Tag Archives: Văn

Tôi vô hình hay con người vô tình? Một câu chuyện giữa góc kẹt của thời gian. Thế thôi!

Chào các bạn,

Bài văn dưới đây của Hạnh Nguyên thì chắc là không đi thi được, vì người đọc chẳng hiểu hết được nó, hoặc chẳng hiểu tí nào. Chính mình cũng chẳng hiểu được nhiều, chỉ suy đoán thôi.

Tuy nhiên mình thấy đoản văn toàn ẩn ngữ này có sức thu hút rất mạnh của một bức tranh siêu thực, mà người xem có thể thấy được cảm xúc mãnh liêt, kéo mình vào bức tranh, mặc dù không thế nói chính xác là bức tranh vẽ gì.

Mình post bài này lên như là một thí nghiệm, nhờ các bạn cho phản ứng trung thực thế nào. Thành thât nhé. Nếu đa số các bạn cho điểm âm thì cả hai chú cháu mình cùng sai. Nếu đa số các bạn cho điểm 10 thì hai chú cháu sẽ có dịp đi ăn kem.

Các bạn đọc và phản hồi nhé.

Cám on mọi người trước.

Hoành

.

“Tôi vô hình hay con người vô tình? Một câu chuyện giữa góc kẹt của thời gian. Thế thôi!”

Nó lao ra khỏi nhà với đôi mắt ướt sũng, chỉ kịp nghe thấy tiếng kêu đói thảm thương của lũ mèo con. “Xin lỗi… tau hok thể” – Đôi mắt nó chỉ kịp ánh lên điều cuối cùng trước khi rơi vào khoảng không gian như đang o bế trước mặt. Vô hồn.
abstract art 1
Bầu trời chùng xuống, những sắc cam rực rỡ cũng không làm vực dậy nổi đôi bờ mi nhắm nghiền của nó.. Nó chờ cho đến lúc đôi mắt xám kiệt sức, gục xuống, cắm mình vào màu đỏ ngập ngụa bóng hoàng hôn. Những chiếc lá lảo đảo, rơi xiên xiên như bị kiệt sức… rồi cắm xuống đất thở phào. Kết thúc một đời xanh. Đôi vai nó run lên bần bật giữa những cơn gió xoắn chiếu nhau, lạnh cóng. Gió lạnh hay lòng người nguội lạnh. Bất thần rồi chợt tan chảy theo cái nhìn xa xăm. Nó lặng lẽ cúi mình thấp xuống, thấp đến nổi nó muốn hoá thành những bông cầu gai, lăn mãi, lăn mãi xuống chân đê, tấp vào dòng nước lạnh giá hoặc may mắn hơn, nương nhờ đất mẹ… rồi con của chúng cũng lại lăn tiếp… lăn về với nước. Như loại ếch… không sao thoát nổi kiếp sống hai mang.

Ba- người nó luôn kính trọng, thần tượng, sẽ phải chấn dứt trong chiếc vòng số tám. Số tám xoay đều… đối xứng. Số tám ám ảnh trong những cơn mộng mị… Ngay cả trong những cơn mơ, bình yên cũng không về bên nó. Những giấc mơ mang tên Ba: Nó sợ hãi và ngồi đó, miệng muốn hét lên nhưng không được, tê dại. Trơ đôi mắt ngơ ngác của một con mèo con nhìn chiếc xe đen vút đi… vút đi… mang theo ba nó, mang theo cả hy vọng của nó.

Một trận gió vụt qua, rát bỏng như một cái tát. Cả rừng lá dưới chân nó lao xao, lồng lộn, tách khỏi mặt đất, búng mình suốt mặt hồ tạo thành những khoanh tròn cứ lan rộng… rộng mãi.

Mỗi chiếc lá là một mảnh vỡ, trải trên đất thành từng mảng, từng mảnh thứ màu đỏ cay nhức nhối và ràn rụa trong buổi chiều thu.

*      *      *

*

Lá rơi.

Thời gian trôi.

Con chim sẻ trú đông rách tiếng hót

“Tôi đã ở đây bao lâu rồi?”
“Rất lâu! À không, đủ lâu…”

Phải, tôi đã ở đây đủ lâu để chứng kiến một câu chuyện. Một câu chuyện trong hốc kẹt của không gian và thời gian.

