cha Rồng Lạc Long Quân, Mẹ Tiên Âu Cơ, để sinh ra chiếc bọc một trăm trứng, nở thành một trăm người con. 50 con theo Cha lên rừng, 50 con theo Mẹ xuống biển .
Viện Phát triển bền vững Tây Nguyên vừa tổ chức cuộc tọa đàm về việc ” làm thế nào đưa sử thi Tây Nguyên về lại với cộng đồng”. ( ngày 5-4-2011 tại Buôn Ma Thuột) Xin giới thiệu với các bạn trích đoạn bài phát biểu của Nay Jek ( Y Jek Niê Kdam) một trong những ngưòi đã tham gia dịch sử thi, Êđê tại cuộc tọa đàm trên.
Trên báo Đại Đoàn kết số ra ngày 28-2-011, có thông tin về việc nhà nước chi 314 tỷ đồng phát triển giáo dục dân tộc rất ít người, cho 9 tộc người , trong đó có 7 tộc người phía Bắc là Ơ Đu, Pu Péo, Si la, Cống, Bố Y, Mảng và Cơ Lao; 2 tộc người Tây Nguyên là RMâm và Brâu, đều cư trú tập trung ở tỉnh Kon Tum. Ngân sách này được chia cho giai đoạn một đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và các chính sách hỗ trợ học sinh, bồi dưỡng giáo viên và giai đoạn hai tập trung vào việc hoàn thiện các cơ chế cụ thể đối với việc đến trường học của học sinh .

Không một vùng đất nào trên trái đất, có được kho tàng văn học dân gian truyền miệng phong phú về giai điệu, giàu có về nội dung, đồ sộ về khối lượng, độc đáo về hình thức trình diễn , như thể loại trường ca – sử thi của các dân tộc thiểu số khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên. Cho dẫu trải qua nhiều biến động của thời gian, của lịch sử xã hội, của phương thức sản xuất du canh, luân canh; của sự chuyển đổi tín ngưỡng, tôn giáo, có làm cho đứt gãy , thì thuở xa xưa, có thể tộc người thiểu số bản địa nào của Tây Nguyên, cũng có trường ca, sử thi.
Nói ra thì dài dòng, nhưng trong suốt hơn 30 năm cặm cụi với việc sưu tầm, khôi phục và bảo tồn văn hóa truyền thống, tôi đã tổ chức hàng chục lớp dạy nghề dệt thổ cẩm, tham quan nhiều cơ sở dệt của tộc ngưòi K’Ho ở Lâm Đồng, người Bâhnar ở Gia Lai, người Sê Đăng ở Kon Tum, người Mnông ở Lăk…. Cả khóc lẫn cười trong những lần đi vận động mở lớp với bà con. 