Tag Archives: Chứng Nhân

Đà Lạt Trong Tôi Và Những Điều Đã Mất

1.

Có lần tôi và mấy người bạn đã tìm về quán cafe Tùng. Chúng tôi ngồi vào bộ bàn ghế nhỏ xíu dưới chân cầu thang cuối căn phòng. Nơi có cái rào chắn nho nhỏ, làm bằng gỗ thông sơn trắng, ngăn lối lên tầng hai của ngôi nhà. Nơi ngày xưa Trịnh Công Sơn và Khánh Ly, trong thời gian ở Đà Lạt, vẫn ngồi uống cafe với nhau sau mỗi đêm đi hát về.

Chúng tôi đã ngồi vào bộ bàn ghế đó trong tâm trạng thật hoài nhớ. Lẽ ra trong không gian đó, ánh sáng đó, những hoài niệm đó, chúng tôi phải nói với nhau về những điều thật đẹp. Về những bài hát đã từng ám ảnh chúng tôi, về một thứ âm nhạc gần gũi mà chúng tôi vẫn nghe, như thể vẫn hít thở mỗi ngày. Lẽ ra chúng tôi phải nói về họ, về Khánh Ly, về Trịnh Công Sơn, về Từ Công Phụng, về Lê Uyên Phương… Lẽ ra chúng tôi phải nói về những điều kỳ diệu họ đã đem đến cho chúng tôi trong cuộc sống.

Quán cafe Tùng những năm đầu của thế kỷ này, giữa một khu phố có quá nhiều thay đổi, vẫn như xưa. Vẫn hai hàng ghế tựa bọc da chạy dài theo vách, những chiếc ghế nhỏ xinh rải rác, bức tranh treo tường, khung cửa kính nhìn ra phố.. Tất cả ấm cúng sang trọng theo một kiểu rất riêng. Ấm cúng và buồn bã khiến con người ngồi trong quán bỗng muốn gần nhau, thấy cần thiết phải có nhau. Vậy mà chúng tôi đã sai lầm, chúng tôi đã cãi vã vì một chuyện chẳng ra sao. Cãi nhau, khích bác nhau, giận dỗi nhau, làm tổn thương nhau chỉ vì vô tâm, ích kỷ chỉ vì không muốn chấp nhận nhau, dù chỉ là chấp nhận về cách nhìn những hoa rêu trên mái cũ nhà Đà Lạt.

Lẽ ra đã có một buổi tối khác, nhưng có cách gì để làm lại ? Có lẽ chẳng bao giờ chúng tôi lại có dịp cùng đi chung. Cùng xuýt xoa vì hơi sương lạnh buốt, cùng leo lên một chiếc xe ngựa, rồi cùng không nói gì, chỉ ngồi im nghe tiếng vó ngựa gõ vào đêm lốc cốc. Tiếng vó ngựa như đệm vào tiếng kể chuyện của người đánh xe. Bằng một giọng khàn mệt, ông kể về những con đường ông và con ngựa đã đi, kể về những ngôi nhà ma, những oan khuất trong cuộc đời của nhiều con người. Câu chuyện của ông huyền hoặc đến nỗi đêm Đà Lạt bỗng thâm u thêm, như thể tất cả sương mù đều tụ họp về đây, trong đêm nay, theo một tiếng gọi bí ẩn nào đó.

Chúng tôi đã mất một buổi tối Đà Lạt đẹp vô cùng chỉ vì hẹp hòi, dại dột, và vô tâm.

2.

Nhưng đó là mất mát của riêng chúng tôi, chúng tôi đã phải trả giá cho sai lầm của mình bằng những dằn vặt, nuối tiếc.

Còn Đà Lạt ?

Có quá nhiều thứ đã mất đi ở đây. Mất đi không chỉ do hẹp hòi, dại dột, và vô tâm. Mất đi do thời cuộc, thời gian, mất đi do những quyết định vội vàng, tư lợi, thiếu hiểu biết của một số người.

Mất đi trong xót xa, đắng chát nhưng hình như không một ai tự thấy mình có lỗi để ân hận, giày vò.

Những mất đi đó đã làm nên bao hệ luỵ đau đớn, nuối tiếc, buồn bã trong rất nhiều người. Những người đã gắn bó với Đà Lạt bằng một tình yêu máu thịt. Những người đã sống, và gửi gắm vào Đà Lạt cả một cuộc đời với bao kỷ niệm, mà thiếu nó người ta không làm sao thoát được cảm giác bị bứt khỏi mặt đất, bị quăng quật trong bão giông với những bất ổn kéo dài không ngưng nghỉ.

Tôi nhớ Đà Lạt những năm 80 của thế kỷ trước, vắng vẻ, nhiều sương mù, nhiều thông và hoa dại. Những đêm cuối năm nằm ở ký túc xá khoa Văn trên đồi thông khu Đa Thiện, chúng tôi nghe tiếng xe ngựa. Không phải những xe ngựa dành cho du khách bây giờ, mà là những chuyến xe rau củ đi về trong sương lạnh.

Con dốc rất cao từ quán cháo lòng La Si Mi Fa của Giáo sư- Tiến sĩ Sử học Nguyễn Hồng Giáp, đến bãi đất trống đối diện ký túc xá khoa Văn quả là một thách thức cho những con ngựa kéo xe luôn già và gầy yếu. Để tiếng lóc cóc mày (một) cắc / tao (một) cắc thêm rã rời mỏi mệt. Tiếng vó ngựa rời rạc và tiếng gió hú u u sau đồi thông khiến đêm như ướt mềm ra, dài mướt. Và chúng tôi khi đó chợt không thể vô lo, không thể không nghĩ đến gánh nặng cuộc đời với những buồn vui được mất.