Câu chuyện về những cây bút chì được gọt tỉa kĩ càng trong đêm khuya, rồi lại được xếp kĩ càng vào những ngăn kéo như che đậy một điều gì đó. Đôi mắt bất thần nhìn vào bức tường nhắng nhịt những vết cào xước trước mặt, tim nó nhói lên những cảm xúc kì quặc quen thuộc. Sao lại là quen thuộc? Bởi đêm nào cũng thế, vẫn là những cảm xúc đó… dào dạt và bất tận. Căn phòng vốn trống trải đột nhiên trở lên chật chội. Nỗi buồn ở khắp mọi nơi, thấm vào trong hơi thở và vào cả những thứ vô hình đang hiện hữu nơi đây, như tôi. Bàn tay nó chảy ra thứ màu quen thuộc, bàn tay siết mạnh vào lưỡi dao như đang bóp nghẹt tất cả. Đau buốt, nó giật mình ném con dao ra khỏi con tay nhầy nhụa máu. Nó lại lao vào phòng tắm, cố gắng rửa sạch đi cái màu tanh bẩn trước khi mẹ thấy. Nó vớt nước lên mặt cho đến khi không còn nhận ra đâu là nước mắt. Nó nhợt nhạt soi mình vào gương. Nó cười điên dại nén nước mắt, máu vẫn chưa chưa chịu ngưng, đỏ úa. Nó nhếch nhát từng bước về phía tủ, cố lôi lên những gói bông trắng muốt và băng bó, nó làm công việc này một cách vô thức. Quá quen!

“Một người đàn ông cũ kĩ dắt một con chó trắng đến đây, đến khoảng không gian này, khoảng không gian giữa những cây lá đỏ của một công viên. Một ông già với râu tóc bạc phơ, bạc theo màu da nhăn nhúm, một con người cổ kính mang theo một con chó đến vùng trống ngập ngụa sắc đỏ của lá và hoàng hôn rồi cột nó vào một gốc cây nào đó.

Lão đến.

Lão cột.

Cuối cùng, lão đi, bỏ lại sau lưng con chó và một vùng màu đỏ thẫm.”

erosion
Một giấc mơ kì lạ. Nó lẩm nhẩm điều gì đó nghe không rõ và lại mơ. Tôi ở đấy, trong giấc mơ. Nó bừng tỉnh. Nó đưa đôi mắt nhìn tôi hãi hùng nhưng cũng đầy mê hoặc. Nó chạm nhẹ, xuyên những ngón tay. Thảng thốt, nó nhìn tôi định thần hơn. Nó cười:

–         Tôi lại mơ thấy bạn?

–         Tớ là ma. Bạn có sợ ma không?

–         Chỉ có ma sợ người thôi. – Vô thức nó trả lời

“Chỉ có ma sợ người” – tôi thấy thích câu này… Đúng!  Tôi sợ… những con người vô hình… trong cuộc sống thực. Tôi sợ nó.

–         Và bạn ở đây theo dõi tôi. – Nó nói như thấy có ai nhún hộ vai mình.

–         Không… bạn theo dõi tớ.

–         Tôi không hiểu. Tại sao tôi lại theo dõi bạn, tôi không biết bạn? Tại sao tôi lại mơ thấy bạn, tại sao bạn lại cho tôi thấy con chó trắng. Bạn vô tình quá chăng? – Ánh mắt nó đột nhiên quắt lên màu giận giữ.

–         Tớ không vô tình… tớ chỉ vô hình thôi. Cậu không vô hình… nhưng cậu vô tình. Tớ là một phần tìm kiếm của cậu. Chúng ta theo dõi lẫn nhau. Vì chúng ta tìm kiếm nhau. Con chó là ai? lão là ai? Là giấc mơ. Tại sao bị cột? vì lão muốn nó tự thoát ra và xoay chuyển cuộc sống phụ thuộc. Lão đại diện cho ai? Cho số phận. Con chó là ai? Tớ nghĩ cậu biết.

Nó nhìn sững sờ vào tôi, những lời nói trong suốt tan vào thinh không nhưng lại vang vọng vào lòng nó. Con chó là nó. Và nó đang vô tình trong cuộc sống. Tôi lại vô hình! Thế là đủ. Ngóp nghét trong những giấc mộng thực và ảo của nó thế là đủ. Tôi cần phải đi. Những con người vô tình sắp tan biến.

