Đường tâm linh của Anthony de Mello cho Thời Phiền muộn của Chúng ta

Tác giả: Thomas Farrell
Người dịch: Nguyễn Chí Trung 

 

Anthony de Mello’s Spirituality for Our Troubled Times
Đường tâm linh của Anthony de Mello cho Thời Phiền muộn của Chúng ta

 

Duluth, Minnesota, June 14, 2012: For me, reading Anthony de Mello’s new book REDISCOVERING LIFE: AWAKEN TO REALITY (2012) was like listening to an old friend once again.

Duluth, Minnesota, 14/6/2012

Đối với tôi, việc đọc cuốn sách mới của Anthony de Mello “TÌM LẠI CUỘC SỐNG: THỨC TỈNH VỚI THỰC TẠI (2012)” giống như việc nghe lại cuộc trò chuyện với một người bạn cũ.

When I was in the Jesuits, I had the opportunity to listen to Anthony de Mello, S.J. (1931-1987), from India preach a retreat in Denver from June 19 to July 10, 1980, to a group of Jesuits. Drawing on my notes from Tony’s 1980 retreat in Denver, I discuss his thought frequently in my book WALTER ONG’S CONTRIBUTIONS TO CULTURAL STUDIES: THE PHENOMENOLOGY OF THE WORD AND I-THOU COMMUNICATION (2000), the revised edition of which is scheduled to be published in 2012.

Khi tôi còn sống trong Dòng Tên, tôi có cơ hội được nghe Anthony de Mello (1931-1987) từ Ấn Độ giảng trong một khóa tĩnh tâm cho một nhóm linh mục Dòng Tên ở thành phố Denver từ 19/6 – 10/7/1980. Rút ra từ các ghi chú của tôi về khóa tĩnh tâm của Tony ở Denver năm 1980, tôi thảo luận thường xuyên tư tưởng của ông trong cuốn sách của tôi “ĐÓNG GÓP CỦA WALTER ONG VÀO NGHIÊN CỨU VĂN HÓA: HIỆN TƯỢNG NGÔI LỜI VÀ TRUYỀN THÔNG GIỮA TÔI VÀ THIÊN CHÚA (2000)”, phiên bản chỉnh sửa sẽ được dự kiến phát hành năm 2012.

Tony’s new book is the transcript of the 1984 preached retreat that he gave via satellite. For the 1984 preached retreat, Tony was in India speaking via satellite to people at Fordham University in New York City. The new book also includes the question-and-answer periods, which enabled Tony to clarify his thought for his audience.

Cuốn sách mới của Anthony de Mello là bản ghi lại buổi thuyết giảng tĩnh tâm năm 1984. Lúc đó ông ở Ấn Độ và thuyết giảng cho mọi người ở trường đại học Fordham ở thành phố New York thông qua vệ tinh. Cuốn sách này bao gồm cả phần hỏi và trả lời để ông làm rõ hơn tư tưởng của ông cho người nghe.

Certain themes in this new book by Tony are familiar to me from his 1980 retreat in Denver. As a result, I’d like to offer my reflections here by way of adding nuance to a certain point he discusses.

Một số chủ đề của cuốn sách này đã quen thuộc với tôi từ khóa tĩnh tâm năm 1980 ở Denver. Tôi muốn đưa ra suy nghĩ của tôi ở đây bằng cách thêm vào các chi tiết rất nhỏ vào một số điểm ông đã thảo luận.

It strikes me that Tony is basically discussing the kingdom of God that the historical Jesus proclaimed, except that Tony does not refer explicitly to the kingdom of God. Instead, he speaks of being happy. However, he thinks that we excel at making ourselves unhappy. He writes, for example, about our having “desires so intense that we would refuse to be happy unless they were fulfilled” (page 44). Sound familiar?