Thầy Nguyễn Hông Giáp đã rời đại học Sorbonne để về quê hương, có một thời gian ông không được giảng dạy. Ông mở quán cháo bán cho sinh viên. Cháo lòng heo ăn kèm bánh tráng nướng. Và khoai lang Đà Lạt ruột đỏ au dẻo quẹo chấm muối ớt. Những bát cháo ở quán La Si Mi Fa đã trở thành nỗi ám ảnh trong tâm trí tôi, cũng như hình ảnh vị giáo sư đáng kính vẫn đi trên con đường từ ngả năm Phù Đổng Thiên Vương về ký túc. Ông mỉm cười chào, một tay ông xách chiếc xô thiếc, tay kia là cặp que ông dùng để gắp những tảng phân ngựa. Ông đi nhặt phân về bón cho cỏ hoa và cafe trong vườn nhà… Thầy Giáp giờ đã về sống ở Sài Gòn. Hồi đó tôi đã từng nhiều lần muốn hỏi mà không dám, vì biết vậy là quá táo bạo. Rằng có khi nào thầy nuối tiếc ? Vì đã rời Paris, xa người vợ lai Pháp xinh đẹp để về đây, để nấu cháo lòng và nhặt phân ngựa ? Để cười chào và đặt vào tâm trí những sinh viên chúng tôi một nỗi băn khoăn không nguôi về số phận con người ?

Quán cháo mất đi như là một tất nhiên, tôi không biết có bao nhiêu người khi nhớ về Đa Thiện – Đà Lạt lại nhớ đến cái không gian quán chật hẹp như chiếc hầm khoét sâu vào ngọn đồi, với những bộ bàn ghế bằng gỗ thông, và cái tên La Si Mi Fa reo vang những nốt nhạc. Còn tôi vẫn hình dung trọn vẹn nó, cũng như tôi vẫn hình dung rõ rệt cây thánh giá nằm bên trong ngôi sao, trên ngọn tháp tam giác cao vút trong khu Năng Tĩnh trường Đại Học Đà Lạt. Tôi nghe kể hồi đó thầy Giáp là một trong ba người đã leo lên đỉnh tháp cao 38 mét này, để lấy bù lon xiết các cánh ngôi sao ôm chặt cây thánh giá, và cây thánh giá vẫn nằm nguyên vẹn trong ngôi sao đó.

Không chỉ mình tôi hình dung. Tôi còn nhớ một buổi tối, Liêng Hót Ha Suê, người chơi guitar bass trong dàn nhạc của đội văn nghệ trường, đã đứng nguyện cầu giữa sân trường. Anh nhìn lên đỉnh tháp với đôi mắt thành kính, và lời cầu kinh, và bàn tay làm dấu thánh. Giờ khắc đó, anh đã không nhìn thấy ngôi sao, anh đã nhìn vào bên trong để chỉ thấy cây thánh giá. Niềm tin của anh đã làm cho khuôn mặt anh sáng rỡ đẹp đến kỳ lạ.

3.

Người Đà Lạt than rằng sương mù Đà Lạt đang ngày càng ít ỏi. Và đã có lý giải đó là một tất nhiên khi trái đất nóng dần lên, khi con người sinh sôi nẩy nở bung chiếm nhiều thêm ra.

Liệu có hoàn toàn đúng như vậy?

Vả lại không chỉ sương mù, Đà Lạt còn đang mất đi quá nhiều.

Những ngôi nhà gỗ đẹp như bài thơ đang mất dần. Những con đường quanh co uốn lượn theo các sườn đồi đang mất dần. Thông Đà Lạt đang mất dần không sao cầm giữ được. Không gian tĩnh lặng rất riêng của Đà Lạt cũng không còn như xưa. Và đồi Cù, từ lâu người Đà Lạt đã mất đồi Cù ngay trong lòng thành phố của mình.

Tôi nhớ lại cảm giác của mình khi nghe tin đồi Cù – Đà Lạt bị rào giậu vây bọc kín bưng để biến thành sân golf. Lúc đó tôi đã rời Đà Lạt được vài năm. Nhưng cũng như những người đã đến và yêu Đà Lạt, Đà Lạt luôn ám ảnh tôi. Thật lạ lùng cho mảnh đất này, bởi nhớ nhung một vùng đất mà như thể nhớ nhung một người tình, đã cùng đi với mình qua bao hoang tưởng kỳ diệu, thì tôi nghĩ chỉ có Đà Lạt mới làm được.

Khi nghe tin, tôi đau đến sững người, tôi đã có cảm giác của một người đi xa nghe tin căn nhà của mình bị bán, bị đập vỡ, bị cày nát mà mình không có cách gì quay về, để bảo vệ để chia sẻ, gánh vác. Và tiếp đó là cảm giác nuối tiếc, cay đắng tràn ngập tâm hồn tôi.

Cho đến bây giờ, sau mười mấy năm sử dụng, sân golf đồi Cù – Đà Lạt đã thu được lợi nhuận bao nhiêu? Và lợi nhuận đó có đáng không? Có là bao so với những ảnh hưởng của nó đối với môi trường? So với nỗi đau buồn của bao nhiêu con người đã từng gắn bó với đồi Cù bằng một tình yêu máu thịt?

Ngày đó, tôi đã đến Đà Lạt trong khao khát khờ dại của một người ở biển mà mải mê hoài vọng núi, mải mê mơ về những quả đồi, và tiếng reo thầm thĩ của loài thông. Đồi Cù đã là tất cả tưởng tượng của chúng tôi về thảo nguyên, những thảo nguyên vô cùng thanh sạch, phóng khoáng, đẹp đẽ trong sách vở. Nhất là vào buổi chiều khi đi ngược nắng, chúng tôi nhìn về chân trời xa rộng, để choáng ngợp trước đường chân trời vòng cong rực sáng. Những đôi tình nhân đan tay dạo trên đồi dưới mắt nhìn của chúng tôi khi đó đẹp như những thiên thần. Tôi đã mường tượng họ có thể bay lên trời nhờ đôi cánh, và sự nâng bổng của ánh sáng lộng lẫy trên đồi chiều.

