Chào các bạn,
Dưới đây là bài viết của Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, thứ trưởng Bộ Công An, trong số ra mắt Tạp Chí Nhân Quyền của Việt Nam.
Trong bài này tướng Hưởng đưa ra các nhận xét về khác biệt giữa nhân quyền phương tây và nhân quyền Việt Nam. Tất cả các điềm tướng Hưởng nêu ra đều đáng quan tâm khi ta đứng dưới một góc cạnh hay kinh nghiệm đặc thù Việt Nam, và có thể được bổ túc thêm từ những góc cạnh hoàn vũ, hay kinh nghiệm tại những vùng đã đi qua giai đoạn phát triển của Việt Nam và đã phát triển hơn trên thế giới.
Nhân quyền là các khái niệm phổ quát và hoàn vũ, cho toàn thế giới. Tuy nhiên, khi áp dụng vào các quốc gia thì mỗi quốc gia có những hoàn cảnh và nhu cầu riêng, làm cho sự áp dụng khác nhau và không đồng điệu. Đối thoại nhân quyền giữa các quốc gia là nhằm gia tăng hiểu biết về các khác biệt bắt buộc này.
Chúng ta nên khởi sự bằng cách chú tâm vào các điểm đồng thuận rồi từ đó tiến tới, thay vì chú tâm vào các điểm bất đồng. Thế giới không tiến tới được nếu con người không tập trung vào các điểm đồng thuận và cứ chú tâm vào bất đồng.
Sau đây là một số điểm mà chúng ta có thể đồng ý với nhau về nhân quyền:
1. Nhân quyền, quyền làm người, là các khái niệm hoàn vũ, dù rằng khi áp dụng thì có khác nhau về hình thức, do nhu cầu địa phương.
2. Nhân quyền là một tiến trình phát triển. Mọi quốc gia đều luôn cố gắng gia tăng nhân quyền cho mọi người dân, và không ai muốn nhân quyền trong lãnh thổ mình dậm chân tại chỗ.
3. Nhân quyền không phải chỉ là một lý tưởng triết lý mà là một yếu tố của quản lý hiệu quả. Ví du: “Mọi người bình đẳng” là một yếu tố quản lý hiệu quả. Công ty tổ chức quản lý thế nào để mọi công nhân đều cảm thấy bình đẳng thì hiệu năng kinh tế của công ty tăng cao. Quốc gia tổ chức thế nào mà mọi công dân đều cảm thấy bình đẳng, thì hiệu năng kinh tế xã hội của quốc gia tăng cao.
Vì thế các phân tích về nhân quyền nên được đặt trên nền tảng quản lý cụ thể—Làm thế nào để gia tăng nhân quyền để quản lý quốc gia một cách hiệu quả.
4. Các cách tổ chức quản lý quốc gia hiện nay, cũng như tình trạnh nhân quyền hiện nay, không bao giờ nên bị đông cứng, mà cần luôn luôn “đổi mới” để quản lý tăng hiệu năng và nhân quyền thêm phát triển từng ngày.
5. Trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hóa, các quốc gia cần “nói một ngôn ngữ”, quốc gia nào càng nói được ngôn ngữ của số đông tốt, quốc gia đó càng phát triển nhanh. Tức là, nếu ta chưa nói được ngôn ngữ của đa số các quốc gia đang nói, ta cần từ từ học nói, kể cả ngôn ngữ nhân quyền.
Trên các căn bản này, chúng ta có thể vẽ sơ đồ tiến trình phát triển nhân quyền gồm hai bước chính:
a. Tình trạng hiện tại của nhân quyền nước ta. Tạm thời có thể dùng bài của Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng làm điểm xuất phát.
b. Chúng ta đang hướng về đâu trong tương lai? Đây là điều định “con đường” mà hình như chúng ta chưa có.
Hiện nay, chúng ta có một vấn đề lớn chưa được ổn thỏa. Điều này ảnh hưởng lớn đến hiệu năng quản lý. Cho nên ta cần phải suy nghĩ về một chiến lược giải quyết.
“Mọi người sinh ra đều bình đẳng”—đây là căn bản của Tuyên Ngôn Độc Lập Việt Nam (do chính cụ Hồ viết) và là một nhân quyền lớn nhất. Đó là căn bản của các cuộc kháng chiến dành độc lập của nhân dân ta.
Nhưng vì Đảng CSVN nắm độc quyền và toàn quyền lãnh đạo nên tự nhiên là có bất bình đẳng giữa đảng viên và đại đa số quần chúng không đảng viên.