Bản Promise vang lên trong căn phòng. Lời hứa với ba được thực hiện. Những ngón tay lướt nhẹ trên cây dương cầm phát ra thứ âm thanh trong suốt, vút lên, xé toạt những sầu bi, những oán hận trong căn nhà. Những lời nói giả dối mang đầy hương tiền bạc bị cuốn phăng ra khỏi óc, để lại hình ảnh ba nó ôm con hiền lành yên bình. Mẹ sững sỡ nhìn nó từ khung cửa sổ, giọt nước mắt khô khốc lăn trên khuôn mặt gầy mòn. Tóc nó xoã nhẹ tung bay trong bình minh

Một chiếc lá khẽ đu mình vọt vào khoảng không bất tận. Tiếng hót bị rách của con chim sâu vút lên. Trong trẻo lạ kì.

Phan Nguyên

Đi trắng về đen

Đôi khi dạo chơi phơ phất đâu đó nơi quen thuộc ta lại chợt nhặt được đôi điều mới lạ mà xưa kia vô ý chẳng nhận ra.
Đây là câu chuyện tôi nhặt lại trong vườn cổ học:
dogchasingman
Một hôm trời nắng Dương Bố đi chơi. Khi ở nhà mặc áo trắng, nửa đường gặp mưa ước hết. Người quen cho mượn cái áo thâm.
Bố về nhà, con chó nhà vừa cắn vừa đuổi. Bố giận toan cầm gậy đánh. Anh là Dương Chu chạy ra bảo:
“ Đừng đánh nó làm gì! Nó đuổi như thế cũng phải. Giả sử con chó trắng nhà ta đột nhiên đổi màu lông thành đen thì em có lấy làm lạ không?”

Không biết lỗi tại phía nào?
Nghĩ cái sự con người ta lạ ngay cái chỗ nết người, thường thì nhạy lắm cái sự người ta xoay ra chiều khác, mà cái sự mình đổi khác thì cứ tỉnh như nhiên! Thế là cố chấp và ích kỉ lắm. Giá như lúc nào cũng sẵn một người anh bên mình như Bố để cảnh tỉnh mình.

Lại nữa, cái màu mè sơn phết bên ngoài còn có cơ nhận ra mà tránh, còn cái đen từ ruột đen ra, mình còn không biết, nói chi anh em!

Mà phàm phu tục tử thì chẳng chấp làm gì. Đôi lúc hiền nhân quân tử mà cũng cứ bị cái sự được không cao thấp của đời nó hoặc cho đến mê mới hại. Anh cả của đọt chuối non có lúc chê Nguyễn Công Trứ bị hoặc bởi chữ danh ngẫm mà có lí!

Mà có riêng gì tướng công Uy Viễn, tội nghiệp Nguyễn Tiên Điền chọn cho mình tên tự Tố Như hẳn giàu hàm ý, vậy mà cũng có lúc cứ đau đắm đuối trong một nỗi niềm hư ảo:

Dao ức gia hương thiên lí ngoại
Trạch xa đoạn mã quí đông lân

Tạm dịch:

Quê nhà xa hút mù khơi
Đời xe ngựa, thẹn với người thuở xưa!

Ý hẳn cũng mong cái sự khác mình nhiều lắm!
Xin lượng thứ!
heartcarvedintotree
Cũng xin lượng thứ khi kể một chuyện không vui, một nhà thơ từ một “kiếp phôi pha” cho đến khi rời cái bậc tam công của mình vẫn còn oán “chúng nó tiếc gì cái chức cố vấn mà không cho miền giữ”( theo phóng sự của Phùng Quán).

Ô hay, hành trình làm người khó giữ thiên lương cho lành vững!

Ngẫm mà thương Vương Xương Linh, đỗ tiến sĩ, đi làm quan xa, chỉ lo ngai ngái cái lòng mình trên hoạn lộ, chỉ sợ cố nhân ngày về chẳng còn nhận mặt nhau mà chí tình nhắn gửi:

Lạc Dương thân hữu như tương vấn
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.

Tạm dịch:

Bạn xưa dù hỏi, rằng ta
Lòng trong vẫn giữ như là thuở nao!