Đồi Cù trở thành sân golf. Đã từ lâu người Đà Lạt và những người đã từng đến từng gắn bó với Đà Lạt đã không còn được tự do ra vào đồi Cù. Mà đồi Cù cũng đã khác, ngay cả màu cỏ trên đồi cũng đã khác xưa mất rồi. Những con người ngày xưa đã từng dạo chơi trên đồi, đã từng ngồi tựa vào những gốc thông cô độc trên đồi, đã từng hôn người mình yêu ở đó, làm sao họ còn tìm lại được dấu vết kỷ niệm. Mà không còn dấu vết kỷ niệm con người ta sống hụt hẫng ra sao ?

Tôi nhớ một lần Liêng Hot Ha Suê đưa tôi đến một góc đồi, nhìn về ngôi nhà ngày xưa của anh mà ngồi buồn suốt buổi. Anh đang nhớ người cha làm mục sư của mình và tuổi thơ với những tháng ngày vô tư, thánh thiện. Có lần, sau một tối tập văn nghệ ở trường Đại học, chúng tôi mang nhạc cụ trả về kho. Khi mọi người đã ra ngoài, và đèn điện đã tắt, từ bóng tối chúng tôi nghe tiếng dương cầm vang lên. Liêng Hót Ha Suê đang chơi đàn (cây dương cầm của trường đã hỏng nhiều phím và từ lâu không ai sử dụng). Tiếng đàn thanh thoát mà ám ảnh. Đó là giai điệu của một bài thánh ca. Tôi đã không còn nhớ tên bài hát, nhưng buổi tối đó và tiếng đàn như tiếng đập thổn thức của trái tim anh, vẫn trở về trong tôi, mỗi lúc tôi về lại Đà Lạt, đi trong sương lạnh nghe tiếng gió và tiếng thông reo. Liêng Hót Ha Suê đã mất ngôi nhà tuổi thơ của mình và không nguôi hoài nhớ. Còn bao nhiêu người Đà Lạt khác đã mất những gì yêu thương của họ theo những đổi thay dâu bể trong đời ?

4

Hôm nay, đọc bài Mãi mãi Đà Lạt của nhà văn Nguyễn Đạt tôi chợt quá nao lòng. Thực ra tôi đã biết quá ít về Đà Lạt, về những con người đã từng sống ở đây, đã làm nên những điều kỳ diệu đẹp đẽ cho văn chương, cho hội hoạ, cho âm nhạc… Những con người đã và đang tồn tại lặng lẽ để làm nên lịch sử Đà Lạt. Nhưng tôi đã yêu Đà Lạt bằng trái tim tuổi trẻ trinh nguyên, và thương yêu đó đã không nguôi ngoai dù theo thời gian bao nhiều điều khác đã như nước chảy dưới chân cầu. Thương yêu đó đã khiến tôi không thể không nuối tiếc, xót xa khi đi qua những mất mát của Đà Lạt trong cảm nhận của riêng tôi.

Tiếc nuối xót xa vì đã có quá nhiều những nói một đằng làm một nẻo, đã có quá nhiều những đập vỡ, giấu che. Như bức tượng Đức Mẹ tuyệt đẹp trước hội trường A1, hay cây thánh giá trên đỉnh tháp Sao trường Đại học. Và bao nhiêu điều khác nữa. Và ở nhiều nơi khác nữa. Những đập vỡ, giấu che xuất phát từ những quan niệm độc đoán, ấu trĩ đến đau lòng.

Đâu đó người ta đang nhìn vào festival hoa, đâu đó nhan nhản những lời kêu gọi vì tương lai thành phố. Đôi khi tôi mơ hồ rối rắm trước những lời kêu gọi ồn ào mà rỗng tuếch đó, trước những festival có quá nhiều sắc màu rực rỡ giả tạo đó. Tôi thấy mình như đang đi trong sương mù. Nhưng không phải sương mù thanh sạch mát lạnh của Đà Lạt xưa, mà là một thứ sương mù độc địa, có sức mê hoặc và giấu che bản chất. Tôi thấy mình mất phương hướng, và lại tràn ngập lòng tôi một cảm giác cay đắng, tiếc nuối.

Khi mất một đêm Đà Lạt đẹp vô cùng bên nhau, ít ra chúng tôi cũng biết mình đã đánh mất và không nguôi dằn vặt. Còn Đà Lạt với những cây thông chết, những ngôi biệt thự hoang tàn. Đà Lạt với những con đường, những trảng cỏ biếc xanh, những hiền lành chân chất mất đi, thì chẳng biết nhìn vào ai, nhìn vào đâu để thở than trách móc !

Ai đó đã nói tiếc nuối là một cảm giác vô ích, tôi nghĩ là tôi hiểu được điều đó, nhất là khi sự tiếc nuối đó lại là của những người dân với thân phận bé nhỏ, không chức quyền. Nhưng tôi đã không làm sao thoát được cảm giác đó, tôi cứ phải buồn thương, xót đắng mãi cho những mất còn. Có lẽ tôi phải tự an ủi mình như nhà văn Nguyễn Đạt, là Đà Lạt xưa vẫn còn trong ký ức của bao con người. Những con người tồn tại lặng lẽ khuất lấp đâu đó với một tình yêu chân thành vô vụ lợi dành cho Đà Lạt. Những con người đang sống với những khát vọng tự do và tình yêu dành cho cái đẹp. Đà Lạt đã có một lịch sử và lịch sử Đà Lạt vẫn còn đó. Có thể nhờ vậy mà chúng ta mãi mãi vẫn hình dung được trong tâm trí một Đà Lạt vẹn nguyên. Một Đà Lạt xưa với đồi Cù với thông và sương và hoa dại. Một Đà Lạt với quán cafe Tùng và những huyền thoại vô cùng đẹp.