Bất bình đẳng này nguyên thủy là do nhu cầu kháng chiến mà ra. Nhưng ngày nay, trong quản lý thời bình nó nẩy sinh tình trạng kiêu binh nhũng lạm tại nhiều địa phương, tạo ra nhiều bất công cho nhân dân khắp nơi trong nước. Ngày nào đọc báo cũng thấy. Điều này rất dễ hiểu, vì tình trạng vừa đá bóng vừa thổi còi thì nhất định phải vậy. (Trong chiến tranh, có “cạnh tranh” từ kẻ thù, không khá là chết, cho nên ta chơi bóng, nhưng ta không thể tự thổi còi. Trong thời bình lại là một chuyện khác).
Vấn đề nhân quyền và quản lý là: Con đường nào vạch ra để chúng ta từ từ thoát khỏi tình trạnh bất bình đẳng và nhũng lạm sinh ra từ tình trạng vừa đá bóng vừa thổi còi?
Chúng ta còn nhiều vấn đề khúc mắc căn bản khác trong quản lý và nhân quyền. Nhưng điểm chính là làm thế nào, cơ thế tổ chức thế nào, để người dân thực sự hành xử như là chủ của đất nước. Lúc đó thì đất nước mới tiến bộ được. Bất kỳ tổ chức thương mại nào cũng chỉ phát triển tốt nếu các người chủ hành xử như người chủ, và quản lý hành xử như quản lý.
Chúng ta mong rằng người Việt chúng ta thông minh đủ để cùng dồn trí óc lại cho việc tiến hóa của nước nhà và mọi công dân, bình đẳng.
Chúc các bạn một ngày vui,
Mến,
Hoành
Hãy hiểu đúng về Nhân quyền Việt Nam
Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng
Thứ trưởng Bộ Công An
Sau khi khối XHCN Đông Âu sụp đổ, chiến tranh lại kết thúc, vấn đề nhân quyền và dân chủ đã được một số nhân vật trong chính giới Hoa Kỳ và một số nước phương Tây sử dụng như một phương tiện hữu hiệu làm chuyển hóa thể chế chính trị ở một số quốc gia, trong đó có Việt Nam. Và hiện nay, nhân quyền đã trở thành vấn đề quốc tế. Các nước phương Tây đưa vấn đề nhân quyền vào trọng tâm chính sách đối ngoại của họ.
Bản chất của vấn đề nhân quyền mà họ đưa ra là gì?

Nếu xét về thể chế chính trị đó là một xã hội có nền chính trị đa nguyên, đa đảng. Và họ luôn luôn đề cao tự do cá nhân, nhân quyền là quyền không có biên giới, không bị phụ thuộc bởi chính trị, địa lý hay chủ quyền quốc gia…
Họ áp đặt những “tiêu chí” về nhân quyền cho các quốc gia mà họ đang muốn chuyển hóa, thay đổi các thể chế chính trị. Họ muốn tạo ra ở các quốc gia này một lực lượng “dân chủ” và sẽ trở thành lực lượng phản kháng, chống đối lại chính quyền hợp hiến. Nếu quốc gia nào không chịu nghe theo thì họ đưa vào danh sách các quốc gia “cần quan tâm đặc biệt”; rồi gây khó dễ cho hoạt động kinh tế, thậm chí cấm vận từng phần…
Chính vì vậy, những lý thuyết về nhân quyền, dân chủ theo kiểu phương Tây đã vấp phải sự phản ứng mạnh mẽ của những quốc gia không đồng quan điểm, trong đó có Việt Nam.
Các quốc gia này không thể chấp nhận một thứ “dân chủ, nhân quyền” mà nếu đi theo đó, thì đồng nghĩa với tự đánh mất mình, làm thay đổi cả một nền văn hóa của một (hoặc nhiều) dân tộc, và dẫn đến đảo lộn trật tự xã hội, trật tự trong mỗi gia đình.
Đối với Việt Nam, từ nhiều năm qua, Hoa Kỳ và một số nước phương Tây luôn đặt vấn đề nhân quyền như một điều kiện để “mặc cả”. Họ luôn phê phán chúng ta “không có tự do tôn giáo”; “không có tự do báo chí”; “không có tự do lập hội”… Mỗi khi có công dân Việt Nam vi phạm pháp luật và bị xử lý theo pháp luật, nếu là phóng viên báo chí thì họ cho là “đàn áp báo chí”. Nếu là người theo đạo, người tu hành, thì họ bảo là chúng ta “đàn áp tôn giáo”. Còn với những người cố tình xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước, có những hành động, âm mưu xâm hại đến an ninh quốc gia bị xử lý… thì họ gọi đó là những người “bất đồng chính kiến”, “những nhà dân chủ”…?