Lại nhớ cụ Nguyễn Khuyến dù thương Dương Khuê đến thế mà khi khóc Vân Đình tiến sĩ lại lẫn trong tiếng tình thống thiết một lời trách khôn nguôi:

“Bác già tôi cũng già rồi
Biết thôi, thôi thế thời thôi mới là.”

Khi nói những lời này, lòng cứ ngùi ngùi nhớ dăm thằng bạn, lại thon thót giật mình không biết cái tôi giờ đã ra sao?
Một chút phản tỉnh giữa ngày đời bận rộn, không biết có đại ngôn tật hô không thế?
Mà e khi to tiếng lớn giọng thì đã khác ngay từ cái giọng của mình, chao ôi!
Mà Dương Bố chỉ có một Dương Chu, tôi thì còn có cả anh em mình, ta hãy nhắc nhau sống từng ngày đời cho thật!

NGUYỄN TẤN ÁI.

Chuyện của những đêm tối trời

Ở quê, thuở chưa xa, những đêm không trăng mênh mông là đêm tối, sự sống lu bu quần tụ quanh những ngọn đèn dầu. Và lũ trẻ có được cái thú háo hức nghe những chuyện li kì rùng rợn.

Chuyện ma le
ghost1
Chú Bốn góa vợ, không phải chú không có vợ, mà vợ chú chết rồi. Mà cái việc chú có vợ cũng là chuyện “hên”. Một cô gái không biết từ đâu đến làng mót khoai, thấy nhà chú một mẹ một con, xin ở nhờ, rồi thành vợ chú.
Ai cũng khen cô tốt nết, tốt người, lại khéo vá may. Từ ngày có cô dâu, cái cơm tấm áo nhà mẹ con chú Bốn tươm tất hẳn. Chỉ khổ ba năm rồi mà chưa có mụn con, mà chú Bốn ngày một xanh xao. Thương chồng, vợ chú dành cơm cho chú, không ăn hột nào.
Có tiếng dè bỉu: “Chỉ làm bộ, không ăn sao người hồng hào béo tốt mặn mắt thế, khéo ở nhà ăn vụng.”
Mẹ chú Bốn sinh nghi, một bận giả bộ đi làm đồng, nửa buổi quay về rình sau hè.
Cô dâu vẫn chăm chỉ vá áo. Bỗng một cơn gió thổi tung rẻo vá.
Rồi cái lưỡi cô dâu cứ thế le ra dài thườn từ chổ ngồi đến mảnh vải có chừng vài sải.Cô nhặt mảnh vải bằng lưỡi!
Mụ gia chết điếng người.
Mụ cầu phù thủy. Phù thủy mách: Ma le dễ trị, nó không ăn cơm, chỉ hút tinh khí người, ban đêm thường đi ăn thêm phân gia súc. Rồi cho một lá bùa.
Đến đêm, mụ gia qua giường con dâu, thấy chỉ còn cái xác rỗng, phần đầu và ruột đâu mất!!! Mụ đem lá bùa dán nơi cổ, rồi lật úp xác lại. Xong về giường nằm.
Nửa khuya mụ nghe có tiếng gào khóc trên mái hiên, con dâu đòi mở cửa cho nó vào nhà. Mụ sợ ngồi tho lo một xó,Chú Bốn vẫn ngủ mê mệt.
Gần sáng, con ma bay đi đâu mất. Chỗ cái xác chỉ còn dúm giẻ rách.
Chú Bốn về sau khỏe mạnh như thường, chỉ cái không có vợ nữa, ai hỏi chú cười hề hề bảo: Ngủ với ma đã đời ông địa rồi, không nghiện người nữa!
.

