All posts by dongvy

Nhìn vào trong


Cái nhìn của bạn sẽ chỉ trở nên rõ ràng khi bạn có thể nhìn vào tâm hồn chính bạn. Ai nhìn ra ngoài, thì mơ mộng; ai nhìn vào trong, sẽ tỉnh thức.

Đặng Nguyễn Đông Vy dịch

.

Your vision will become clear only when you can look into your own heart. Who looks outside, dreams; who looks inside, awakens.

Carl Jung

Thánh đường xưa

Ba năm, nhưng tưởng như lâu lắm rồi Nghi mới trở về quê ngoại. Lại đúng vào dịp Noel. Cô thức dậy vào buổi ban mai, nằm thật lâu trong giường để lắng nghe tiếng chim hót trong những vòm cây quanh vườn, tiếng gầu nước khua vào thành giếng, tiếng ai đó đổ nước vào thùng, và tiếng quét lá…

Ngoại cô thường có thói quen quét lá mỗi buổi sáng. Khi cây cỏ ngoài vườn còn ướt sương, khi những tia nắng đầu tiên chỉ vừa lướt trên những ngọn cây xa tít, nhuộm một màu vàng óng ánh, rất dịu . Bà dồn lá thành một đống to ở góc vườn rồi châm lửa đốt. Lá khô cháy giòn và lá tươi nổ lép bép. Có những loại lá mà bọn trẻ con gọi là lá nổ, Nghi thường hái bỏ vào lửa, thích thú nhìn chúng nổ tanh tách và phồng rộp lên như cái bánh đa nướng. Cô đã sống những ngày tháng đẹp nhất của mình ở nơi này, một xứ đạo hiền hoà và bình yên . Cô đã trải qua một tuổi thơ trong trẻo và thánh thiện, một mối tình đầu cũng trong trẻo và thánh thiện như thế. Bởi vậy mà mỗi lúc nhớ về quê ngoại, nhớ tuổi thơ là Nghi lại nhớ Đông, nhớ đến da diết. Suốt ba năm đại học, cô chỉ chăm chú vào sách vở, và không động rung trước bất kỳ ai, mặc dù không hẳn là vì Đông, hoặc ít ra cô cũng tin rằng không phải vì anh. Cách đây không lâu cô đã nghe ai đó nói rằng anh vừa làm lễ tuyên thệ, cô có cảm giác lạ lẫm và cố hình dung ra anh trong chiếc áo chùng đen. Cô nhớ mình đã từng nói với Đông rằng cô muốn anh trở thành một nghệ sĩ chơi piano trong nhà hát lớn chứ không phải là một thầy tu chơi đàn ở nhà thờ. Cô luôn nhớ đôi bàn tay mảnh và dài của anh lướt trên những phím đàn tài hoa như thế nào.Và cô nhớ, nhớ mãi cái ngày bà ngoại mất, Đông đứng bên cạnh tháp chuông chờ cô đi lễ ra để ôm choàng cô vào lòng và nói:

-Em phải khóc đi Nghi, tại sao trong đám tang em không khóc.

Và cô đã khóc, khóc mãi trong vòng tay Đông, không một chút e thẹn, ngượng ngùng, chỉ thấy nhẹ lòng vì biết mình được yêu thương và thấu hiểu. Nhưng từ ngày vào thành phố, Nghi đã luôn biết rằng Đông là ký ức, là một mối tình đã qua, nếu như cô có thể gọi đó là một mối tình…

*

Anh lớn hơn cô vài tuổi. Và là một tu sinh. Sinh ra trong một gia đình ngoan đạo nên ngay từ bé, anh đã biết chắc rằng mình sẽ trở thành tu sĩ.

Còn cô chỉ là một cô bé con gầy gò và lặng lẽ, hát trong ca đoàn của giáo xứ. Bố mẹ cô đều sống ở thành phố, còn cô thì sống với bà ngoại ở giáo xứ yên lành này từ lúc bé xíu. Thỉnh thoảng, bà ngoại lại bảo cô mang lên nhà thờ cho cha xứ những món ăn ngon. Anh thường đàn cho ca đoàn của cô trong những buổi lễ chủ nhật dành cho thiếu nhi. Cô không phải là người hát hay nhất, cũng không phải là cô bé xinh xắn nhất, nhưng anh thương mến cô vì cô rất hiền lành.