Ngày xưa…

Đinh Thị Như Thúy

Vua Voi trăm tuổi: Yêu, ai chả thích!

TP – Buôn Ko Tam, xã Ea Tu (TP Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk) ngày đầu năm mới tấp nập. Từ hai giờ sáng, bếp nhà Khăm Phết đã đỏ lửa. Một con trâu mộng dắt về từ Buôn Đôn được xẻ thịt mở tiệc đãi cả làng để mừng “đại thượng thọ” 100 tuổi của Vua Voi Ama Kông.

Tròn trăm tuổi Ama Kông vẫn đều đều cạn ly loại rượu tự tay pha chế – Ảnh: Hoàng Thiên Nga

Khỏi cãi nhau về tuổi Vua Voi!

Con, cháu, dâu, rể, chắt, chít của Ama Kông, nếu tính hết, phải tới cả trăm người, sống rải rác khắp các huyện thành ở Đăk Lăk. Hôm nay hơn nửa số đó kéo về mừng đại thượng thọ Vua Voi.

Khách quý thân hữu xa gần thuộc nhiều sắc tộc Kinh, Lào, M’Nông, Ê Đê, Jơ Rai, có cả ông bà thông gia người Khmer sang từ bên kia biên giới Campuchia. Rồi cán bộ các sở ban ngành, chính quyền địa phương, doanh nghiệp chế biến dược phẩm từ bài thuốc Ama Kông.

Căn nhà gỗ đơn sơ của Khăm Phết trải chiếu và bày ghế tràn ra sân vườn. Trưa, chiều, khách mừng thọ tới tấp nập kín cả 30 bàn.

Nhân vật chính vui vẻ ngồi khoanh chân dưới tấm phông nổi bật dòng chữ: Mừng Đại Trường Thọ Vua Voi Ama Kông. Sinh ngày 1-1-1910 – 1-1-2010.

Nhà chật, khách đứng phải xếp hàng luồn vào sau lưng khách ngồi, ai cũng muốn được nắm bàn tay rộng ấm của ông và mời ông rượu.

Như mọi cuộc vui khác từng diễn ra tại đây, loại rượu duy nhất được rót là rượu Ama Kông thơm nồng, ủ trong bồn lớn rồi chiết vào vỏ chai nước suối.

Ama Kông đón từng ly rượu đầy, nâng ngang mặt rồi ngửa cổ uống cạn. Sau vài lượt rượu, mặt ông hồng hào, cử chỉ nhanh nhẹn hẳn lên.

Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch UBND xã Nguyễn Hữu Vượng tặng quà mừng Vua Voi, cười lớn: Từ nay các báo đài khỏi phải cãi nhau về tuổi Ama Kông nữa nhé!

Giờ bố mới được quàng vai mẹ!

Vợ chồng  Khăm Phết Lào vui vì bố mẹ đã chịu cười với nhau

Trong 4 bà vợ chính thức mà Ama Kông từng được cưới, bà Nhất và bà Ba đã mất, bà Tư vừa ly hôn năm ngoái. Thật ý nghĩa trong ngày vui này, bà Hai có mặt để cùng đàn con cháu đông đúc hiếu thảo mừng tuổi Vua Voi.

Bà Hai tên thời con gái là H’Hốt, vừa là em vợ vừa là em họ con ông bác ruột của Ama Kông, cách đây gần 7 thập kỷ, khi mới 12 tuổi đã chịu theo tục nối dây, cưới anh rể để nhận trách nhiệm làm mẹ 2 đứa cháu nhỏ sớm mồ côi.

Lấy chồng, bà trở thành Amí Liêng – mẹ của 11 người con sinh chung với Ama Kông, trong đó có con trai thứ bảy Khăm Phết Lào nay là người thừa kế duy nhất các bài thuốc gia truyền từ Ama Kông.

Suốt những năm tháng vất vả cực nhọc vì Ama Kông đi rừng, theo gái biền biệt, Amí Liêng vừa quán xuyến việc nhà, vừa âm thầm góp công góp của giúp đỡ cách mạng.

Sau ngày đất nước thống nhất, ông bà đều được trao Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, Ama Kông hạng Nhất, Amí Liêng hạng Nhì.

Cuộc giận Ama Kông của Amí Liêng đã kéo dài hơn bốn mươi năm. Kể từ cái ngày bà còn chưa ra khỏi ổ đẻ đứa thứ 11, ông đã dám dắt nhân tình với đứa con gái riêng 5 tuổi về xin cưới làm bà Ba.

Sau những cơn ghen hờn dữ dội của bà, Ama Kông may mắn được già làng phạt nhẹ, cho để lại mọi của cải, chỉ cưỡi một con voi sang nhà vợ mới…

Từ đó tới giờ, chưa một lần Amí Liêng chịu làm lành, chịu sang thăm Ama Kông dù nhà cách nhau có trăm bước chân, ngay cả những lần Vua Voi dưỡng thương cả tuần vì bị vợ Tư… say rượu đánh.

Thuyết phục để mẹ chịu hàn gắn, chịu ngồi xích lại gần và cười dàn hòa với bố là kỳ tích đàn con đã thực hiện được trong dịp vui này.

Tuổi gần tám mươi, Amí Liêng vẫn minh mẫn hài hước và ngúng nguẩy khi nhắc lại chuyện cũ. Bà oang oang: Ama Kông nhiều vợ nhiều con, nhưng ông ấy có nuôi đứa nào đâu. Ổng không thích nuôi con, chỉ thích yêu và nuôi… gái thôi!

Ama Kông tủm tỉm cười khi nghe bà kể tội, gật đầu: Amí Liêng nói có sai đâu, bà là vợ tốt nhất mà!

Nhìn bố mẹ sum họp bên nhau, thầy thuốc Khăm Phết Lào len lén ra sau nhà, đứng cạnh con voi giả ngậm chân bên hòn non bộ anh mới đặt thợ làm để chiều chiều Vua Voi ra ngồi ngắm cho đỡ nhớ rừng, khóc một mình vì…  sung sướng.