Chuyện ma bù cào
ghost
Các bạn có biết cái cào năm răng dùng để cào cỏ không? Ở quê gọi là cái bù cào.
Tiếng đồn ở dốc Bà Giáo có con ma răng dài mặt đỏ, ai cũng sợ, gọi là ma bù cào.
Vì sợ nên lúc chạng vạng thì trên dốc tuyệt không có bóng người. Ai có chuyển bụng cũng chờ đến sáng hôm sau.
Một vị khách có việc ngang đường, không dám lên dốc, đành ghé nhà bên đường xin nghỉ qua đêm. Một lát, lại có người xin ở lại, cùng một lí do. Hai ông khách bàn nhau: Mình có hai người, trời chưa tối lắm, cũng có thể cùng nhau vượt dốc. Mặc chủ nhà ngăn cản, hai ông khách lên đường.
Càng đi, đường càng vắng, gió càng lạnh. Một người đã bắt đầu sợ, nói với người kia:
Sợ quá, hay hồi nãy ở lại, nghe nói chỗ ni kinh lắm.
Người kia bảo: Đừng lo, có tôi đây, anh xem con ma kia có đáng sợ như tôi không?
He!!!Trên mặt là hai cục lửa đỏ lòm lòm, hai cái nanh dài như hai cái tay vượn!
Sáng hôm sau người đi đường thấy một cái xác còng queo, tái nhợt không còn hột máu.
Dốc Bà Giáo từ ngày san đồi lấp hố, đường nhựa phẳng lì, chẳng biết con ma bù cào đi đâu không rõ.
Chỉ biết mấy chú ngồi xác cầu cơ thỉnh thoảng la hét cào cấu, mặt xanh dờn,máu chó chổi rể phải đập tới tấp mới xả nổi. Ấy là ma bù cào nhập xác.

Hề, chuyện hoang đường kiểu này ở quê còn nhiều lắm, không kể sợ thất thoát. Nếu bạn đọc có hứng thú thì xin cho biết, sẽ còn nhiều chuyện như rắn hiển linh, phù thủy bị quỉ vật… Tha hồ.
Xin cam đoan rằng chỉ kể vui, không thật đến trăm phần trăm đâu.

NGUYỄN TẤN ÁI.

Đêm Dài

ĐÊM DÀI

    Kính tặng Tú Xương

Nam Định.

Tú Xương. Tranh của họa sĩ Trần Quang Trân vẽ sau khi ông Tú mất khoảng 20 năm
Tú Xương. Tranh của họa sĩ Trần Quang Trân vẽ sau khi ông Tú mất khoảng 20 năm

Cuối thế kỉ 19 không còn yên tĩnh nữa, cái tin mừng ông hoàng giáp làng Vị Hạ tỉnh Hà Nam vừa vinh qui không đắp đổi dồn dập nghững nỗi kinh hoàng: Hà thành thất thủ, danh tướng Nguyễn Tri Phương rồi liên tiếp thủ khoa Huân , hoàng giáp Phạm Văn Nghị tuẫn tiết; hòa ước Hác- măng ô nhục, Tự Đức băng hà.

Sĩ tử rụt rè gà phải cáo.

Trên đường đê, dấu cũ của con sông Vị Hoàng phố cổ thành Nam, một thư sinh bước đi thiểu nảo.

Căn nhà ba gian tường gạch trát đất vữa đứng sùm sụp sau một hàng trúc lơ thơ.

Đến ngoài bờ trúc, nho sĩ dừng lại, thở dài. Trong nhà mấy đứa con nít túa ra, vừa chạy vừa reo:

Thầy đã về.

Trái với vẻ hớn hở của lũ trẻ, nho sĩ chậm rãi sờ đầu từng đứa: Thằng Bái, thằng Bột, thằng Bành, con Thục.

Gói quà là mấy nắm xôi lạc mua vội từ góc phố, chút vớt vát của một mùa thi Hương thất bát.

Bà Tú vẫn chưa về. Ông Tú ngồi bắt bằng trên bộ ngựa đợi vợ, rít một khói thuốc lào.

Đợi vợ trong nỗi buồn mà xót bà Tú tất bật chợ đời.

Một quãng đồng mênh mông quạnh vắng, vùng Nam Định trắng xóa là nước ngày đông, chang chang là nắng ngày hạ. Bà cứ như một chấm trắng nhỏ giữa trời chiều. Chao! Cái cánh cò lẻ loi đó lặn lội chắc đã nửa đời, rồi chắc cũng lặn lội kì hết nửa phần còn lại. Phố Nam Định từ Tây sang tấp nập trên bến dưới thuyền. Những con tàu viễn dương khổng lồ nuốt từng tấn than đen no bụng, ầm ì nhả khói, lừng lững ra khơi. Những con thuyền thủ công nhọc lòng đi khơi đi lộng dạt về bến mới. Bến cá trong cái nhỏ bé nhọc nhằn của mình cũng không kém phần chao chát eo sèo.Một người phụ nữ chừng dưới ba mươi, mặt lành da trắng, thị vuốt ngược một giọt mồ hôi, tức tửi lách mình bưng bê giữa đám người nhốn nháo. Chao ôi! Ai dám nghĩ đó là bà Mẫn, vợ của đấng tú tài nổi tiếng tài hoa. Chao ôi! Nhớ cái ngày bà về làm dâu mới rình rang nở mặt:

