Category Archives: Văn Hóa

Sao biển

saobien

Một ông nọ một lần kia đi dạo dọc theo bãi biển. Mặt trời đang tỏa sáng và ngày rất đẹp. Từ xa ông thấy một người đi đi lại lại giữa bờ sóng và bãi biển. Người đó cứ tiếp tục đi đi lại lại. Khi đến gần, ông có thể thấy cả hàng trăm con sao biển đã bị mắc cạn trên cát theo dòng thủy triều, và người kia đang nhặt từng con sao biển một, ném trả lại cho sóng biển.

Ông ta rất đỗi kinh ngạc bởi công việc thật rõ là vô ích kia. Có quá nhiều sao biển. Nhiều con trong đám đó chắc chắn sẽ chết. Ông bước đến, người kia vẫn tiếp tục nhặt và ném.

Người đàn ông bước đến gần người kia và nói: “Anh bạn điên à. Đến hàng nghìn dặm bãi biển phủ đầy sao biển. Bạn đâu thể thay đổi được gì.” Người kia nhìn người đàn ông. Rồi anh ta cúi xuống, nhặt thêm một con sao biển, và ném nó trở lại với đại dương. Anh quay lại phía người đàn ông và nói, “Nhưng chắc chắn có thay đổi cho con sao biển đó!”.

Nguyễn Minh Hiển dịch
.

Once a man was walking along a beach. The sun was shining and it was a beautiful day. Off in the distance he could see a person going back and forth between the surf’s edge and and the beach. Back and forth this person went. As the man approached he could see that there were hundreds of starfish stranded on the sand as the result of the natural action of the tide. And the other person was picking up the stranded starfish, one by one, and throw them back into the surf.

The man was struck by the the apparent futility of the task. There were far too many starfish. Many of them were sure to perish. As he approached the person continued picking and throwing.

As he came up to the person he said, “You must be crazy. There are thousands of miles of beach covered with starfish. You can’t possibly make a difference.” The person looked at the man. He then stooped down and pick up one more starfish and threw it back into the ocean. He turned back to the man and said, “It sure made a difference to that one!”

Anonymous

Nghi Lễ Trà Đạo

Trong nghi lễ Trà Đạo, có hai cách pha trà: pha trà đặc và pha trà loãng. Bài này chủ yếu giới thiệu về nghi thức pha trà đặc.

1) Giai đoạn chuẩn bị:

Trong Trà Đạo, nước biểu tượng cho âm (Yin), lửa biểu tượng cho dương (Yang). Nước đựng trong một cái bình có tên gọi là “mizushashi”. Bình này chứa nước suối là biểu tượng của sự thuần khiết, chỉ có chủ nhà mới được đụng đến.

chaire-igaMatcha (trà xanh chỉ dùng trong lễ trà) đựng trong một cái bình bằng gốm (gọi là Cha-Ire) và được bọc trong một cái túi lụa tơ mỏng rất đẹp (gọi là shifuku) và đặt cạnh bình Mizushashi.

Chủ nhà bước vào, trên tay cầm chén trà (Cha-wan), kèm theo chổi đánh trà (Cha-sen), và một mảnh vải trắng nhỏ (Cha-kin) dùng để lau khô chén trà, muỗng múc trà (Cha-shaku: muôi làm bằng tre dùng để chia trà). Những đồ này được sắp cạnh bình trà tượng trưng cho mặt trời (dương – yang), và chén trà biểu tượng cho mặt trăng (âm – yin).

Sau đó, chủ nhà quay ra phòng ngoài và mang vào kensui (chén dùng để đựng nước trà bỏ đi), hishaku (muôi múc nước làm bằng tre) và futaoki (đồ gác nắp hộp trà). Chuẩn bị xong mọi vật dụng cần thiết, chủ nhà nhẹ nhàng đóng cửa phòng trà lại.

2) Thực hiện nghi lễ

Chủ nhà dùng tấm vải fukusa (tấm vải tơ tốt), lau bình trà, điều này tượng trưng cho tinh thần của chủ nhà. Một cách chậm rãi, chủ nhà gấp gọn và đặt tấm vải fukusa xuống. Việc gấp tấm vải thể hiện sự chu đáo của chủ nhà nên cần được làm với một sự tập trung cao độ. Người ta thấy ý nghĩ sâu sắc của người chủ trong việc xem xét kỹ lưỡng, gấp và sử dụng fukusa, trong mức độ tập trung và trạng thái mặc tưởng được nâng cao.

chado_tea-ceremonyNgười chủ dùng thìa châm nước nóng vào chén trà, rửa sạch chổi trà, đổ nước đi, và lau sạch chén với Cha-kin. Người chủ nhấc thìa trà và hũ đựng trà lên, cho mỗi vị khách 3 muỗng trà vào chén trà. Sau đó châm từ ấm đun vào chén trà một lượng nước nóng đủ để có thể tạo ra một hỗn hợp nhão mỏng với cái chổi trà. Rồi thêm nước đủ để có thể dùng chổi trà khuấy thành một chất lỏng đặc quánh như súp đậu. Phần nước còn thừa lại trong thìa được cho lại vào ấm đun nước.

kyoto_sado_tea-ceremony_7Tiếp theo, người chủ sẽ chuyền chén trà cho vị khách chính, vị khách sẽ cúi đầu để nhận chén trà. Vị khách sẽ dùng hai tay nâng chén lên và dùng tay xoay nó để ca tụng, rồi uống 1 ngụm trà lớn, sau đó lau sạch vành chén và chuyền cái chén cho vị khách kế tiếp cũng sẽ làm y như vị khách chính (lượng trà trong chén được người chủ khéo léo đong vưà đủ cho 4 vị khách để trà không dư lại). Đối với trường hợp pha loãng, mỗi khách sẽ uống riêng một chén trà.