Tôi có ý nghĩ rằng về cơ bản Tony thảo luận về nước Chúa mà Jesus của lịch sử đã từng tuyên bố, ngoại trừ Tony đã không công khai nhắc đến nước Chúa. Thay  vào đó, ông nói về cách trở nên hạnh phúc. Tuy nhiên, ông nghĩ rằng chúng ta rất giỏi về việc làm cho chính chúng ta không hạnh phúc. Ví dụ, ông viết về chúng ta có “các thèm muốn quá mãnh liệt đến nỗi chúng ta từ chối hạnh phúc trừ khi các thèm muốn đó được thỏa mãn” (trang 44).  Nghe quen không?

Our desires lead us to form attachments. But our desires also lead us to false beliefs — the beliefs that without the desired attachment, we cannot be happy. In this way, we make ourselves unhappy. As a result of being unhappy, we are filled with sorrow. “Where there is sorrow, there is no love,” he says (page 43). The root of sorrow is desire/attachment. In addition, attachment brings anxiety.

Những thèm muốn của ta dẫn ta đến dính mắc vào hình sắc. Nhưng thèm muốn còn dẫn chúng ta đến những niềm tin sai lầm – niềm tin rằng nếu không có dính mắc thèm muốn, chúng ta không thể hạnh phúc. Trong cách [tư duy] này, chúng ta tự làm chúng ta không hạnh phúc. Kết quả của không hạnh phúc là chúng ta tràn đầy sầu buồn . “Nơi nào có sầu buồn, nơi đó không có tình yêu”, ông nói (trang 43). Gốc rễ của sầu buồn là thèm muốn/dính mắc. Thêm nữa, sự dính mắc mang lại lo lắng.

So he recommends nonattachment as the corrective antidote. In this way, our being happy does not depend on our attachment. He suggests that nonattachment enables us to be happy and to be open to love. The happy person “know[s] no anxiety at all” and has “no inner conflict at all” (page 33).

Vì vậy ông đề nghị vô chấp như là phương thuốc cứu chữa. Bằng cách này hạnh phúc của chúng ta không phụ thuộc vào những chấp trước của chúng ta. Ông đề xuất rằng vô chấp làm cho ta hạnh phúc và rộng mở cho yêu thương. Người hạnh phúc “không lo lắng chút nào” và “không có chút mâu thuẫn nội tại nào” (trang 33).

No inner conflict at all? That is a tall order. Our inner conflicts usually come from childhood traumatizations, although those early psychological wounds can also be compounded by further psychological wounds later on. Thus to have no inner conflicts at all, we would have to be healed of our psychological wounds. This is obviously easier said than done. But it can happen.

Không mâu thuẫn nội tại chút nào? Đó là một việc rất khó khăn. Những mâu thuẫn bên trong chúng ta thường đến từ những chấn thương từ thuở nhỏ, dù những vết thương tâm lý từ nhỏ có thể bị chồng chất với những vết thương tâm lý sau này. Vậy để không có mâu thuẫn nội tại chút nào, chúng ta cần phải chữa lành các vết thương tâm lý. Điều này rõ ràng nói thì dễ hơn làm. Nhưng cũng có thể làm được.

On page 43, Tony says, “Tell me, when you grieve, whom are you grieving for? Who’s loss? That’s self-pity.”

Trang 43, Tony nói, “Hãy cho tôi biết, khi nào bạn đau buồn, bạn đau buồn cho ai? Ai bị thiệt thòi? Đó là sự tự thương hại.”

In short, when I grieve certain losses in my life, I am grieving for me because I am the one who has experienced the loss. No doubt about that much.

Một cách ngắn gọn, khi tôi đau buồn cho những điều mất mát nào đó trong cuộc sống, tôi đang đau buồn cho tôi bởi vì tôi là người đang kinh nghiệm với sự mất mát. Chẳng nghi ngờ gì về điều đó.

Incidentally, the Victorian Jesuit poet says as much in his poem titled “Spring and Fall.” The poem opens with the following lines: “Margaret, why are you grieving/ Over Goldengrove unleaving?” The last two lines of the poem say, “It is the blight man was born for,/ It is Margaret you mourn for.”

