Mệnh Lệnh Năng Lượng Bắt Buộc – CHƯƠNG 2 (PHẦN 17)

Người dịch: Phạm Thị Ngọc Nho
Biên tập: Phạm Thu Hường

MỆNH LỆNH NĂNG LƯỢNG BẮT BUỘC:
100% TÁI TẠO NGAY BÂY GIỜ

CHƯƠNG 2: Phương Pháp Và Tâm lý Của Sự Trì Hoãn
(Phần 17)

2B. Những chiếc cầu dễ gãy: Năng lượng hạt nhân và những nhà máy điện thu giữ và lưu trữ cac bon bằng bất kỳ giá nào?(tiếp theo)

Các lý do có vẻ hợp  lý về phụ tải nền

Biện minh cho sự cần thiết tiếp tục điện hạt nhân và/hoặc các nhà máy điện CCS trong tương lai gần liên quan rất ít đến lượng năng lượng yêu cầu mà liên quan nhiều hơn đến “phụ tải nền” cần thiết. Theo lập luận này, các nhà máy điện hạt nhân và CCS là cần thiết bởi vì điện mặt trời và điện gió được tạo ra không phải là luôn luôn có sẵn khi cần đến, và để khắc phục nhược điểm này chúng ta cần lưu trữ một lượng rất lớn điện mặt trời và điện gió được tạo ra, lớn một cách không cân xứng, và về mặt tài chính là không thể. Lý do này được phóng đại thành một trở ngại dường như không thể vượt qua cho sự chuyển đổi năng lượng, và do đó, yếu tố ít hiệu quả nhất trong việc cung cấp năng lượng hiện nay – cái gọi là nhà máy điện phụ tải nền (xem Chương 2, Phần 8) – được tuyên bố là trung tâm của vũ trụ điện, và là con át chủ bài cuối cùng của sản xuất điện truyền thống.

Những lợi ích được ca ngợi hết sức của nhà máy điện phụ tải nền không chỉ đối lập với cấu trúc không hiệu quả của việc sử dụng năng lượng (do những thiệt hại không thể tránh khỏi bởi hơi nước không dùng đến), mà còn đối lập với những hao phí liên quan đến việc vận chuyển điện và nhu cầu các nhà máy điện dự phòng thêm cho những khoảng thời gian dừng hoạt động.

Sự dừng hoạt động là một hiện tượng xảy ra khá phổ biến, đặc biệt là cho các nhà máy điện hạt nhân. Công suất dự trữ chỉ để đáp ứng yêu cầu trong thời gian một vài ngày hoặc vài tuần và được đề cập như là công suất “dự trữ lạnh” không được sử dụng, chiếm trung bình khoảng một phần ba tổng thể công suất. Lý lẽ này hoàn toàn thất bại trong việc tính đến công suất dự trữ có sẵn như các dạng máy phát điện khẩn cấp mà ít được sử dụng nhưng luôn cần phải có sẵn trong các bệnh viện, cơ sở viễn thông, công ty cung cấp nước, giao thông đường sắt hoặc các cơ sở hành chính.

Các hệ thống phát điện phi tập trung này có tiềm năng ảnh hưởng đến sự chuyển đổi năng lượng. Hầu như đã không ai nghĩ tới điều này, mặc dù nước Đức mang đến một ví dụ điển hình về việc làm thế nào điều này có thể được thực hiện: máy phát điện khẩn cấp trong tòa nhà Reichstag ở Berlin, thủ phủ của Quốc hội Đức, đã được thay thế bởi hai máy phát kết hợp nhiệt và điện chạy bằng dầu thực vật và cung cấp toàn bộ nhu cầu điện và nhiệt của tòa nhà. Trong trường hợp này, chính lưới điện công cộng mới có chức năng như là các nguồn cung cấp điện khẩn cấp.

Không có hệ thống cung cấp năng lượng nào có thể tồn tại mà không cần dự trữ và khả năng lưu trữ – kể cả hệ thống cũ hay một hệ thống dựa trên năng lượng tái tạo mới. Trong mô hình truyền thống, năng lượng chủ yếu được lưu trữ trước khi chuyển đổi thành điện năng. Nếu không sử dụng ngay lập tức, điện năng này phải được lưu trữ. Hệ thống lưu trữ bao gồm hệ thống vận chuyển năng lượng, kho hoặc bể chứa nhiên liệu than. Bởi vì năng lượng mặt trời và gió không thể được lưu trữ trước khi được chuyển đổi thành điện năng, các cơ chế lưu trữ cần phải được xử lý xuôi dòng sản xuất chứ không phải là ngược dòng lưu trữ nguyên liệu trong quá trình phát điện.