Cho đến buổi lễ Giáng sinh năm cô tròn 16 tuổi. Khi ngồi vào đàn, anh gần như không nhận ra là cô đứng ngay bên cạnh, trong chiếc áo dài trắng mềm mại và tinh khôi. Đó là lần đầu tiên anh thấy cô mang áo dài, cũng là lần đầu tiên anh nhận ra rằng cô đã trở thành một thếu nữ xinh đẹp. Nhìn nghiêng, gương mặt cô có nét gì đó thật thanh cao và thánh thiện, đôi mắt đen trong veo luôn nhìn thẳng về phía trước. Khi hát, chiếc cổ mảnh mai của cô ngước lên duyên dáng như một con thiên nga trắng: “cao cung lên,khúc nhạc thiên thần xuống…”Và trong một thoáng anh nhận ra rằng anh đã quên mất mình đang ở trong nhà thờ, anh cứ ngỡ như anh chỉ đang đàn cho mỗi một mình cô hát, và anh cũng chỉ nghe có mỗi tiếng hát của cô mà thôi…

Và từ đó, anh để ý đến cô, một điều tự nhiên hơn tất cả mọi điều có thể xảy ra trên thế gian này. Và anh yêu cô, mặc dù anh tin rằng mình chưa bao giờ tỏ lộ cho ai biết, kể cả cô. Anh thấy mình sung sướng khi nghe bạn bè cô kể rằng ở trường, cô là một lớp trưởng rất được nể nang vì học giỏi và năng nổ. Anh thích nhìn ngắm cô cười nói giòn giã với bạn bè, và vô cùng hạnh phúc mỗi khi cô ngừng lại và ý nhị nhìn về phía anh với ánh mắt vừa táo bạo vừa thẹn thùng một cách dễ thương. Mỗi khi tan lễ, cô thường quỳ lại rất lâu và luôn là người ra về sau cùng. Anh đợi cô bên cạnh tháp chuông, chỉ để im lặng trao cho cô một gói kẹo nhỏ, một chùm ổi, hay chùm mận hái từ khu vườn của nhà thờ. Đôi khi, chỉ để hỏi :

-Hôm nay em có vui không?

Và nghe cô thì thầm :

-Dạ có.

Trong những buổi lễ, cô luôn tìm cách đứng ngay bên cạnh chiếc đàn dương cầm, và thỉnh thoảng anh lại mỉm cười với cô, sung sướng khi thấy đôi mắt cô long lanh và đôi môi cô mím lại để cố giấu nụ cười. Không ai biết điều đó, chỉ có anh và cô.

Đôi lúc, trong những giờ đọc kinh tối hoặc sáng, anh bỗng nhớ đến cô và thầm nghĩ : “Mình không muốn trở thành một linh mục nữa, mình sẽ nói với cha xứ là mình không thể trở thành linh mục được”. Nhưng chỉ nghĩ đến thế thôi anh đã thấy hoảng sợ. Anh đã sống với vị cha xứ nghiêm khắc này từ lúc còn là một cậu bé lớp hai. Ông đã nuôi anh ăn học và tất cả mọi người trong gia đình đều tin chắc rằng anh không thể trở thành một cái gì khác ngoài một tu sĩ. Anh đã quen với những việc của nhà thờ, quen kéo chuông trước giờ lễ, quen với việc đèn đóm, âm thanh, đàn hát. Quen cả với kiểu sống trầm mặc và cô độc của một người tu hành, lủi thủi trong căn phòng nhỏ và đọc kinh rất nhiều lần trong ngày. Anh không thể dẫm đạp lên tất cả , chỉ vì cô. Anh không thể tưởng tượng được cô sẽ mang đến cho anh điều gì nhiều hơn thứ tình cảm trong sáng và vô hại ấy, thứ tình cảm mập mờ giữa tình yêu trai gái và tình anh em. Và gần như một sự ngây thơ, anh vẫn nghĩ cô là của riêng mình, và sẽ không bao giờ thuộc về ai khác.

Một buổi trưa tháng sáu, nắng đổ chói chang. Anh vừa về đến nhà thờ thì đã thấy cô chờ anh bên cạnh tháp chuông.Cô nhìn anh bằng đôi mắt long lanh chực khóc, và đôi má rám hồng lên vì nắng :

-Em lên xin cha xứ nghỉ hát ở ca đoàn, em phải vào Sài Gòn để thi Đại học. Có lẽ em không về đây nữa.

