Kỳ 1: Bán mạng không văn tự
* Tai nạn lao động luôn là điều khủng khiếp với người lao động, nó để lại những di chứng về sức khỏe từng cá nhân, thảm cảnh cho từng gia đình và gánh nặng cho xã hội. Tuy nhiên tai nạn lao động – vì nhiều nguyên nhân – chưa bao giờ được nhìn nhận nghiêm túc để doanh nghiệp, người lao động phòng ngừa một cách chủ động và nghiêm túc.
Những tai nạn này thường xuyên xảy ra với người lao động tự do, nhất là trong ngành xây dựng.
Mạng người là vô giá
Hớt hải, ông Nguyễn Văn Hiệp – thợ hồ cùng làm với anh Tâm – đưa đồng nghiệp đi cấp cứu. Thêm một lần nữa trong đời, ông Hiệp chứng kiến cảnh tai nạn bất ngờ của bạn bè như chính ông trước kia. Ông Hiệp nay đã 59 tuổi, là dân Sóc Trăng lên TP.HCM làm việc từ lúc mới gần 20 tuổi, gần 40 năm trước. Trước đây, do bất cẩn và làm việc trong môi trường không có bảo hộ lao động, ông Hiệp đã bị máy cắt đá xây dựng xén đứt ngón tay út.
Những tai nạn của những thợ tự do như ông Hiệp hay anh Phạm Thành Tâm đang là một hiện trạng ngày càng gia tăng. Cụ thể, trong sáu tháng đầu năm 2013, trên địa bàn thành phố số tai nạn lao động (TNLĐ) làm chết người tăng 40% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó ngành xây dựng chiếm 53,7% tổng số vụ gây chết người. Một cán bộ Sở LĐ-TB&XH TP.HCM cho biết: “Đây là con số trên giấy tờ, còn thực tế có thể nhiều hơn do các doanh nghiệp giấu”.
Trên thực tế, các lao động trong ngành xây dựng phần lớn đều làm theo thời vụ, không có hợp đồng, bảo hiểm, bảo hộ hay bất kỳ giấy tờ nào làm chứng việc họ đang làm việc cho chủ doanh nghiệp. Cũng không ai ý thức mình hoặc bất kỳ ai cũng có thể bị TNLĐ và trên hết do nhu cầu cần có việc làm nên họ cũng chẳng dám đòi hỏi gì. Những rủi ro khi làm việc đều được nghĩ rằng “trời kêu ai nấy dạ”.
Theo thống kê của khoa cấp cứu Bệnh viện Chợ Rẫy TP.HCM, mỗi ngày trung bình 3-4 ca cấp cứu do TNLĐ. Hồ sơ bệnh viện ghi lại những ca nghiêm trọng: ngày 12-7, bệnh nhân B.T.L. bị máy tiện cuốn vào tóc lột da đầu; ngày 29-6, bệnh nhân V.X.T. ở Tân Uyên, Bình Dương bị té giàn giáo, chấn thương sọ não, đa chấn thương ngực, vài giờ sau nhập viện đã tử vong… Trước đó vào ngày 24-4, ba công nhân của Công ty cổ phần thuộc da Hào Dương (huyện nhà Bè, TP.HCM) đã chết trong hồ xử lý nước thải của công ty. Dù phía công ty đã hỗ trợ sau tai nạn cho ba nạn nhân nhưng ai cũng hiểu mạng sống là vô giá.
Kiện cũng như không
Rất nhiều vụ TNLĐ mà sau đó nạn nhân không được bồi thường hoặc hưởng chế độ, chính sách. Và điều đau lòng là phần lớn đều như thế.
Ở Bệnh viện 175 (Gò Vấp, TP.HCM) có tiếp nhận một ca TNLĐ. Sau đó gia đình người bị nạn đi kiện và vụ kiện cáo đúng nghĩa “đi kiện củ khoai”. Bị hại là gia đình một công nhân xây dựng ở Phú Yên.