Hệ thống năng lượng truyền thống cũng lưu trữ năng lượng, mặc dù nhu cầu lưu trữ là ít hơn bởi vì các nhà máy điện trọng tải vừa và các nhà máy điện trọng tải tối đa thường được đưa vào hoạt động để đáp ứng nhu cầu bổ sung. Vì vậy, sự khác biệt giữa năng lượng truyền thống và năng lượng tái tạo không phải là nhu cầu lưu trữ mà thiên về các hình thức lưu trữ và các khoản đầu tư mà hình thức lưu trữ này đòi hỏi.

Một yếu tố chủ chốt của việc chuyển đổi hệ thống là thay thế các nhà máy điện phụ tải nền với những nguồn năng lượng được kiểm soát có thể nhanh chóng kết nối, bằng các phương tiện của mạng lưới quản lý thông minh và việc sản xuất điện theo mô-đun. Điều này làm giảm nhu cầu tổng thể về lưu trữ. Cơ chế lưu trữ phải được lựa chọn không chỉ phụ thuộc vào các tính toán riêng lẻ về chi phí đầu tư. Những chi phí trong việc chuyển đổi liên quan đến lưu trữ điện được so sánh với các hao phí năng lượng vốn có trong một nhà máy điện phụ tải nền cũng như hiệu suất thấp và chi phí của việc duy trì khả năng dự trữ không cần thiết của các nhà máy này.

Đến bây giờ, các kịch bản năng lượng tái tạo đã bao gồm các cơ chế lưu trữ được sử dụng trong hệ thống cung cấp năng lượng truyền thống cho việc đáp ứng nhu cầu trong các giai đoạn cao điểm, chẳng hạn như các nhà máy điện không khí nén và bơm lưu trữ. Các loại pin truyền thống có thể và đôi khi cũng được sử dụng, song chu kỳ sạc ngắn của công nghệ pin truyền thống và phí tổn năng lượng khiến cho loại pin này không thích hợp. Tuy nhiên, cuộc thảo luận về lưu trữ điện đã chưa nói đến nhiều công nghệ pin mới sẵn có, cũng như vô số các công nghệ lưu trữ mới đã được trình bày tại Hội nghị lưu trữ năng lượng tái tạo quốc tế hàng năm tổ chức bởi EUROSOLAR và Hội đồng Thế giới về Năng lượng tái tạo (World Council for Renewable Energy). Hầu hết các công nghệ pin này đang trong giai đoạn thử nghiệm, chờ tung ra thị trường.

Một vài trong số các công nghệ pin mới được liệt kê trong mục về Các sáng kiến thay đổi hệ thống (System breakers) trong Chương 4. Các phương án lưu trữ năng lượng này xóa đi tất cả các luận cứ cho việc xây dựng các nhà máy điện hạt nhân hoặc các nhà máy điện đốt than mới, hoặc mở rộng tuổi thọ hoạt động của chúng. Tương tự, các phương án lưu trữ này cũng loại bỏ hết các căn cứ để lắp đặt siêu lưới rộng lớn, như đã được dự kiến ​​cho dự án DESERTEC hay dự án Biển Bắc mà tôi xem xét trong chương kế tiếp.

Cho dù các nhà máy điện hạt nhân hoặc các nhà máy điện đốt than hay còn gọi là các dự án siêu lưới điện nêu trong Chương 3, mỗi nhà máy được lên kế hoạch với thời gian là 50 năm, được tuyên bố cần thiết cho việc bảo đảm sự cung cấp điện phụ tải nền và trong mỗi trường hợp, các công nghệ lưu trữ điện đều được nói đến ở mức tiềm năng bi quan. Họ đã lờ đi tất cả các phương án được cung cấp bởi công nghệ lưu trữ dành cho năng lượng tái tạo – bởi vì nếu họ không làm thế thì lý luận đằng sau những dự án lớn sẽ sụp đổ.

(còn tiếp)

© 2014 copyright Verlag Antje Kunstmann GmbH

Permission granted for translating into Vietnamese and publishing solely on dotchuoinon.com for non-commercial purposes.

Bản quyền bản dịch:  dotchuoinon.com

One thought on “Mệnh Lệnh Năng Lượng Bắt Buộc – CHƯƠNG 2 (PHẦN 17)”

  1. Với những lập luận trên, nhà máy điện hạt nhân và nhà máy điện thu giữ và lưu trữ cac bon không có lý do gì để tồn tại.

    Em cám ơn team dịch đã phổ biến kiến thức cho mọi người. 🙂

    Like

Leave a comment