Căn nhà 280 Hàng Nâu (Minh Khai) nơi Tú Xương từng cư ngụ
Căn nhà 280 Hàng Nâu (Minh Khai) nơi Tú Xương từng cư ngụ

Ông tu tát nhà cao cửa rộng toan để cho dâu
Chồng lăm le bia đá bảng vàng cho vang mặt vợ.

Năm ấy là năm Ất Dậu ( 1885).

Những tưởng rồi Tú Xương đỗ đạt, võng tía lọng vàng, danh thơm bốn bể, bà cũng thơm lây:

Võng anh đi trước võng nàng
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò.

Nào ngờ… con gái dòng dõi thi thư nổi tiếng làng Lương Đường tỉnh Hải Dương nay lại hàng tôm hàng cá thế này, chao ôi! Eo sèo mặt nước buổi đò đông!

Ngồi nghĩ mình lận đận, tám khoa nhẵn mặt chỉ vớt vát nổi cái tú tài, nghĩ mà xót đồng tiền mồ hôi nước mắt của bà vợ lắm!

Và kì này mùa thi năm Đinh Dậu( 1897), sĩ tử buồn hiu. Một vì văn tinh từ trời cao vừa rơi rụng, vì văn khúc ứng vào Tuy Lí Vương Miên Trinh.* Cái văn nghiệp nước nhà đến kì hỏng bét.

Kì thi phú. Tú Xương đắt chí cái thơ mà hụt hẫng cái trường:

Nào có ra gì cái chữ nho
Ông nghè ông cống cũng nằm co
Chi bằng đi học làm thông phán
Tối rượu sâm banh sáng sữa bò
.

Kì văn sách, quan trường một phường bợ đít Đu – me lại học đòi nói câu cửa khổng: “ Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”.
TruongNamĐinh
Tú Vị Xuyên chấm bút, huơ liền một mạch, nét bút lông cứ xoắn lên nền giấy hoa tiên, phần phật như gió lại ran rát như lửa:

Dân ta hỏng rồi

Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng

Xã tắc ta hỏng rồi

Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai

Vua ta hỏng rồi, quí sĩ tử cứ ngóng lời ông nghè làng Yên Đỗ mà rõ việc

Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề

Tú nộp quyển, chệnh choạng ra khỏi trường thi, lần ruột tượng ghé bà hàng nước, đồng tiền kẽm rơi đánh keng trên nền gạch, mấy đồng xu đã hoen gỉ xanh với mùi muối cá bà Mẫn gom góp từ những phiên chợ chiều.

Chợt mi mắt vị tú tài cay cay.

Tiễn chân cô mất dăm đồng lẻ
Sờ bụng thầy không một chữ gì!

Hỏng kì này là chẵn năm.

Tú Xương ngồi chong đèn thu mình trên gác ván, nghĩ lại câu chuyện Đặng Tử Mẫn thì thào khi chiều: Phan Bội Châu đã ra Bắc, lên Phồn Xương, chắc là để gặp Đề Thám.

Tú ngẫm lại đôi lần trò chuyện cũng Phan danh sĩ. Miệng rồng mắt sư tử, con người chọc trời khuấy nước ấy ngang nhiên mang cái án “hoài hiệp văn tự” ngao du bốn bể, kết giao cùng nhân sĩ hào kiệt Bắc Nam. Cũng là kẻ sĩ mà thẹn mình chưa được cái khí cốt Bội Châu. Ngẫm một đời văn nhược tài hoa, một đời phong nguyệt tình hoài, một đời nổi tiếng được cái chơi ngông phá bĩnh, cũng hoài phí một kiếp đầu thai nhầm thế kỉ. Tú thở dài, chấm bút nắn nót những dòng thơ cuối đời:

Chập tối trông ra ngỡ sáng lòa
Đêm sao đêm mãi thế ru mà
Kìa kìa ai kẻ tìm ta đó
Đốt đuốc mà soi kẻo lộn nhà.