Theo tường trình của gia đình Phạm Hoàng Gia – thợ hồ bị té từ giàn giáo xuống đất – Gia vốn là công nhân xây dựng của Công ty xây dựng DMC (đường Hồ Văn Huê, quận Phú Nhuận, TP.HCM). Gia đình Phạm Hoàng Gia gồm ba người: cha, mẹ và Gia đều làm tại Công ty DMC. Khi Gia đang thi công tại một công trình thuộc Viện Tim (quận 10, TP.HCM) cùng cha mẹ thì một nhân viên Công ty DMC điều sang làm công trình khác ở quận 12.
Oái oăm là sau đó Gia bị tai nạn té giàn giáo gãy cột sống phải cấp cứu tại Bệnh viện 175. Ông Xưởng cho biết sau khi tai nạn xảy ra, chỉ có chủ nhà – nơi con trai ông thi công – hỗ trợ gia đình 40 triệu đồng chi phí ban đầu (trong khi tính từ lúc nhập viện đến nay, gia đình ông đã chi hơn 80 triệu tiền viện phí, thuốc men). Còn phía công ty nói “không liên quan vì anh không bị tai nạn trong lúc thi công công trình của công ty”. Ông Xưởng đã nhiều lần đến công ty khiếu nại nhưng bị từ chối.
Bây giờ ông Xưởng ngày ngày vừa đi làm thợ hồ ở một công trình tại quận 2 kiếm tiền trang trải cho gia đình, vừa nuôi con nằm viện, vừa vất vưởng đến Công ty DMC kiện cáo. Nhưng trong tay ông Xưởng chẳng có gì ngoài tờ tường trình có hai người công nhân cùng làm tại Công ty DMC làm chứng vì thương cảm cho ông. Vậy là “tay không đi kiện”, ông Xưởng không biết trông chờ vào đâu ngoài hi vọng vào sự nghĩ lại của phía công ty.
TNLĐ tăng, cao nhất trong ngành xây dựng
Theo báo cáo của Hội đồng bảo hộ lao động TP.HCM, năm 2012 trên địa bàn thành phố xảy ra hơn 1.500 vụ tai nạn lao động, làm chết 106 người. So với năm 2011, số người chết do tai nạn lao động tăng 13 người, trong đó số vụ tai nạn lao động riêng ngành xây dựng chiếm 47,83%.
>
LÊ VÂN
Coi trọng lợi nhuận, xem nhẹ mạng người
Sáu tháng đầu năm 2013, tại TP.HCM có 420 vụ TNLĐ làm chết 56 người, bị thương 392 người. Theo báo cáo thống kê của Hội đồng Bảo trợ lao động TP.HCM, các yếu tố gây TNLĐ được sắp xếp như sau: tai nạn điện có 34/92 số vụ; tai nạn do ngã từ trên cao chiếm 30/92 số vụ; còn lại do vật đè, vật văng bắn, vùi lấp, máy cuốn, máy ép, ngạt khí độc…
Bên tiền, bên máu
Theo chân đoàn thanh tra Sở LĐ-TB&XH kết hợp với Sở Xây dựng TP, chúng tôi đã chứng kiến một thực tế nhức nhối tại các công trình xây dựng hiện nay. Theo quy định hiện hành, chủ đầu tư được quyền tự tổ chức bộ phận giám sát công trình và làm báo cáo nghiệm thu hằng ngày. Tuy nhiên, thực tế chỉ là làm cho có, phần lớn báo cáo đó chỉ là hình thức và giả dối.
Tại một công trình xây dựng chung cư trên đường Mã Lò, quận Bình Tân (TP.HCM), đoàn thanh tra đã xác định một số lỗi nhìn là thấy ngay trên các công trình như: công nhân không đủ đồ bảo hộ lao động, không có giày ủng chống trơn trượt, thiếu dây cứu sinh khi làm việc trên giàn giáo, không cảnh báo nguy hiểm tại khu vực có cần cẩu…
Báo cáo nghiệm thu công trình xây dựng của chủ đầu tư này tuy được lập thành một tập hồ sơ dày theo thời gian thi công nhưng hầu hết các bản nghiệm thu chỉ có chữ ký của người giám sát (cũng là chủ đầu tư), còn nội dung giám sát an toàn công trình xây dựng lại bỏ trống (!).