Vua voi ngắm con voi giả bên nhà cho đỡ nhớ rừng

Bị bắt gặp, anh mếu máo như trẻ nhỏ: Tôi mơ ước được thấy mẹ về bên bố từ lâu lắm rồi…

Yêu nhau, ai chả thích!

Có thể nói, hiếm có cuộc tụ tập nào ở xứ này mà người ta không nhắc đến Ama Kông. Tên ông từ lâu đã thành huyền thoại.

Ban đầu là huyền thoại về săn voi, về sau là huyền thoại về những thang thuốc cường dương bổ thận mà bản thân ông, cuộc đời ông chính là minh chứng sống động nhất.

Trong dòng đời bề bộn trắng đen phải trái, mọi huyền thoại về Ama Kông vẫn thuần khiết chất sinh tồn hồn nhiên, đem lại cho mọi người cảm giác thư nhàn vui vẻ.

Ngồi bên Vua Voi, người con trai đầu của Ama Kông ý tứ bớt những ly rượu khách mời đầy tràn khỏi tay bố, âu yếm gắp cho bố món này món nọ, ông gạt phắt: Không sao đâu, bố còn khỏe cả chục năm nữa mà!

Cách đây hai tháng, bố vợ Khăm Phết nhà ngay bên cạnh qua đời. Thương bố vợ cả đời hiền lành chăm chỉ, Khăm Phết cùng các anh chị em trong nhà làm đám tang thật lớn, thịt 2 con bò và 3 con heo.

Đồng bào xa gần gùi nếp, gùi chăn nườm nượp lên nhà sàn ngủ lại. Ama Kông là ông sui, cũng liên tục tiếp khách từ hàng xóm ghé qua.

Con dâu Amí Sumay ngồi cạnh xới cơm cho bố chồng, khoe: Mỗi bữa bố đều xơi hết hai bát đầy. Ông hay kể chuyện ngày xưa bằng tiếng Kinh và tiếng M’nông. Khi quên từ, ông lại chuyển qua… tiếng Pháp.

Hôm nay trăm tuổi, Ama Kông uống nhiều rượu với những người thân đến từ Buôn Đôn, Ea Súp và cũng dùng hết hai bát cơm với thịt trâu xào và canh cà đắng.

Ông lại kể về thời trai trẻ, mắt hấp háy vui khi nghe hỏi chuyện yêu đương. Ông cười lộ cả hàm răng xỉn màu rượu thuốc, nhấn mạnh từng tiếng rõ ràng: Chuyện yêu nhau, ai chả thích!

Hoàng Thiên Nga

Và để hiểu lai lịch chàng trai trăm tuổi này, cần đọc thêm :

Dương Thụ: Sự nổi tiếng ở ta hão huyền lắm

    TP – Trong sân vườn Cà phê Thứ Bảy, dưới bóng mát của tàu lá chuối xanh hiếm hoi giữa lòng thành phố Hồ Chí Minh những ngày cuối cùng của năm 2009, nhạc sĩ kiệm lời và kỹ tính Dương Thụ đã trải lòng về công việc, tình yêu, và cuộc sống.

Lúc chờ nhạc sĩ đến, tôi được một nữ nhân viên dặn nên cẩn trọng vì anh rất khó tính?

Dương Thụ (cười mỉm): Tôi từng phải rút kinh nghiệm tiếp xúc vì bị một số nhà báo ca tụng vô lối. Tưởng mát tai nhưng đọc vào thấy rất xấu hổ.

Có nhà báo phỏng vấn xong gọi anh ơi, báo ra rồi mời anh đọc. Cô ấy gán cho tôi những câu trả lời rất văn chương hoa mỹ, nào làm nhạc hiến dâng cho đời, nào viết cho tuổi trẻ! Trời ơi, ai cần mình viết cho họ đâu. Kinh khủng quá. Sao lại đại ngôn như vậy chứ.

Anh thích gặp gỡ với kiểu nhà báo nào?

Chưa bao giờ tôi thích gặp nhà báo cả, nhất là gặp vì cá nhân tôi. Báo chí quan trọng với những ai cần phải luôn luôn có mặt trên báo, hoặc có điều cần được nói lên mặt báo.

Tôi không thuộc cả hai nhóm đó. Trước hết vì mình chả là cái gì. Còn tên tuổi ư ? Cái sự nổi tiếng từng làm cho tôi rất khổ sở. Tôi không muốn.

Đến nông nỗi đó thật sao?

Hiện nay cái sự nổi tiếng ở ta nó hão huyền lắm. Nhiều khi nổi tiếng chỉ nhờ dư luận lặp đi lặp lại ba cái chuyện giật gân phù phiếm, chứ chẳng phải tài năng hay cống hiến đặc biệt gì.

Có người thấy tôi trên ti vi hay trả lời một vài bài báo, bèn nghĩ chắc ông này hay lắm, bèn kéo thêm nhiều người khác đòi phỏng vấn. Nếu tôi từ chối sẽ bị cho là tự kiêu tự đại.

Nhưng phần lớn người ta có hiểu đúng mình đâu. Thậm chí có người ái mộ, gọi điện thoại rối rít nhưng rốt cục té ra họ nhầm tôi với những bậc tài danh khác, chẳng hạn như Phú Quang hay Thanh Tùng.

Thực chất tôi không phải là người của công chúng, mà chỉ là một người rất bình thường. Tôi không có nhiều điều để chia sẻ với số đông…

Thích những việc không ra tiền lại còn bị chửi

… Một con người đúng nghĩa luôn sống rộng hơn phạm vi nghề nghiệp của họ. Nhạc sĩ hoàn toàn có thể quan tâm đến nhiều vấn đề khác ngoài nhạc, ví dụ quan tâm tới người nghèo, bóng đá hay chính trị. Tôi không phải là chuyên gia chỉ biết đến cái nghề của mình.