NGUYỄN TẤN ÁI

* Tuy Lí Vương Miên Trinh mất ngày 18 tháng 11 năm1897.

Bùa Yêu

Chim xa còn nhớ lối về
Bậu ra là dứt ước thề được sao
Nợ trầu cau trả chiêm bao
Người gieo tiếng dữ, người đau giọng tình
Ví dù, bến nước sân đình
Trăm năm… bậu hết thương mình, mình thương!
(Vĩnh An)

I. Mụ Hoàng

Bên nhà tôi, về hướng tây, có nhà mụ Hoàng. Mẹ cấm tôi qua chơi,không biết tự bao giờ, từ hồi tôi mười ba, mười bốn chưa? Từ hồi thằng chim thằng cò tôi đã nhu nhú nên trai chưa?
Mụ Hoàng góa chồng, không phải chồng chết, mà còn sờ sờ bên trời Tây. Lão là sĩ quan cảnh sát, vượt biển đông từ hồi chiến tranh còn ì ầm ở cửa Xuân Lộc, mụ thành gái góa.
Gái một con trông mòn con mắt, vắng chủ nhà gà vọc riêu tôm, mụ Hoàng thành cái gai trong mắt đám đàn bà con gái. Nổi gió nổi bão tự bận mụ thuốc một gã trai tơ.
thomoc

Thanh thợ mộc, khéo tay, mau miệng, mắt dài mi dài như gái, quảy thùng dùi đục đến đâu y như là Thanh làm nên một tình sử đến đó. Vậy mà sau khi chạm trổ xong bốn chân giường nhà mụ Hoàng ,Thanh chẳng đi đâu nữa. Nghe nói chiếc giường để bên hướng đông, có cửa sổ hóng gió, Thanh nằm nghỉ một giấc trưa, mơ màng thế nào mà tỉnh dậy chân tay còn bủn rủn, người cứ rỗng như ống thù đủ, mất cả chí tang bồng. Nghe nói Thanh ngủ mê, mụ Hoàng lấy một sợi tóc cột ngang ngực Thanh, lại dấm thêm chút nước miếng nơi lỗ rốn. Rồi Thanh lú lẩn.
Thanh hai mươi hai, mụ gần ba mươi, vậy mà thành nhân ngãi, đúng là mụ có bùa yêu!

II. Chuyện Hạnh

Tránh trời sao khỏi nắng mưa, mụ Hoàng không thuốc tôi, mà Hạnh con mụ lại thân tôi lăm lắm.
Bận ấy con bò nhà bé Hạnh lạc mất ở núi cấm. Bọn trẻ cùng bầy chẳng đứa nào động chân đi tìm.Mấy đứa trẻ quá rành, mặt trời gần lặn là giờ bùa yêu rất thiêng, dại gì mà đụng vào mẹ con mụ phù thủy. Hạnh bưng mặt khóc.
trau
Tôi đánh trâu đi sau cùng, ngoái lại, động lòng. Se sẽ tách bầy, tôi quay lại. Chẳng tìm ra bò, bé Hạnh sợ bị mẹ phù thủy đánh, lại bưng mặt khóc. Tôi đành phải dỗ, rồi đưa Hạnh về. Hú hồn, hóa ra con bò no cỏ bỏ về chuồng.
Mụ Hoàng ra, vẫy tôi vào, tôi thụt lùi rồi co giò chạy biến.
Không biết bùa phép có di truyền không mà tự đó tôi đâm nhớ Hạnh, nhớ hoài đôi bờ vai tròn lẳng rung bần bật mỗi khi Hạnh khóc, nhớ hoài đôi mắt to tròn lúc nào cũng ngơ ngơ ngác ngác. Hạnh tình như cũng đã. Một bận tôi đau, không dong trâu lên đồi được, vừa sâm sẩm tối đã thấy Hạnh thập thò ngoài bờ dậu, vẫy tôi ra, trao cho chùm dủ dẻ vàng ươm chín mọng.

Tôi hỏi:
-Mẹ Hạnh có bùa yêu phải không?