Một cách ngẫu nhiên, nhà thơ dòng Tên thời Victorian đề cập như thế trong bài thơ “Mùa xuân và mùa thu (Spring and Fall)”. Bài thơ mở đầu với những dòng sau “Margaret, tại sao con đau buồn/ vì Vườn Vàng rụng lá?” Hai dòng cuối bài thơ nói “ Chính cho tàn rụi mà con người sinh ra./. Chính cho Margaret [Chính cho con] mà con đau buồn.”

(nguồn http://genius.com/2391979/Gerard-manley-hopkins-spring-and-fall-to-a-young-child/It-is-the-blight-man-was-born-for-it-is-margaret-you-mourn-for)

Now, Tony in this new book wants to persuade us that we can be happy regardless of what happens to us. So we can be happy when we experience certain losses in our lives. I understand his basic point.

Bây giờ, Tony muốn thuyết phục chúng ta rằng chúng ta có thể hạnh phúc bất chấp việc gì xảy đến với chúng ta. Vì thế chúng ta có thể hạnh phúc ngay cả khi trải nghiệm bất kì những mất mát nào trong cuộc sống. Tôi hiểu điểm cơ bản của Tony.

However, I want to examine Tony’s statement that mourning our losses is self-pity, because we are mourning for ourselves. I want to raise this question: What in us is prompting us to mourn our losses?

Tuy nhiên, tôi muốn khảo sát câu nói của Tony rằng việc than khóc cho những mất mát của chúng ta chính là tự thương hại, bởi vì chúng ta than khóc cho chính bản thân chúng ta. Tôi muốn đưa ra câu hỏi: điều gì trong chúng ta làm chúng ta than khóc cho những những mất mát của chúng ta?

Alice Miller and John Bradshaw and others have taught us to think about and reflect on the Child Within (also known as the Inner Child). Moreover, John Bradshaw likes to say that grief is the healing feeling.

Alice Miller and John Bradshaw và nhiều người khác đã dạy chúng ta suy nghĩ về và phản ánh về Em Bé Bên Trong. Ngoài ra, John Bradshaw nói rằng đau buồn là một cảm giác có thể chữa lành bệnh.

I would suggest that when we mourn our losses, our Child Within is activated and is undertaking the mourning. In short, the Child Within surfaces as a result of our loss and is leading us to mourn our loss.

Tôi cho rằng khi chúng ta đau buồn về sự mất mát, Em Bé Bên Trong ta được đánh thức và nhận công việc than khóc . Một cách ngắn gọn, Em Bé Bên Trong ta là kết quả của sự mất mát của ta và dẫn chúng ta than khóc cho sự mất mát đó.

But so what? How does this explanation of our mourning process advance our understanding? Isn’t mourning still self-pity, as Tony says it is?

Nhưng thế thì sao? Làm sao lý giải quá trình này về than khóc nâng cao sự hiểu biết của chúng ta? Không phải than khóc chỉ là sự tự thương hại như Tony đã nói chứ?

No, it is not exactly self-pity.

Không, nó không hẳn là tự thương hại.

Rather the activation of the Child Within is a signal to us that the Child Within is still hurting, probably from traumatization in early childhood. But if the Child Within is still hurting, should our sorrow signal us to attend to the Child Within? Yes, it should. Moreover, it signals that deep stuff in our psyches is surfacing, traumatizations from our early childhood.

Thực ra, việc kích hoạt Em Bé Bên Trong là một tín hiệu đến với chúng ta rằng Em Bé Bên Trong vẫn đang đau đớn, có thể từ những chấn thương xảy ra từ thời trẻ thơ. Nhưng nếu Em Bé Bên Trong vẫn đau đớn, không phải nỗi buồn của chúng ta nên ra hiệu cho chúng ta chăm lo Em Bé Bên Trong sao? Vâng, nên lắm. Hơn nữa, nỗi buồn này còn ra tín hiệu rằng những thứ nằm sâu trong tâm thức chúng ta đang trồi lên, những chấn thương từ thuở bé thơ.