Anh đứng lặng, buông xuôi tay theo thân mình. Lòng xáo động dữ dội nhưng thừa biết mình sẽ không thể làm gì để giữ cô lại.

-Khi nào em đi?

-Chiều nay.

-Chiều nay ?

Anh tự hỏi, cô nhìn anh như thế nghĩa là gì. Cô chờ đợi anh điều gì, chờ đợi anh một lời thổ lộ hay hứa hẹn mà anh không thể nào thốt ra được chăng. Nhưng cô chỉ lắc đầu nhè nhẹ rồi nói :

-Anh ở lại mạnh khoẻ.

Anh gật đầu và cô quay lưng đi. Anh chợt thấy lòng mình trống hoác.

-Nghi !

Cô quay lại, nhìn anh điềm tĩnh đến lạ lùng, giống như cô đã biết chắc anh sẽ gọi cô, thậm chí biết chắc sẽ nói gì:

-Em…cố gắng học giỏi nhé !

Cô mỉm cười nhè nhẹ, rồi lại gật đầu và quay đi. Anh đâu cần phải dặn cô như vậy, anh biết chứ. Anh luôn luôn biết rằng cô sẽ là một sinh viên giỏi, cô sẽ làm được điều cô muốn và sẽ trở thành một cái gì đó trong đời, mạnh mẽ và không bao giờ khuất phục. Một cái gì đó, khác anh.

Từ khi Nghi đi, anh thấy mình trở nên trống rỗng và vô vị, nhưng anh chấp nhận sự vô vị đó và gọi nó là “sự bình yên”. Anh tiếp tục đàn cho ca đoàn hát, tiếp tục học tiếng Latinh, học thần học, học ngoại ngữ và âm nhạc ở chủng viện. Rồi hai năm sau, anh chính thức khoác lên người chiếc áo chùng đen và đợi thời gian thử thách để trở thành linh mục.Thỉnh thoảng, anh vẫn nghe một vài người nhắc đến Nghi, nhưng anh tin rằng cô như một cơn bão đã đi xa,và lòng anh phẳng lặng trở lại. Anh nghĩ rằng mình đã không nhớ mong Nghi trong chừng ấy năm tháng, không momg muốn gặp lại cô dù rằng anh vẫn dành cho cô một lời cầu nguyện mỗi đêm. Điều đó có nghĩa là Nghi sẽ không bao giờ khuấy động tâm hồn anh được nữa. Anh vẫn tưởng như thế, cho đến một ngày, tiếng chuông Giáng Sinh lại ngân lên binh boong và Nghi trở về…

*

Đông đứng ngay trước mặt Nghi và vẫn còn kinh ngạc. Từ ngày anh mặc áo chùng, tất cả mọi người đều gọi anh là “thầy”, nhưng anh không hề cảm thấy bất bình khi Nghi vẫn gọi anh là “Anh!”. Dường như trong thâm tâm, anh chưa bao giờ nghĩ rằng Nghi có thể gọi anh khác đi được. Trong bóng tối, Nghi đẹp một cách kỳ lạ. Đôi mắt trong như không có đáy, cái miệng, và cái cánh mũi hếch lên bướng bỉnh của cô vẫn quen thuộc với anh như thể cô chưa bao giờ xa anh lâu đến vậy. Đông ngửi thấy mùi chanh thoang thoảng từ mái tóc Nghi, có thể, từ đôi môi của cô nữa. Một cách hoàn toàn vô thức, anh đưa tay sờ lên mặt cô, dường như để nhận xem có đúng là cô hay không, hay để chứng thực rằng cô đang thật sự hiện hữu :

-Em vẫn đẹp lắm !

Nghi mỉm cười và anh thấy bàng hoàng cả người, bàng hoàng vì những lời mình vừa thốt ra, bàng hoàng vì anh đã không hề chờ đợi được gặp lại cô, và còn bàng hoàng vì những tình cảm không lường được đang trỗi dậy mạnh mẽ trong anh. Nếu ngày xưa đối với anh cô là một thiên thần tinh khôi thì bây giờ cô là niềm khát khao chực bùng cháy, chực huỷ hoại tất cả mọi thứ. Và Đông biết rõ, chỉ dấn thêm một bước nữa thôi thì cô sẽ là sự lầm lạc của anh, là nỗi ô nhục của gia đình anh, và của tất cả những giáo dân ngoan đạo xứ này.