Một điểm chung ở nhiều công trình xây dựng là vấn đề an toàn lao động cho công nhân khi làm việc trên giàn giáo vẫn chưa được chú trọng.
Trong đó, biện pháp tính toán giàn giáo trước khi thi công hầu như được tiến hành theo cảm tính. Đơn cử như đơn vị thi công tại khu vực Mã Lò, chủ đầu tư mô tả ông ướm chừng theo những môđun biện pháp tính toán giàn giáo có sẵn, không tính toán lại theo thực tế thi công tại công trình. Công trình này cao 28 tầng nhưng dây cứu sinh cho công nhân thi công trên giàn giáo không có quả là đáng ngại.
Trong khi đó, đa số vụ tai nạn chết người trong ngành xây dựng phần lớn theo khảo sát đều do tai nạn giàn giáo. Một số công ty mua bán thiết bị xây dựng tại TP.HCM cho biết: “Thường theo dự toán thi công, phần thiết bị xây dựng chiếm khoảng 10% dự toán công trình. Trong đó giàn giáo phải được mua mới hoàn toàn và tính toán theo kết cấu xây dựng cụ thể. Tuy nhiên vì lợi nhuận, rất nhiều chủ đầu tư, chủ thầu đã mua – thuê lại giàn giáo cũ để sử dụng. Trong khi đó, theo thời gian các giàn giáo tận dụng mua lại phần nhiều bị mục… Chủ thầu vì lợi nhuận đã bất chấp tất cả. Tai nạn từ đó mà ra!”.
Mạng người quá rẻ!
Theo thống kê của Hội đồng Bảo trợ lao động TP.HCM, năm 2012 có 98 doanh nghiệp trên địa bàn TP xảy ra tai nạn chết người đã hoàn tất điều tra. Trong đó hầu hết đều bị xử phạt hành chính mức tối thiểu 5 triệu đồng/vụ, tối đa 22,5 triệu đồng/vụ.
Một số vụ nổi cộm như vụ vùi lấp làm chết ba người tại công trình thi công ống nước thuộc Công ty TNHH MTV VLXD và Xây lắp thương mại BMC với kết luận ba lỗi, xử phạt hành chính 22,5 triệu đồng; vụ ngã từ trên cao làm hai người chết tại công trình xây dựng thuộc Công ty liên doanh Fuji Alpha xử phạt hành chính 22,5 triệu đồng… Những con số xử phạt hành chính lạnh lùng và nhẹ nhàng để cảnh cáo hay cảnh báo doanh nghiệp như vậy trong báo cáo thưật đáng băn khoăn về tính răn đe của luật pháp đối với vấn đề an toàn lao động hiện nay.
Thực tế cho thấy luật về xử phạt hiện nay trong an toàn vệ sinh lao động còn chưa bắt kịp thực tiễn. Chẳng hạn, vấn đề giám sát, báo cáo an toàn vệ sinh lao động được giao cho chính doanh nghiệp thực hiện. Chẳng ai lại đi báo cáo mình làm dở. Nếu doanh nghiệp không báo cáo hoặc “quên” báo cáo thì chỉ xử phạt ở mức… nhắc nhở hay cảnh cáo. Coi như huề!
Không phải người lao động không nhìn thấy hiểm họa trong lao động, nhưng “đói đầu gối phải bò”, họ buộc lòng phải chấp nhận đánh đổi sinh mạng hoặc chí ít là mạo hiểm với tính mạng để kiếm cái ăn cái mặc, nuôi con ăn học. Không phải doanh nghiệp không nhìn thấy nguy hiểm cho nhân công của mình, nhưng ở đây lợi ích được đặt cao hơn sinh mạng con người. Cả cơ quan quản lý cũng thế, đôi khi ra quân rầm rộ thanh tra kiểm tra nhưng cũng làm qua loa chiếu lệ, ít ai có thực tâm và thực có trách nhiệm.