Hạnh gật.
– Nó như thế nào?
– Không biết. Nghe nói nó dẹt dẹt như cái lá, trong như mắt mèo. Mẹ không cho Hạnh biết.
Tôi không tin rằng Hạnh không biết, nên mỗi bận ngồi bên Hạnh, mắt cứ nhìn trô trố, cố tìm xem nơi nào trên người Hạnh dẹt dẹt như cái lá, trong như mắt mèo không.
Thấy tôi quanh quẩn hoài với mấy cái bùa yêu, Hạnh mách:
-Nghe mẹ với chú Thanh hay nói chuyện gì mà miếu cô Châu. Hay mẹ dấu bùa yêu sau núi, chổ miếu cô Châu ấy.
Chuyện cô Châu là một bi tình. Đẹp gái, hát hay, múa giỏi. Trai làng mê lắm. Ác nghiệt, cô lại mê anh thợ may đã có vợ. Bị bắt ghen, cô Châu ốm ba tháng, buồn đến da xanh cổ cao. Cô thắt cổ chết trên đồi chổ miếu hoang, thề bắt tất cả những đàn ông đã có vợ làm chồng.
mieu
Một buổi trưa trên đồi tôi đưa Hạnh lại chổ miếu cô Châu. Ngôi miếu hoang tàn không nhang khói lại càng nhuốm màu thê lương. Lom khom tìm hoài, đủ thứ đá lắm hình thù màu sắc mà không có cái nào trong trong dẹt dẹt cho ra vẻ bùa yêu. Mệt quá, ngồi nghỉ. Hạnh tựa vào tôi thiếp đi tự lúc nào không rõ.Nhìn Hạnh bầu má hồng hồng, mi mắt dài lim dim, nỡ nào mà khách sáo. Tôi tìm được bùa yêu trong túi áo của Hạnh.

III. Đoạn kết

Huyền thoại hồi ấu thơ tôi giữ mãi, mà huyền thoại thì không thật bao giờ.
Tôi nhảy xổm từ đồng cỏ vào văn chương trà rượu rồi sa đà mê mãi. Lá bùa yêu rơi rồi đâu đó ở kí ức xa xăm. Một hôm nghe tin Hạnh có chồng, đâu đã dăm năm.
Ngày Hạnh chết, tôi không về viếng đưa được. Thằng Hùng, đứa si Hạnh một đời đến giờ vẫn chưa lấy nổi vợ, kể với tôi:
-Mày đi học, nghe nói léng phéng với mấy đứa thị thành phải không? Hạnh đòi mụ Hoàng bí quyết bùa yêu, mụ giận tát cho mấy cái. Hạnh ức bỏ đi Nam làm thợ nhuộm, bắt chồng dắt về nhà. Hạnh mang thai, cứ lang thang quanh quẩn bên miếu cô Châu, ai cũng cho là điềm gỡ. Rồi sinh khó, mẹ mất, con mất.
Có người bảo “ đời cha ăn mặn đời con khác nước”, mụ Hoàng bắt nhiều gã trẻ, con mụ trả nợ thay cho mụ.
Có người bảo: Hạnh có bầu mà không cử, cứ quanh quẩn hoài chổ hoang quạnh, bị cô Châu vọc.
Lại có người bảo cái nghề thợ nhuộm độc hại, cái khó bó cái đời, tội nghiệp!
Hùng bảo tôi:
– Sao mày đớn thế? Hạnh chết mà không về đưa linh nó, tao biết nó chết uất vì mày.
Rồi lại bảo:
– Thôi cũng được. Giá mày lớn xớn đi đưa khóc đểu, dễ chừng tao thịt mày quá.
Tôi biết Hùng nói thật.

Rock
Hạnh ơi! Cô Châu ơi! Mụ Hoàng ơi! Bùa yêu là mấy tội, mà hồng nhan lại mấy người. Thề có đất trời, tôi chưa tìm được bùa yêu.
Nếu có thì tôi cũng thuốc tôi luôn, để tôi biết si tình, yêu Hạnh một đời mà không so đo hơn thiệt.
Tôi chỉ nghe bùa yêu là tội lỗi.
Mà chừ mới thấm thía không mang được chút ngải yêu trong tim người mới lại càng tội lỗi.
Tôi đi rửa mặt, để có một quyết định sạch sẽ, mai tôi sẽ về thăm miếu cô Châu. Rồi về nhà mẹ Hoàng, viếng Hạnh.

Nguyễn Tấn Ái.