Nghi ngước mắt lên, và thấy đôi mắt Đông nhìn cô đăm đắm xuyên qua màn đêm, nửa khao khát, nửa sợ hãi. Bỗng dưng, Nghi muốn oà khóc, cô biết Đông không thể vứt bỏ tất cả để ôm choàng lấy cô. Trong bóng tối, cái cổ cồn của chiếc áo tu sĩ nổi rõ lên màu trắng toát, trắng đến đáng sợ. Nó như một nhát dao đâm mạnh vào tim cô. Cô vừa thấy mình tội lỗi, vừa nguyền rủa sự hèn nhát của cô, và cả của anh. Bởi cô bỗng nhận ra mình yêu anh, vẫn yêu anh từ ngày xưa cho đến tận bây giờ, bất kể ba năm trời không gặp, bất kể chiếc áo chùng đen mà anh đang khoác trên người. cô muốn gục đầu vào ngực anh và kể cho anh nghe cô đã nhớ anh như thế nào, rằng cô đã thèm khát có được sự vững chãi và dịu dàng của anh bên cạnh như thế nào. Rồi Nghi ước gì Đông đừng nhìn cô nồng nàn như thế. Cô lại ước có ai đó đến gần họ ngay lúc này để anh rời xa cô ra. Đông sẽ trở thành linh mục, điều đó là không thể thay đổi, không bao giờ thay đổi được. Nghi biết rằng Đông hiến dâng cuộc đời mình cho việc tu hành không chỉ vì niềm tin, mà còn vì niềm tự hào của gia đình, vì bổn phận và cả vì những tham vọng của bản thân anh. Đó là một con đường đã được vạch sẵn và Đông chưa bao giờ bước chệch khỏi con đường đó.

Có tiếng chuông đồng hồ điểm mười tiếng, chậm rãi. Đông bất giác lùi lại:

– Sắp lễ rồi.

– Phải, sắp lễ rồi.

– Em vào nhà thờ chứ?

– Em không biết.

Đông quay nhìn vào bên trong, ngần ngừ:

– Anh phải đàn cho ca đoàn hát thanh ca.

– Em biết.

Đông cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn của cô và lắc khẽ:

– Có lẽ…anh vào trước, em vào sau nhé!

Nghi gật đầu nhè nhẹ, nhìn Đông đi như chạy về phía cửa nhà thờ , cô nghe như có cái gì đổ vỡ trong lòng mình. Đó là lúc cô nhận ra rằng Đông sợ mọi người nhìn thấy. Nhưng không thể trách anh được. không thể trách được. đời người ta vẫn khổ sở bởi những khát khao bị kìm nén. Có lẽ, cô là phần yếu đuối nhất của tâm hồn Đông. Cô chầm chậm bước ra khỏi cổng giáo đường. Đêm lạnh. Và gió thổi vi vút. Đêm Giáng sinh thường mang đến cho Nghi một cảm giác lạ kỳ, vừa ấm áp, vừa trống trải. Nghi thoáng nghe tiếng dương cầm vang lên điệu nhạc quen thuộc “ Cao cung lên, khúc nhạc thiên thần xuống, hoà trong làn gió, nhè nhẹ vấn vương…Ôi linh thiêng…”. Sau lưng cô, tháp chuông bắt đầu ngân lên từng tiếng bing…boong…trong trẻo. Ngay lúc này, Nghi biết mình phải đi xa, xa thật xa, trứơc khi cô có ý định lôi kéo Đông, hay cám dỗ anh.

Mối tình đầu cũng giống như tiếng chuông vậy. Nó đã qua rồi dẫu ta vẫn nghe như những âm vang của nó còn đọng mãi. Không ai có thể tìm lại một tiếng chuông, cũng không ai nên cố tìm cách giữ lại một tiếng chuông. Hãy để những cơn gió nguyên sơ mang thanh âm ấy đi x. Nếu không thể tạo nên một điều gì tốt đẹp hơn hiện tại, thì cũng đừng nên phá vỡ hiện tại. Có một thánh đường trong tim anh, tim cô, và những gì cất giấu bên trong đó là thiêng liêng. Nhưng những tham vọng, những bổn phận, cũng như nỗi sợ hãi trước nhân gian bắt họ dừng lại.