LÊ VÂN
Chẳng ai dám đòi hỏi chủ về an toàn lao động
Hầu hết các vụ TNLĐ làm chết người đều có phần lỗi của cả chủ doanh nghiệp và người lao động. Trong hầu hết vụ tai nạn, chủ doanh nghiệp đã coi nhẹ vấn đề an toàn lao động như các quy định về kỹ thuật an toàn, không có bộ phận kiểm tra, giám sát an toàn. Còn người lao động, vấn đề họ quan tâm là tiền công và ít ai dám thương lượng với chủ về hợp đồng lao động, bảo hiểm tai nạn hay bảo hộ lao động.
Trong số 54 vụ tai nạn lao động làm chết người sáu tháng đầu năm 2013 có 17 vụ do không có biện pháp làm việc an toàn.
Chẳng lẽ “trời kêu ai nấy dạ”?
Tất cả chỉ vì một tai nạn lao động của người cha, người chồng…
Ngày định mệnh
| “Ngày anh ấy nhập viện, dù bác sĩ đã khuyên nên để ảnh đi sớm thì đỡ khổ cho ảnh sớm, tui cũng không chịu. Còn nước còn tát. Nhưng bây giờ tôi không nghĩ gì nữa. Tới đâu hay tới đó…”
Chị NGUYỄN THỊ KHUYÊN |
Chúng tôi đến thăm chị Nguyễn Thị Khuyên ở Bệnh viện Điều dưỡng – phục hồi chức năng (Q.8, TP.HCM). Quê chị Khuyên ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.
Chị Khuyên mới 40 tuổi, là vợ anh Lê Văn Mạnh – bệnh nhân bị hôn mê sâu do nhiễm khí độc tại một công ty sản xuất giấy. Mỗi lần nhắc lại tai nạn của chồng, với chị Khuyên là một nỗi đau trở thành tiếng nấc nghẹn trong lời kể.
Tháng 7-2012, tai nạn đau lòng đã biến người chồng vốn khỏe mạnh đang gánh vác cả gia đình thành một người giờ chỉ nằm chờ chết.
Chị Khuyên kể: “Hai vợ chồng làm cùng công ty giấy tại Bình Dương. Ảnh làm ở khâu chế biến pha màu, tui làm ở khâu kiểm hàng. Lương hai vợ chồng được 12 triệu đồng/tháng, cuộc sống cũng ổn vì vợ chồng có hai đứa con đang tuổi đi học. Nhưng vào ngày 14-7-2012, lúc tui đang giao ca thì nhận được tin dữ: chồng tui và bốn người nữa bị nhiễm độc khí trong hầm chứa bột giấy. Hai người chết, hai người tuy đi lại được nhưng đã mất trí nhớ hoàn toàn. Còn anh Mạnh thì nằm đây, không biết gì nữa…”.
Không có đồ bảo hộ khi làm việc ở đây, chị Khuyên nói trong nước mắt: “Hồi nào tới giờ người ta sao mình vậy. Cứ quần cộc, đầu trần vào hầm làm thôi. Người ta nói với tui là đợt ấy công ty nghỉ mấy ngày, hầm bị đóng kín nên có khí độc. Mấy ổng không biết lao vào thế là dính”.
Sau tai nạn, công ty cũng hỗ trợ viện phí, chi phí phục hồi chức năng tại bệnh viện cho chồng chị. Nhưng nỗi đau của chị Khuyên không chỉ bởi người chồng nằm bất động trên giường bệnh, liên tục thở dốc trong ống ôxy mỗi khi khí tràn qua phổi. Chị còn đau đáu về hai đứa con đang bơ vơ ở nhà trọ tại Bình Dương – nơi trước kia hai vợ chồng chị làm việc. Cả hai đứa giờ đã nghỉ học, đứa lớn đi làm nuôi em vì cha mẹ phải ở viện hơn một năm nay.
Buông xuôi
Một năm chăm chồng nằm một chỗ, tiền bạc tiêu tán vì chị Khuyên cũng không đi làm được. Có người nói sao không đi đòi công ty bồi thường này nọ, chị bảo: “Họ lo cho viện phí rồi, giờ ảnh vậy, đòi hỏi chi nữa. Phải chi lúc trước mình đòi người ta trang bị đồ bảo hộ, phải chi mình cẩn thận thì đâu nên nỗi. Giờ nước mắt hết rồi, đợi ảnh “đi” khi nào đỡ cho ảnh khỏi đau đớn khi đó”.