Trong mỗi cá nhân luôn có nhiều tư cách người. Phần người rất quan trọng trong tôi là người chồng, người cha vì gia đình, trách nhiệm che chở giữ gìn gia đình chứ không phải chỉ biết có sáng tác. Sau đó mới đến phần người làm nghề sản xuất âm nhạc, làm chương trình, băng đĩa, tổ chức sự kiện cho chỗ này chỗ nọ, vân vân.

Nếu không làm những việc đó thì sao tôi đủ sống? Liệu bán thơ nhạc đi có đủ tiền đổ xăng xe và trả cước điện thoại không ?

Anh luôn nặng gánh chèo chống gia đình vậy ư ?

Còn có một phần người nữa quan trọng hơn, phần hoạt động xã hội. Nếu chỉ sống cho mình, vì mình, thì quá nhỏ nhoi. Đức Phật nói người tốt là người sống cho bên ngoài mình.

Có người sống chỉ thu vén cho họ. Cũng có người luôn chia sẻ với những người xung quanh. Tôi không cao cả như những nhà sư, linh mục, nhà hoạt động xã hội. Nhưng tôi cũng có những ưu tư bẩm sinh và nhu cầu làm điều gì đó cho người khác.

Tôi từng giúp những ca sĩ trẻ, nhạc sĩ trẻ từ lúc họ vô danh, đâu có lấy tiền. Nhiều việc tôi làm chẳng đem lại lợi ích vật chất gì, như chương trình Nửa thế kỷ bài hát, hay Bài hát Việt. Đã không có tiền lại còn bị chửi. Tuy nhiên nó khiến tôi vui, cho tôi thêm động lực sống khi thấy mình đem lại được chút gì cho ai đó.

Hạnh phúc là khi…

Điều gì khiến anh rung động, khi nghe ca sĩ trình bày những ca khúc gan ruột của mình?

Đó là khi phát hiện mình không nói gì mà sao họ hiểu mình đến thế. Như Mỹ Linh, có những bài cô ấy vào phòng thu hát khó khăn như đánh vật, phải thu rất nhiều lần. Nhưng rồi cô ấy hát cũng ra chất và hát rất hay những ca khúc như Mong về Hà Nội, Hát cho anh nghe, tôi không nhớ đã viết năm nào.

Vấn đề không phải là kỹ thuật. Ví dụ lẽ ra phải hát nhẹ thì lại chệch thành hát nhỏ, hoặc giọng hát chưa đủ độ nẩy. Kỹ thuật chỉ có thể khiến mình hài lòng hay không hài lòng chứ chưa đủ để khơi gợi cảm xúc.

Cái thuộc về thần thái, cảm xúc thường rất trừu tượng. Cô ấy đã đụng chạm đến chỗ nào đó rất sâu, có lẽ là dây thần kinh của mình. Tôi mong về Hà Nội để nghe gió sông Hồng thổi, để thương áo len cài vội, một chiều đông rét mướt… Cũng lời ấy có người hát dở ẹc à.

Ngoài Mỹ Linh, còn những ai đạt tới điều đó?

Ví dụ khi được nghe Thanh Lam hát Gọi anh, Hồng Nhung Vẫn hát lời tình yêu, Nguyên Thảo hát Nghe mưa, Khánh Linh hát Tháng tư về, Lệ Quyên cũ chứ không phải Lệ Quyên nhạc thị trường với Họa mi hót trong mưa. Vân vân.

Đó có phải là cảm giác hạnh phúc về nghề nghiệp?

Tôi không bao giờ băn khoăn hỏi mình có hạnh phúc hay không. Hạnh phúc là khi mình được nói, được bộc lộ, sống với tất cả các giác quan giữa những gì thân thiết.

Như khi mở cửa thấy nắng trong vườn, thấy hoa cỏ, được chăm chú theo dõi nắng tắt trên từng chiếc lá. Hay nghe nhạc không còn là nhạc nữa mà chỉ ngập tràn cảm xúc đưa mình về cõi nào. Thậm chí khi cầm cái máy hút bụi, quét dọn, cắm hoa, dọn dẹp lại căn nhà bẩn thỉu sau một chuyến đi xa về.

Đôi khi mù quáng vì yêu

Trong những việc anh đã làm, phần việc nào giúp anh sống mạnh mẽ nhất với mọi cảm quan của mình?

Âm nhạc. Nghệ thuật là tiếng nói đi tìm bạn. Vì tìm bạn nên mới hát cho người ta nghe, không thì hát làm gì. Con người ai cũng khao khát thương yêu, chia sẻ.

Khi viết, khi sáng tác, là lúc mình được sống sâu nhất trong niềm xúc động nội tâm. Âm nhạc tôi là nội tâm tôi, là những gì tôi quan sát chiêm nghiệm.

Anh tâm đắc tác phẩm nào nhất trong số đã viết ?

Tôi chẳng có ca khúc nào gọi là tâm đắc. Hỏi thế có khác nào hỏi Anh yêu tay, chân hay tóc của anh? Yêu hay không thì nó vẫn là một bộ phận của con người mình đấy chứ.

Tôi chưa từng được nghe ca khúc nào của anh mang tính tuyên truyền cổ vũ. Anh không phù hợp, không thích hay không sáng tác nổi dòng nhạc ấy?

Quả thực trong âm nhạc, tôi không khuyên ai sống thế nào, chỉ nói tại sao mình yêu, tại sao mình đau khổ, tức là mình quan sát chính mình thôi.

Do cái tạng của tôi nó thế ! Tôi rất kính trọng Hoàng Vân với Bài ca xây dựng: “Cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau”. Toàn khẩu hiệu! Hay Tôi là người thợ lò, mặc dù ông ấy có là thợ lò bao giờ đâu. Các ca khúc ấy đều dạt dào cảm xúc rất thật, cả phần nhạc và ca từ đều hay.