Đêm thánh vô cùng, và cánh cửa thánh đường xưa đã khép. Cô chỉ ước một điều, ước gì, nó đừng trở nên hoang phế với thời gian.

Đông Vy

Giáng Sinh ư ? Hãy đến một nơi xa lạ!

Tôi nhớ có người nói rằng: “Giáng Sinh luôn luôn là khoảnh khắc bạn cảm thấy nhớ nhà – kể cả khi bạn vẫn đang ở nhà” (*) Ấy vậy mà mười năm nay tôi đã phải đón Noel ở Sài Gòn, hỏi sao tôi không nhớ nhà cho được.

Tôi lớn lên giữa một xứ đạo. Và ký ức về Noel đầu tiên của tôi là năm bảy tuổi, khi tôi được chọn vào đội thiên thần múa bài “Cao cung lên” ở nhà thờ trong buổi lễ nửa đêm. Lần đó, tôi đã khóc đến sưng mắt để đòi ba phải cho tôi uốn tóc xoăn, và mẹ phải may cho tôi một cái áo đầm trắng. Phải vậy chứ, vì tất cả các thiên thần đều có mái tóc xoăn, mang áo trắng và đeo một đôi cánh cũng trắng tinh. Mất bao nhiêu nước mắt thuyết phục, đến khi ba mẹ tôi đồng ý thì hỡi ôi, tôi bị loại khỏi đội múa vì…tay chân cứng quá!

Để xoa dịu nỗi buồn của cô gái nhỏ, tất cả những người lớn trong gia đình đã làm tất cả để Giáng Sinh năm ấy trở thành một sự kiện tuyệt vời nhất trong đời tôi. Có lẽ vì vậy mà từ đó Giáng Sinh đã trở nên rất quan trọng với tôi! Cậu làm cho tôi một chiếc đèn ngôi sao thật lớn. Dì tôi làm bánh buche, mẹ ngâm dâu tây…Cả nhà cùng nhau thiết kế một hang đá khổng lồ với cây lồ ô, rơm và bao xi măng, dựng “cây thông” bằng cành dương đính bông gòn và kim tuyến, treo đèn rực rỡ hơn bất cứ nhà nào trong xóm. Chúng tôi ăn Réveillon với nồi cháo gà vàng ngậy, thơm phức của bà ngoại…

Nhưng điều đặc biệt nhất đối với tôi, đó là Ba Mẹ đã quyết định đưa tôi đi lễ nửa đêm ở một giáo xứ khác, để tôi không phải chạnh lòng khi thấy bạn bè múa “Cao cung lên” trong đôi cánh thiên thần. Đó là một giáo đường lạ, với những giáo dân tôi chưa từng gặp bao giờ. Nhưng chính khung cảnh náo nhiệt, ấm cúng, sự hồ hởi vui mừng của tất cả mọi người, bài thánh ca quen thuộc “Đêm thánh vô cùng, giây phút tưng bừng….” đã khiến tôi cảm thấy mọi thứ đều vô cùng thân thuộc.

Rất nhiều năm đón Noel ở Sài Gòn, nỗi nhớ quê nhà luôn tràn ngập trong tim, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy cô đơn hay buồn chán. Bởi mỗi một đêm Giáng Sinh, tôi đều tìm đến một nơi hoàn toàn xa lạ, chưa đặt chân đến bao giờ. Có năm, tôi không đi lễ ở nhà thờ quen mà ghé thánh đường nhỏ tên là “Phanxicô khó khăn” trên đường Nguyễn Đình Chiểu. Có năm, tôi đi dự lễ hội hoá trang ở một trường Đại học với người bạn mới quen. Năm sau, tôi tham gia đội tình nguyện mặc áo ông già Noel đi phát quà cho trẻ em đường phố ở Tao Đàn. Một lần khác, tôi xin một chân bán hàng thời vụ tại một cửa hàng bán đồ trang trí cây thông trước cửa Nhà thờ Tân Định. Nhưng cũng có lúc, không có cuộc hẹn nào cho đêm Giáng Sinh, tôi đã một mình bước chân vào quán cà phê lạ, ngồi đối diện với cây nến nhỏ và lặng ngắm những cặp tình nhân…