Vậy, thực chất vấn đề nhân quyền ở Việt Nam là như thế nào? Nhân quyền ở Việt Nam khác với nhân quyền phương Tây ở điểm gì? Và phải hiểu nhân quyền ở Việt Nam như thế nào cho đúng?
Nói về nhân quyền ở Việt Nam, có lẽ không gì rõ ràng, đầy đủ và ngắn gọn hơn lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi trả lời các nhà báo nước ngoài vào tháng 1 năn 1946 : “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành…” Và lời khẳng định của Bác “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” .
Trước Cách mạng Tháng 8, dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thì Việt Nam là nước thuộc đia nghèo khổ, bị cướp đi quyền độc lập và không có tên trên bản đồ thế giới.
Nhân dân ta phải chịu cái nhục mất nước suốt gần một thế kỷ và trong thời gian đó, khái niệm nhân quyền không hề có với người Việt Nam. Nỗi khát khao độc lập, tự do, có được quyền làm Người khiến cả dân tộc vùng lên đấu tranh, lật đổ ách đô hộ của thực dân Pháp để có được Bản Tuyên ngôn độc lập mà Hồ Chủ tịch đọc khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945. Suốt hơn 30 năm sau đó, dân tộc ta một lần nữa đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Hàng triệu người Việt Nam đã hi sinh để giành lại độc lập, tự do, thống nhất đất nước.
Tư tưởng về nhân quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành quan điểm lãnh đạo xuyên suốt của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng về quyền con người.
Đến nay Việt Nam được đánh giá là quốc gia có sự ổn định chính trị nhất, đang hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế thế giới. Từ một nước “chạy ăn từng bữa”, nay chúng ta đã trở thành cường quốc xuất khẩu gạo. Và bất cứ ai cũng có thể thấy được sự thay đổi tích cực trong đời sống vật chất và văn hóa tinh thần.

Từ khi Đảng ta bắt đầu công cuộc Đổi mới xây dựng kinh tế đất nước, và cho đến nay chúng ta đã hội nhập rộng rãi vào thế giới thì các tiêu chuẩn về quyền con người càng được củng cố rộng rãi, đời sống của người dân được nâng cao. Tất cả mọi công dân đều có quyền đóng góp ý kiến với tính chất xây dựng, nghiêm túc, có trách nhiệm vào tất cả các chủ trương, chính sách hoặc các vấn đề quan trọng của quốc gia. Người dân đã tự giác, hăng hái tham gia các tổ chức chính trị, xã hội và nghề nghiệp để hội tụ những tấm lòng nhân ái và đóng góp rất to lớn vào việc thực thi các chính sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc xóa đói giảm nghèo. Hiếm có một quốc gia nào mà mỗi khi xảy ra thiên tai bão lụt, người dân hăng hái đóng góp trên tinh thần lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều… như ở Việt Nam. Những thành công của Nhà nước ta trong những năm qua về xóa đói giảm nghèo được cộng đồng thế giới coi là một tấm gương mẫu mực cho các quốc gia noi theo. Đói nghèo bởi dân tộc Việt Nam từng là nạn nhân của chế độ phong kiến, thực dân đế quốc. Nhất là các dân tộc thiểu số miền núi hàng ngàn đời sống phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện tự nhiên và chế độ phong kiến thực dân đã đẩy họ đến bần cùng quay về hoang dã. Vậy mà hiện nay những tư tưởng đen tối vẫn tìm mọi cách tuyên truyền lôi kéo họ trở về đời sống đói nghèo vô định, cản trở công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh đầy khó khăn gian khổ… Mặc dầu vậy, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam đã tập trung sức lực của cải, tiền bạc bằng những chế độ chính sách cụ thể lo cơm ăn, áo mặc, nhà ở, trường học, bệnh viện, đầu tư trang bị cho mọi nhu cầu đời sống văn minh ti vi, rađiô, sách báo… tạo điều kiện cho bà con hòa nhập với cuộc sống cộng đồng quốc gia và quốc tế. Có lẽ trên thế giới chưa có chính phủ nào làm được việc này. Cách mạng là thế đấy.
Cách mạng là làm cho cuộc sống người dân ngày một tốt hơn. Nếu như hơn 30 năm trước đây, đại bộ phận người dânViệt Nam chỉ nghĩ đến có cái ăn để mà sống và ước mơ “ăn no mặc lành” thì bây giờ khái niệm “ăn ngon mặc đẹp” đã trở thành phổ biến ở Việt Nam.
Không ít những người trước đây đã từng tham gia trong chính quyền Sài Gòn cũ nay trở về Việt Nam đã phải thốt lên rằng họ không thể tưởng tượng nổi là Việt Nam lại phát
triển đến như vậy.