Put differently, our sorrow and mourning should signal us that we have unresolved grief issues that we should attend to. We need to parent the Child Within as we ourselves were not parented in the traumatizations of our early childhood.

Nói cách khác, nỗi buồn và than khóc của ta cho ta biết rằng chúng ta có những vấn đề đau khổ chưa giải quyết xong mà chúng ta cần chăm sóc. Chúng ta cần là cha mẹ chăm sóc cho Em Bé Bên Trong vì chúng ta đã không được cha mẹ chăm sóc – trong những chấn thương thời trẻ thơ.

But wouldn’t such belated parenting of our Child Within be self-pity? No, not exactly. It would be remedial parenting. If our efforts at such remedial parenting work, then we will emerge in a fresh new psychological condition in which we will be ready to listen to some of the things Tony says about attachments and nonattachment and being happy regardless of our losses.

Nhưng việc chăm sóc trễ tràng cho Em Bé Bên Trong như thế không phải là sự tự thương hại sao? Không hẳn vậy. Nó có thể công việc làm cha mẹ để chữa lành. Nếu công sức của chúng ta trong việc làm cha mẹ để chữa lành đó thành công, chúng ta sẽ chuyển sang một trạng thái tâm lý để có thể sẵn sàng lắng nghe những điều Tony nói về việc “chấp” và “vô chấp” và hạnh phúc bất kể mọi mất mát của chúng ta.

As paradoxical as it may sound, Tony says, “Where there is love, there is no desire” (page 42). There is no desire in the sense of attachment for oneself, no desire to possess and cling to somebody or something for one’s own sake, no desire to dominate and control somebody else for one’s own sake. “Attachment means “I gotta get you.’ It means, “Without you, I will not be happy. If I don’t get you, I won’t be happy. I cannot be happy without you'” (page 42). “If you were not actively engaged in making yourself miserable, you would be happy” (page 43).

Dù nghe có vẻ như nghịch lý, Tony nói, “Nơi nào không có tình yêu, nơi đó không có sự khao khát” (page 42). Không khao khát theo kiểu “chấp”, không khao khát để chiếm hữu và dính cứng vào một ai hay một điều gì để thỏa mãn cho nhu cầu của ta, không mong muốn để thống trị hay điều khiển bất kì ai để thỏa mãn cho chính ta. “Chấp” nghĩa là “tôi phải có bạn. Nó có nghĩa là “Không có bạn, tôi sẽ không hạnh phúc. Nếu tôi không nắm được bạn, tôi sẽ không hạnh phúc. Tôi không thể hạnh phúc nếu không có bạn” (trang 42). “Nếu bạn không tích cực làm những việc khiến bạn khốn khổ, bạn sẽ hạnh phúc” (trang 43).

In conclusion, Tony de Mello’s new book is challenging food for thought.

Nói tóm lại, cuốn sách mới của Tony de Mello là một thức ăn thách thức tư tưởng.

5 thoughts on “Đường tâm linh của Anthony de Mello cho Thời Phiền muộn của Chúng ta”

  1. Em rất chia sẻ với suy nghĩ của anh Hoành về cách Âu Mỹ dùng lý luận và từ ngữ quá nhiều trong tiếp cận vấn đề tâm linh biến thành thứ giống như một thứ kiến thức nhồi sọ. Làm mọi thứ cứ rậm mù lên, từ ngữ rất hay và khiến ta mất thời gian cho nó mà không có kết quả về mặt thực nghiệm

    Dần dần em rút ra kinh nghiệm cho mình là tìm đọc và hiểu từ tài liệu gốc vì dụ muốn tìm hiểu về Gandhi thì tìm sách do chính Gandhi viết để đọc chứ không đọc của người khác viết như là “bàn luận về tư tưởng Gandhi” được các vị Âu Mỹ viết lại rất nhiều