Hoặc như Đỗ Nhuận, hầu hết ca khúc của ông cũng đều vì cái chung, cho cái chung. Những nhạc sĩ tài hoa đó đã từ bỏ cái riêng của mình, hoặc hòa cái riêng vào cái chung một cách nhuần nhuyễn. Tôi không làm được như vậy.

Điều đó có phải bắt nguồn từ chỗ do quá yêu bản thân mình không ?

Con người ta biết yêu mình sẽ biết yêu người khác. Yêu cho đúng nghĩa bao giờ cũng tốt đẹp. Tuy nhiên đôi khi cũng vì yêu mà mù quáng. Nhất là trong tình yêu giới tính, vì nó có yếu tố sex.

Vào vai giám đốc dự án

Nhạc sĩ Dương Thụ trong không gian Cà phê Thứ Bảy. Ảnh: Hữu Trịnh

Ít nhiều đã đủ đầy mọi thứ, anh vẫn không ngồi yên sáng tác, lại chịu mất nhiều thời gian ra đây vun vén cho một dự án cà phê?

À, đấy lại là cả một câu chuyện dài. Cà phê Thứ Bảy là một dự án văn hóa mà tôi hợp tác với Trung Nguyên. Tôi làm việc này không nhằm để người ta biết tôi như một người nổi tiếng. Tôi muốn có một không gian văn hóa cho bạn bè gặp gỡ, gây cảm hứng cho nhau.

Và vì tôi thích Vũ (Đặng Lê Nguyên Vũ – TGĐ Cty CP Trung Nguyên – PV), muốn làm cho Vũ điều gì đó, dù tôi chẳng là gì cả.

Vũ là người có tầm, có tâm, có thể hiểu được những việc mình muốn làm, có cái nhìn sâu sắc về văn hóa. Vũ luôn phải lo nghĩ về hiệu quả kinh doanh vì anh ấy là doanh nhân, cuộc sống anh ấy gắn liền với thương hiệu Trung Nguyên. Còn tôi thì không.

Tôi không đến đây ngồi chờ người ta hóng chuyện, hay tào tao. Tôi muốn điều gì đó thuần khiết hơn.

Liệu một nhạc sĩ mang tâm hồn thơ mộng, lãng mạn như anh có thích hợp gắn bó với chức danh rất ngoại đạo, giám đốc điều hành dự án?

Không phải tôi gắn bó mà chính tôi đẻ ra, nghĩ ra dự án này và đem nó đến cho Vũ. Năm ngoái Vũ mời tôi, Nguyễn Cường, Nguyễn Xuân Khánh, Lưu Trọng Ninh và nhiều người khác nữa lên thiên đường cà phê của anh ấy để viết nhạc, viết tiểu thuyết, để làm phim về cà phê.

Tôi nói thẳng đừng tốn tiền cho tôi vì mục đích này. Tôi chỉ viết từ tôi, cho tôi, vì những điều tôi hiểu chứ không viết cho những điều không hiểu hoặc chưa cảm được.

Nhưng tôi có cái này đã nghiền ngẫm để đưa cho Vũ. Đó là dự án Cà phê Thứ Bảy với nhiều mảng hoạt động văn hóa tinh túy. Vũ xem, đồng ý đầu tư tài chính.

Tôi cùng mọi người chuẩn bị từ việc tìm địa điểm vốn là quán cà phê Niết Bàn cũ, cải tạo nó cho phù hợp hơn và chuẩn bị nội dung giao lưu định kỳ hàng tuần cho nó.

Dường như tổng thể còn dang dở, kén người?

Tôi không làm thuê cho doanh nghiệp, không ký hợp đồng mà chỉ ký thỏa thuận hợp tác. Linh hồn của quán là Bùi Văn Nam Sơn. Nguyên Ngọc thì giúp mảng Cà phê Sách.

Mảng Cà phê Văn học có Ý Nhi và nhà phê bình Thanh Sơn. Cà phê Điện ảnh có Lê Hoàng, Bá Vũ; Cà phê Đối thoại có Lê Ngọc Trà, Đặng Lê Nguyên Vũ; Cà phê Hội họa có Nguyễn Quân, v.v…

Trên đời chẳng có gì từ trong đầu bước ra mà suôn sẻ dễ dàng hết được. Sắp tới sẽ khai trương thêm một số hạng mục mới, và bổ sung nhiều bộ sưu tập không thể thiếu. Mọi thứ còn dở dang, nhưng sẽ hoàn chỉnh dần.

Hoàng Thiên Nga
Thực hiện

Đinh Thị Như Thúy – Nhà thơ Dã Quỳ

Đọt Chuối Non hân hạnh giới thiệu với các bạn một gương mặt thơ mới: chị Đinh thị Như Thúy.

Người con gái Huế có bút danh Như Thúy và Như Dã Quỳ là một tác giả thơ quen thuộc. Nhiều bạn yêu thơ đã rất thích thú với giọng thơ của chị qua các tập thơ đã được xuất bản như Cùng đi qua mùa hạ (thơ), NXB Văn Nghệ, 2005; Phía bên kia cây cầu (thơ), NXB Phụ Nữ, 2007. Ngoài ra chị còn có không ít những bài thơ đăng trên Website Tiền Vệ …, báo Văn Nghệ, Văn Nghệ Trẻ, Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh…, Tạp chí Thơ, Sông Hương…

Trong quá trình sáng tác Như Thúy đã được tặng một số giải thưởng về thơ như
Tặng thưởng thơ năm 2008 của Tạp chí Sông Hương.
Tặng thưởng thơ năm 2008 của Tạp chí Non Nước.
Giải C Giải thưởng văn học nghệ thuật năm 2008 của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam cho tập Phía bên kia cây cầu.
Một điều thú vị nữa cho tất cả chúng ta là chị là một cô giáo dạy Văn, hiện công tác tại một trường Phổ thông Trung học thuộc Huyện Krông Pắc, Tỉnh Đắc Lắc.