Người phụ nữ gầy gò giấu những giọt nước mắt cô đơn trong căn phòng chỉ có tiếng thở khò khè của người chồng đang nằm bất động. Số phận của chị, của chồng, của hai đứa con cũng như bao gia đình lâm vào cảnh bất hạnh vì tai nạn lao động, mà lẽ ra họ phải được chứ không phải “trời kêu ai nấy dạ”!
Chủ doanh nghiệp vì chủ quan, vì lợi nhuận mà coi thường trang bị an toàn lao động; người lao động vì miếng cơm manh áo mà bất chấp hiểm nguy, cứ phải làm để có cái ăn. Vụ “kiện củ khoai” của gia đình ông thợ hồ Phạm Xưởng vẫn rơi vào vô vọng. Chưa biết kiện được gì, trước mắt là với hậu quả gãy cột sống, cậu con trai mới 19 tuổi của ông Xưởng sẽ không thể lao động nặng, chưa kể di chứng sau này đến sức khỏe của một thanh niên mới lớn.
Như con cá bỏ giỏ cua, người lao động tự do càng vẫy vùng càng trầy da tróc vẩy. Nhưng không lẽ bỏ dở cuộc mưu sinh? Gia đình ông Xưởng vẫn phải đi kiếm việc thợ hồ ở một công trình khác để có tiền trang trải. Chị Khuyên sau khi về quê vẫn còn gánh nặng hai đứa con nhỏ và ba má chồng già cả. Trên những công trình đang xây mới phục vụ cho cơ sở hạ tầng văn minh vẫn còn đó những bóng áo xanh chông chênh trên giàn giáo, trong hầm mỏ đối diện với bao nguy cơ. Trách nhiệm khi xảy ra sự cố không thể chỉ đổ lên đôi vai đang gồng gánh gia đình của người lao động.
Giải pháp mờ nhạt
Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Quốc Việt, phó chánh thanh tra Sở LĐ-TB&XH TP.HCM, về giải pháp bảo đảm môi trường lao động an toàn cho người lao động.
* Thưa ông, các vụ tai nạn lao động làm chết người tăng hằng năm, theo ông đâu là nguyên nhân?
– Có nhiều lý do, trong đó có thể kể đến những kẽ hở của luật để bảo vệ người lao động khi chưa bắt kịp thực tiễn. Bên cạnh đó là ý thức của doanh nghiệp trong giám sát, thực hiện Luật an toàn vệ sinh lao động, ý thức của chính người lao động khi không đòi hỏi những quyền chính đáng cho mình.
Một vấn đề nan giải khác là lao động thời vụ, lao động tự do. Họ chủ yếu xuất thân từ nông dân, khi mùa vụ qua thì lên thành phố tìm việc. Vì vậy không được đào tạo bài bản, không được bảo hộ về quyền lao động, trang bị an toàn khi lao động. Trong công tác thanh tra, kiểm tra cũng có chỗ khó, ví như địa bàn thành phố với hàng ngàn doanh nghiệp, đội công tác thanh tra an toàn lao động của sở hiện nay chỉ có 10 người làm không xuể.
* Nhưng phải có giải pháp chứ, thưa ông, chẳng lẽ bó tay thừa nhận thực trạng tệ hại này?
– Từ tháng 8 đến tháng 11-2013, sở cử người xuống tận doanh nghiệp để hướng dẫn công tác an toàn vệ sinh lao động. Song song đó là tăng cường kiểm tra, giám sát an toàn lao động trên nhiều mảng, xử phạt nghiêm để răn đe. Sắp tới, sở sẽ công khai toàn bộ tên, địa chỉ của doanh nghiệp vi phạm lên báo chí, thông báo đến địa phương khi xử lý. Đây là việc gắn với thương hiệu của doanh nghiệp nên họ sẽ phải có ý thức hơn khi bảo đảm an toàn cho người lao động.
LÊ VÂN