    Like

  2. Mình đọc lại bài này một lần nữa, và thương hại trí thức Âu Mỹ và trí thức bị ảnh hưởng bởi giáo dục Âu Mỹ. Hơi một chút là mang từ ngữ ra, lý luận phân tích lung tung, mà chẳng có nghĩa lý gì cả. Và người viết tưởng là mình truyền kiến thức, người đọc tưởng mình nhận kiến thức, trong khi đó chỉ là một mớ rác hỗn độn đổ thêm vào đầu.

    Chấp và vô chấp là thực hành, bằng thiền định và tĩnh lặng. và đạt được vô chấp và tĩnh lặng là hạnh phúc. Và đây là kinh nghiệm, không phải là chỉ nói lảm nhảm.

    Không thể luận bàn lảm nhảm mà không thiền định lâu năm để có tĩnh lặng, và thực sự biết chấp hay vô chấp là gì, và hạnh phúc là gì.

    PS: Bài này là bài mình chọn cho Trung dịch. Nhưng lúc chọn mình chỉ đọc khúc đầu, mà không đọc kỹ đoạn cuối. Bây giờ đọc kỹ mới surprised.

    Cũng là bài học tốt cho mình. Mình tưởng Farrell là bạn của De Mello thì sẽ hiểu nhau được. Nhưng Farrell không hiểu De Mello đến nơi đến chốn và lại cũng thích khoe chữ và lý luận, cho nên làm người đọc lạc khỏi De Mello và rối rắm hoàn toàn.

    Xin lỗi Trung và các bạn mình đã chọn bài này.

    Like

  3. Hạnh phúc chân thật là sự bình an vững chãi trong tâm hồn.

    Vậy nên người nào có bản lĩnh đứng trước khen chê, thành bại, được mất … mà vẫn ung dung tự tại, thì người đó mới đúng là đạt được hạnh phúc chân thật.

    Và ai thiếu “sức mạnh bên trong”, sẽ chính là kẻ có nhiều đau khổ nhất.

    Cảm ơn những lời dạy của các bậc thầy tâm linh!

    Like

  4. Cảm ơn anh Hoành đã giải thích để làm sáng tỏ hơn vấn đề.
    Cảm ơn Thu Hương đã edit để làm bài viết sáng sủa và dễ hiểu hơn rất nhiều.

    Em Trung.

    Like

  5. Cảm ơn Trung đã dịch và Thu Hương giúp edit.

    Bây giờ đọc kỹ lại bài này, anh thấy Thomas Farrell đưa phân tâm học vào, làm rối rắm tư tưởng rất giản dị và dễ hiểu của Anthony De Mello. Đoạn nói về Em Bé Bên Trong rất rối rắm.

    Anthony nói khi chúng ta than khóc vì không được điều mình muốn, đó là chúng ta tự thương hại (self pity). Đó là điều hiển nhiên. Ta than khóc vì ta nghĩ “Tại sao tôi không được người tôi yêu, tại sao anh ta lại bỏ tôi, tại sao anh có thể qua lưng lại với tôi…. ” Tức là tôi đang đau đớn và tôi thương hại tôi. Đó là self pity.

    Self pity hoàn toàn không cần thiết trong các khái niệm chấp và vô chấp của Phật gia. Nhưng Anthony muốn dùng từ đó, vì nói chuyện với các tu sĩ ở Âu Mỹ, và ở Âu Mỹ thì self pity là chuyện không tốt, chuyện tiêu cực.

    Robert Farrell lại đưa thêm một loạt suy luận phân tâm học về Em bé Bên Trong để giải thích self pity, một cách rất rối rắm không cần thiết.

    Nhưng nếu bỏ đoạn Em Bé Bên Trong, thì bài viết nắm được ý của Anthony.

    Like

Leave a comment