Về thơ chị đã có nhiều lời bình trên các báo như Thanh Niên, Việt báo, các trang web như Thi viện, PhongDiep.net, vanchuongviet.org; vannghesongcuulong.org.vn; Inrasara, ….

Ta hãy thử nghe một trích đoạn sau dưới tựa đề Đinh Thị Như Thúy Và Âm Bản Của Cuộc Đời của Võ Tấn Cường:

Từ lâu, mỗi ngày tôi đều đọc một vài bài thơ như một thói quen, đọc thơ để tỉnh thức thế giới nội tâm và để nạp thêm năng lượng sống cho đời sống tâm linh. Đọc tập thơ: “Phía bên kia cây cầu” của Đinh Thị Như Thúy, tôi cảm nhận được một giọng thơ giàu chất suy ngẫm thế sự và nhận ra âm bản cuộc sống và tâm hồn của nhà thơ thấp thoáng trong từng câu thơ, bài thơ. Thế giới thơ ca của Đinh Thị Như Thúy đuợc khắc họa thông qua những khoảnh khắc giao hòa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thực và ảo, giữa hạnh phúc và đau khổ, giữa ám ảnh và khát vọng…Nổi bật giữa hình tượng bài thơ thường là cái tôi trữ tình mang đậm chất nghĩ ngợi, suy ngẫm về sự giao hòa giữa tâm hồn nhà thơ và những sự vật bé nhỏ, về thân phận của con người và cái đẹp…

Toàn bộ thơ của Đinh Thị Như Thúy trong tập thơ: “Phía bên kia cây cầu” đều là thơ văn xuôi và tự do, câu thơ co duỗi linh hoạt, nhịp thơ buông lỏng, hướng về sự lắng đọng, âm vang của ngữ nghĩa giữa các từ ngữ. Thơ Đinh Thị Như Thúy ít biểu cảm trực tiếp, thơ nặng về ý hơn là hình tượng. Nhịp thơ cuộn chảy theo diễn biến của tâm trạng và sự suy ngẫm của chủ thể trữ tình. Sức gợi và sức ám ảnh của thơ chị nằm ở chiều sâu của ngữ nghĩa ngôn từ với sự chuyển động và va đập của hình tượng thơ:

“Tôi đã vẽ trên vân cát nỗi buồn vẽ niềm hân hoan vẽ bông hoa vẽ ước mơ và cả lời thề nguyện. Cát bình thản nhận về tôi một chấm nhỏ nhoi”

Giọng thơ của Đinh Thị Như Thúy tự nhiên tuôn chảy như tiếng vọng của tâm hồn nhà thơ. Nhiều câu thơ của chị như những suy nghĩ bật ra thành lời, giống như những câu danh ngôn:

“Không nhiều lời, những con dốc buộc người đi phải cúi đầu. Không chơi trò ú tim, sự tồn tại rồi tiêu biến của sương mù là bài học. Không đỏm dáng, cẩm tú cầu tự nhuộm sắc vàng xanh tím hồn nói lời đau đi qua hạnh phúc…” (Bài Ca Ngân Dài)

Còn nhiều những lời ngợi ca thơ Như Thúy, nhưng có lẽ không cần phải nói thêm về những ý tưởng phong phú và xúc cảm sâu lắng đa cung bậc trong thơ chị. Các bạn sẽ tự mình bước vào khám phá thế giới thơ ấy và bất chợt thấy mình hòa nhập với những rung cảm thẫm mỹ trong từng câu chữ thơ tự do rất riêng của chị.
Chào mừng Như Thúy đến với Đọt Chuối Non.

Mời các bạn đọc bài Ấn Tượng, về Hà Nội mùa hạ (trong tập thơ Cùng Đi Qua Mùa Hạ), và bài Viết Trong Mùa Tưới Rẫy, về Tây Nguyên mùa hoa cà phê.


Ấn Tượng

Hà Nội ùa vào em từ sông Hồng sóng đỏ
Từ vòng xe tìm về phố lao đao
hoàng lan, hoàng lan trước khung cửa mở
Rủ nhánh mềm tươi nét môi chào

Hà Nội – cuốn sách diệu kỳ bọc trang kim lấp lánh
Em – đứa trẻ học vần
Vụng về gõ lên từng con chữ
Háo hức chờ tiếng vọng ngàn xưa

Hà Nội – những con đường trong thơ
Những hàng cây trong thơ
Bước chân em ngơ ngơ …phố …phố…
Dọc ngang, dọc ngang rối rít tiếng người

Đền Ngọc Sơn xanh thắm nắng ngời
Lời cầu chúc bình yên em thì thầm trong thanh tĩnh
Khói hương vẽ con đường vô định
Muôn trùng

Đinh Thị Như Thúy

Viết Trong Mùa Tưới Rẫy

(mấy hôm nữa quanh đây hoa café sẽ nở trắng
và thơm đến nhức đầu)

và nước đã thấm sâu
nước đã đẫm từng cọng non mềm của rễ
dâng lên đi dòng nhựa trắng
dâng lên đi mùa hoa trắng

dâng lên dâng lên bung từng chùm
trắng như áo lụa
trắng như mây trắng
trắng như nụ cười

không nói toả hương mà nói là mê hoặc
không nói đẹp mà nói là kỳ diệu
không nói ngắm nhìn mà nói là ngất ngây

suốt một ngày chạy đuổi
suốt một ngày hai tay dang rộng
chỉ cây tiếp cây hoa tiếp hoa đến tận chân trời

hoa không nói lời hoa
chỉ trắng như một niềm vui sướng
và gió và ong và bướm
mang hoa về muôn nơi
và trên hoa lộng lẫy nắng trời

Đinh Thị Như Thúy