Giáng Sinh, đó là một thời điểm đặc biệt, không chỉ về mặt tôn giáo. Nó là một trong những ngày lễ lớn nhất trong năm, có lẽ chỉ sau Tết Nguyên đán. Ngay từ đầu tháng mười hai, ông già Noel đã dạo những bước đầu tiên trên đường phố Sài Gòn. Các cửa hiệu đều trang trí chủ đạo ba màu trắng, xanh lá và đỏ sậm, những con phố chuyên bán cây thông và đồ trang trí bắt đầu nhộn nhịp. Các shop bán quần áo và đồ chơi trẻ em treo lủng lẳng những dây dài các bộ quần áo Noel đỏ rực. Các trung tâm thương mại lớn giăng đèn và dựng cây thông khổng lồ với tượng ông già Tuyết bên cỗ xe tuần lộc…Phố Sài Gòn nhộn nhịp đến từng nhịp chân đi…

Nhưng dưới mắt tôi, Giáng Sinh là thời điểm đặc biệt còn vì một lý do khác. Nếu như bạn ở xa nhà vào khoảnh khắc Giao thừa tết Nguyên đán, cảm giác lớn nhất có lẽ là nỗi cô đơn. Ngay cả khi bạn đang đứng giữa một buổi party đông đúc, một quán cà phê quen, những người bạn thân thiết. Khoảnh khắc Giao thừa luôn khiến bạn nhận ra một khoảng cách nhất định với những người khác và ngay lập tức bạn muốn trở về căn nhà ấm áp của mình bên những người ruột thịt. Đó là khoảnh khắc bất cứ ai cũng thấy lòng chùng xuống một cách vô thức, thu mình lại trong nỗi khát khao được trở về.

Giáng Sinh thì khác, một thời điểm không có lý do gì để buồn. Một niềm hân hoan rõ rệt in trên mỗi gương mặt dù lạ hay quen. Một không khí nhộn nhịp, ấm cúng, đầy chia sẻ và cởi mở hiện diện ở bất cứ đâu sẽ khiến bạn không cảm thấy e dè khi phải là người lạ. Đón Giao thừa ở nhà người khác thì thật vô duyên và lạc lõng, nhưng ăn Réveillon ở nhà bè bạn lại là những khoảnh khắc tuyệt vời.

Đối với tôi, Giáng Sinh luôn là thời điểm giúp tôi nhận ra những khía cạnh tốt đẹp ở người khác một cách dễ dàng nhất. Những con người này, tôi có thể đã gặp họ đâu đó trên đường, khi họ càu nhàu vì khói bụi, nhăn nhó và bẳn gắt vì những chuyện bực mình ở gia đình hay nơi công sở. Bình thường họ trưng ra những bộ mặt có thể đáng ghét biết bao nhiêu, nhưng vào đêm Noel, họ ăn mặc rất đẹp, họ cười nói một cách thoải mái và vui vẻ! Họ thân thiện và đáng yêu! Cũng như tôi, họ cảm thấy dễ chịu, bình an, trái tim mở rộng và sẵn sàng chia sẻ niềm vui.

Vì vậy, tôi gọi Giáng Sinh là thời điểm tốt nhất để bắt đầu một tình bạn! Hãy đến một nơi xa lạ vào đêm Giáng Sinh. Biết đâu bạn sẽ gặp tôi ở đó, với nụ cười trên môi, tôi sẽ chúc bạn câu này: “Cầu cho niềm vui của hôm nay luôn tràn đầy ân phúc, và mỗi con đường đều dẫn đến bình an.(**) Giáng Sinh vui vẻ !

Đông Vy

Chú thích:

* Carol Nelson

** Agnes M. Pharo

Còn thời cưỡi ngựa bắn cung…

    Có hai loại người, những người làm việc và những người giành được lời khen ngợi. Hãy cố tham gia vào nhóm đầu tiên, ở đó ít cạnh tranh hơn.

    (Indira Gandhi)


Có một lần, cô cháu gái 12 tuổi ưa vẽ vời của tôi thổ lộ rằng lớn lên cô muốn làm thợ may. Khi ấy, tôi đùa “Phải trở thành nhà thiết kế thời trang nổi tiếng chứ. Làm thợ may chán chết!” Nhưng cô bé cương quyết: “Con không muốn nhà thiết kế nổi tiếng. Con muốn là thợ may”. Chị họ tôi ngán ngẩm lắc đầu “Giờ thì nói gì cũng được, chứ mai mốt lớn mà đòi làm thợ may là không được đâu nghe con”.