Người dân đã bắt đầu quen với luật pháp, quen với nếp sống kỷ cương. Và ngày hôm nay người dân Việt Nam đang bắt đầu đi vào kỷ nguyên sống và làm việc theo luật pháp. Người dân được tự do sống theo các quy định của pháp luật và họ ý thức được rằng chỉ có những nguyên tắc của pháp luật mới bảo vệ được các giá trị đạo đức, quyền con người khi bị chà đạp. Lợi ích và quyền cá nhân của mỗi người phải được đặt trong quyền lợi chung của cộng đồng, của dân tộc chính vì thế người dân có thể tham gia tích cực vào các vấn đề xã hội và các tổ chức chính trị đoàn thể. Việt Nam hiện nay có hơn 700 đầu báo và tạp chí; 25 triệu người được sử dụng Internet và rất nhiều người trong số đó đã sử dụng Internet để đóng góp ý kiến vào các vấn đề xã hội. Đó chính là tự do, chính là nhân quyền.
Người dân Việt Nam chấp nhận sự lãnh đạo của một Đảng cầm quyền, bởi lẽ họ thấy rõ hơn ai hết về những gì mà Đảng Cộng sản đã đem lại cho người dân trong suốt bao nhiêu năm qua. Nhìn sang các quốc gia bên cạnh, nếu đa đảng để mà đất nước mất ổn định, lâm vào những cuộc chiến “nồi da xáo thịt”; để mà nạn khủng bố xảy ra thường xuyên thì chắc chắn người Việt Nam không thể chọn cái sự đa đảng ấy. Người dân Việt Nam chắc chắn cũng không thể chấp nhận một sự tự do mà công dân có quyền mang vũ khí rồi xả súng bắn chết học sinh, hoặc tự do chửi bới, bôi nhọ lẫn nhau; phủ nhận các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống…
Họ không thể mang quan điểm nhân quyền của nước họ áp đặt thành tiêu chuẩn cho Việt Nam. Mỗi quốc gia có bản sắc văn hóa riêng, có luật pháp riêng vì thế không thể lấy hình mẫu ‘nhân quyền’ của nước này đem sang nước khác được.
Cũng vẫn còn có những tiếng nói, còn những người không thấy được thành tựu của dân tộc. Họ sao chép những quan điểm, những tư tưởng của nước ngoài đưa vào Việt Nam và rồi nói đó là “phản biện” . Họ không chỉ bày tỏ những quan điểm mà còn mưu đồ tổ chức gây bạo loạn, hoặc móc nối với các tổ chức phản động lưu vong âm mưu lật đổ chế độ. Đó là những người rắp tâm vì mục đích cá nhân của mình mà coi rẻ lợi ích chung của cả dân tộc.
Khi đời sống vật chất được nâng cao thì những đòi hỏi về đời sống tinh thần cũng phát triển theo, đặc biệt là tâm linh. Trong những năm qua, hàng ngàn chùa chiền, cơ sở thờ tự đã được xây cất mới hoặc được trùng tu; các lễ hội văn hóa truyền thống đã được khôi phục ở tất cả các địa phương… Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người dân ngày càng được phát triển và coi trọng. Người dân đã hoàn toàn tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
Tôn giáo chân chính thiêng liêng là khuyến khích con người sống nhân ái, biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Chúng ta rất tôn trọng và tạo điều kiện cho tôn giáo phái triển nhưng cũng kiên quyết không để xảy ra những âm mưu lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị, để phá hoại mối đoàn kết toàn dân. Cho nên ai chưa hiểu về nhân quyền ở
Việt Nam thì phải biết nhân quyền ở Việt Nam là: Cá nhân vừa phải có trách nhiệm với bản thân nhưng cũng phải có trách nhiệm với cộng đồng xã hội, phải gắn quyền con người với việc thực thi luật pháp thì quyền con người mới được đảm bảo.
Đảng và Nhà nước ta phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam công bằng, dân chủ, văn minh và mọi người dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành… Chúng ta phấn đấu cho những mục tiêu nhân quyền, dân chủ mà đã được xác định, nhưng cũng không thể chấp nhận cái thứ “nhân quyền, dân chủ” theo kiểu phương Tây.
Mỗi công dân hãy biết quý trọng giá trị, bản sắc của dân tộc mình và hãy nhìn ra nước ngoài để thấy rõ hơn những thành tựu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong lĩnh vực Nhân quyền.
Nhân quyền ở Việt Nam là như vậy!
——–
Tạp chí Nhân quyền Việt Nam
Văn phòng Nhân quyền
Phát hành tháng một kỳ
Số 1, 6/2010