Nhưng tôi, nhìn đôi mắt trong veo kiên định của cháu và giật mình. Cơ sở nào để người ta xếp loại nghề nghiệp này là tầm thường, còn nghề nghiệp kia là vinh quang? Vì số tiền kiếm được? Vì trình độ học thức mà nó đòi hỏi phải có? Hay vì danh tiếng?

Khi còn trẻ, chúng ta thường gắn ước mơ của mình với hai chữ “nổi tiếng”. Có lẽ Byron nói đúng “Danh tiếng là cơn khát của tuổi trẻ”. Muôn đời. Nhưng, có khi nào cơn khát đó dẫn chúng ta đi lạc đường hay không? Tôi ra về và nghĩ đến ước mơ thợ may của cháu tôi.

Mơ ước làm thợ may không ngăn cản ta học hỏi để may những bộ áo chuẩn mực như các hãng thời trang hạng nhất. Nếu bạn muốn hai thứ: thợ may và danh tiếng, bạn có thể trở thành một thợ may xuất sắc, rồi danh tiếng sẽ đến sau đó.

Nhưng ước mơ của cháu tôi chỉ là thợ may thôi. Mơ ước làm thợ may, không có nghĩa chính xác là chỉ mở một tiệm may nhỏ xíu kề bên khu chợ nhỏ xíu ở một trị trấn nhỏ xíu nào đó. Nhưng nếu đó là tất cả những gì cô bé muốn, cắt và may những bộ áo đẹp cho người khác, thì có gì sai? Nếu đó là những gì bạn muốn, chứ không phải là những gì chán ngắt mà bạn bắt buộc phải làm.

Tôi có một người bạn, từng là một học sinh giỏi, tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, rồi học thạc sĩ ở nước ngoài, và bây giờ, anh trở về mảnh đất của cha mình ở một vùng quê hẻo lánh để trồng những cây ăn trái, suốt ngày xắn quần xới gốc và tưới cây. Có người nói với tôi rằng như vậy thật là phung phí bao nhiêu năm ăn học. Nhưng bạn tôi, chính bạn, biết rằng những năm tháng ấy không hề phung phí, và trở lại làm một người nông dân không hề là một bước lùi. Những trái cây anh trồng là loại quả sạch tốt cho sức khỏe và có chất lượng hảo hạng.

Mỗi người đều phải leo lên những bậc thang đời mình. Có người mơ ước xa: đến đỉnh cao nhất. Có người mơ ước gần: một hai bậc, rồi sau đó, một hai bậc tiếp theo. Có người cứ lặng lẽ tiến bước theo mục tiêu của mình, gạt bỏ mọi thị phi. Có người đi chu du một vòng thiên hạ, nếm đủ đắng cay rồi mới chịu trở về với ước mơ ban đầu. Nhưng cũng có người lỡ bay quá xa và không thể điều khiển đời mình được nữa, chỉ còn buông xuôi và tiếc nuối. Tôi nhận ra rằng, thực ra, mục tiêu của ước mơ chẳng đưa ta đến đâu cả, chỉ có cách thức mà bạn thực hiện ước mơ mới đưa bạn đến nơi bạn muốn.

Có lẽ chúng ta cần một cái nhìn khác. Rằng chẳng có ước mơ nào là tầm thường cả. Và chúng ta học không phải để thoát khỏi nghề rẻ rúng này, để được làm nghề danh giá kia. Mà học là để mình có thể làm điều mình yêu thích một cách tốt nhất và từ đó kiếm về cho mình thu nhập cao nhất có thể, một cách xứng đáng và tự hào.

Mỗi một con người đều có vai trò của mình trong cuộc đời này và đều đáng được ghi công. Đó là lý do để chúng ta không vì thèm khát vị thế cao sang này mà rẻ rúng công việc bình thường khác. Cha mẹ chúng ta, phần đông, làm những công việc rất bình thường. Và đó là một thực tế mà chúng ta cần nhìn thấy. Để trân trọng. Không phải để mặc cảm. Để bình thản tiến bước. Không phải để tự ti. Nếu tất cả đều là doanh nhân thành đạt thì ai sẽ quét rác trên những đường phố? Nếu tất cả là bác sĩ nổi tiếng thế giới thì ai sẽ là người dọn vệ sinh bệnh viện? Nếu tất cả đều là nhà khoa học đoạt giải Nobel thì ai sẽ là người tưới nước những luống rau muống? Nếu tất cả là kỹ sư phần mềm thì ai sẽ gắn những con chip vào máy tính.

Phần đông chúng ta cũng sẽ là những người bình thường. Nhưng điều đó không thể ngăn cản chúng ta vượt lên từng ngày. Bởi luôn luôn có một đỉnh cao cho mỗi nghề bình thường.

Nghề báo khiến tôi gặp gỡ nhiều người nổi tiếng và tôi nhận ra rằng danh tiếng giống như tháp Bayon, người ta phải đi một vòng mới nhìn thấy hết các mặt của nó. Danh tiếng, với một số người, là mục tiêu duy nhất của cuộc đời. Nhưng với vài người khác, sự nổi tiếng giống như một tai nạn, xảy ra ngoài ý muốn và chẳng mang đến điều gì tốt đẹp. Đôi khi người ta xem danh tiếng là phần thưởng đáng giá cho công việc. Nhưng cũng có người nói rằng danh tiếng chỉ là món hàng khuyến mãi không mấy hữu dụng khi họ được làm điều họ yêu thích. Và bởi thế, khi rũ bỏ danh tiếng, hào quang, quyền lực để trở về với cuộc sống “tầm thường”, họ chẳng tiếc nuối chi.

Nhà văn Sơn Nam có lần đọc cho tôi hai câu thơ mà ông tình cờ sưu tầm được khi lang thang bên những phận người nhỏ bé:

“Còn thời cưỡi ngựa bắn cung.

Hết thời cúi xuống lượm(dây) thun… bắn ruồi.”

Oprah Winfrey có nói “Nếu bạn đạt đến danh vọng mà vẫn chưa hiểu được mình là ai, thì chính danh vọng sẽ xác định bạn là ai”. Như vậy, danh vọng là thứ chỉ nên có khi ta hiểu được mình và điều khiển được nó. Điều khiển được nó nghĩa là cầm lên được, đặt xuống cũng được. Bởi danh tiếng có lừng lẫy ra sao, địa vị có cao sang đến thế nào, thì cũng sẽ có lúc ta phải rời yên xuống ngựa. Ai trong chúng ta đủ ngốc nghếch để tin rằng mình có thể giương cung được mãi?

Hosokawa Morihiro từng là Thủ tướng Nhật Bản mới cách đây vài nhiệm kỳ, nhưng đến năm 60 tuổi, ông rời chính trường và về sống ở một thung lũng thuộc tỉnh Kanagawa. Tại đó, ông trồng rau và học làm gốm. Hosokawa nói một trong những điều ông thích ở nghề gốm là nó khiến ta chỉ tập trung vào cái ta đang thực hiện và “một khi tôi đã quyết chuyện gì là tôi theo đuổi cho tới cùng”. Ông học làm gốm từ cơ bản và chỉ làm những tách trà nhỏ theo kiểu xưa, nhưng ông làm rất chuyên tâm, và cuối cùng đã tổ chức triển lãm những tác phẩm gốm của mình như một nghệ sĩ thực thụ.

Nghệ nhân gốm Morihiro đã khiến tôi nhận ra rằng xã hội này sẽ tốt đẹp hơn không phải bởi tất cả đều trở nên danh tiếng và giàu có, mà bởi mỗi người chúng ta (dù nổi tiếng hay vô danh) làm công việc của mình một cách chuyên tâm và tự hào. Hosokawa đã là một chính trị gia tận tâm khi ở trên đỉnh cao danh vọng, và khi chỉ là một thợ gốm học việc, ông cũng vẫn tận tâm như vậy.

Rốt cuộc thì đó mới chính là điều đáng để chúng ta theo đuổi: được chuyên tâm với công việc mà mình yêu thích. Đó là bí quyết của thành công. Và đó cũng là bí quyết của hạnh phúc. Phải vậy không?

Đông Vy và Phạm Công Luận

Tư tưởng của sách


Điều tốt đẹp nhất trong một cuốn sách không phải là những tư tưởng nó chứa đựng, mà là những tư tưởng nó gợi lên, cũng giống như sự quyến rũ của âm nhạc không nằm trong những thanh âm, mà nằm trong tiếng vọng của trái tim ta.

Đặng Nguyễn Đông Vy dịch

.

The best of a book is not the thought which it contains, but the thought which it suggests; just as the charm of music dwells not in the tones but in the echoes of our hearts.

John Greenleaf Whittier