129_01_t1Khi tất cả khách đã thưởng thức trà xong, chén trà được đưa trở lại cho người chủ. Chủ nhà sẽ rửa sạch nó, làm sạch hũ đựng trà và thìa múc trà. Thìa múc trà và hũ đựng trà sẽ được chuyền cho khách để xem xét. Sau đó mọi người sẽ thảo luận về các vật dụng, cách trình bày và những chủ đề thích hợp khác.

3) Rời tiệc trà

Lửa bếp lại được thắp lên để pha trà nhạt. Trà này để tráng miệng và một cách biểu trưng để chuẩn bị cho những vị khách rời khỏi thế giới tâm linh của lễ trà và bước lại vào thế giới vật chất.

Natsume
Natsume

Trà nhạt và Trà đậm được pha theo cùng một cách, ngoại trừ trà nhạt dùng ít bột trà hơn, dùng chất lượng trà ít hơn, và được phân ra từ một hũ đựng trà bằng gỗ có hình quả chà là gọi là natsume.

Kiểu của chén trà được trang trí nhiều hơn và mỗi người khách được dọn cho một chén trà riêng. Lúc kết thúc, khách sẽ bày tỏ lòng biết ơn của họ đối với lễ trà và sự thán phục đối với nghệ thuật của người chủ. Họ rời khỏi và người chủ sẽ quan sát họ từ cửa của trà thất.

Loan Subaru

Ôi Bãi Bờ Tìm Kiếm Suốt Đời Ta…

vung-tau1

Ôi Bãi Bờ Tìm Kiếm Suốt Đời Ta…

Những tưởng mình có thể nghỉ ngơi
Với biển xanh kia nắng gió tuyệt vời
Tôi lại sống những đêm hè trăn trở
Sóng nói gì trước cửa Vũng Tàu ơi ?

Bạn tôi chết dưới chân cầu Cỏ May
Mũi Vu Hồi phía đông năm ấy
Phút khốc liệt cuối cùng
Khuôn ngực anh bất thần bật dậy
Cụm hỏa lực cuối cùng
Tắt hẳn
Chúng tôi ào lên ngày đại thắng

Bây giờ những chiếc xe qua, rồi những chiếc xe qua
Mùa hè bình yên đưa người đi nghỉ mát
Trong số họ có bao nhiêu người biết được
Máu đã đổ làm sao trước nhịp cầu này
Cây cầu tầm thường vài phút bánh xe quay

Bạn tôi chết khi còn rất trẻ
Tuổi cô gái kia thôi, đang ùa chạy nô cười
Mắt mở nhìn như uống cả xa khơi
Giang tay choàng lấy biển

Và thân thể ngời ngời trong sóng quyện
Bạn tôi ơi, nếu còn sống, chắc chắn là anh phải đến tận đây
Để xoài mình trên cát
Cho sóng mơn làn da nghe rì rầm biển hát
Thấy cuộc đời yên ả biết bao nhiêu

Có thể là anh sẽ gặp và yêu
Chính cô gái kia đang tung mình giỡn sóng
Cô ấy cũng yêu anh—Ôi vầng mặt trời bé bỏng
Cứ thế bồng bềnh mọc lặn giữa đời anh

Nhưng anh chẳng đến được đây, chẳng bao giờ đến được
Tuổi hai mươi anh nằm lại đó rồi
Ngực đẩm máu dầm trong bùn nước
Nghe thân cầu rung động tiếng xe lăn

Anh cứ nằm lặng lẽ chẳng băn khoăn
Bao người vụt đi qua
Có ai nhớ tới mình hay chẳng nhớ
Cái đó đâu quan trọng chi mà
Anh chỉ biết gửi hồn mình theo họ
Một bãi bờ khao khát suốt đường xa
Ôi bãi bờ tìm kiếm suốt đời ta
Nơi biểu hiện những gì ta hằng nấu nung trong lửa
Người thực sự làm người, người thực sự thương nhau
Mắt gặp mắt trong ngần, lòng với lòng rộng mở
Mỗi ban mai lại như thuở yêu đầu

Bùi Minh Quốc, 1984
Tình Bạn Tình Yêu Thơ, tr. 283
Nhà XBGD, Hà Nội, 1987

.

vungtau_bridge
O The Shore We’ve Looked for All Our Life

I thought I could rest
With the blue ocean, the sunlight, the magnificent wind
But I’ve lived through the summer nights tossing and turning
O Vung Tau, what say the waves at the ocean’s door?

My friend died under Co-May Bridge
At Cape Vu-Hoi that winter
The last intense minute
Your chest sprang up suddenly
The last firing spot
Died out
We stormed forth to victory

Now cars pass, then cars pass
Peaceful summer brings vacationers
How many know
How blood has flowed before this bridge
The ordinary bridge, a few minutes of wheel rolling

My friend died young
At the age of that running laughing girl
Eyes open drinking up high seas
Arms stretched wide holding the large ocean

And the body glittering in the rolling waves
O my friend, if still alive, you surely would have come here
To sprawl on the sand
Letting the waves caress the skin, listening to the sea’s murmuring
Feeling how peaceful life is

Perhaps you would meet and love
That wave-playing girl
And she would love you—O the small sun
Just like that, would always bob up and down in the midst of your life

But you can’t come, you can never come
At twenty you have stayed there
Bloody chest soaked in the watery mud
Hearing the bridge’s tremors under the rolling wheels

You lie there quietly, wondering not
Among the many who scurry by
Who remember you, who do not
That is unimportant
You know how to send them your soul
The shore we’ve thirsted for during that long long way
O the shore we’ve looked for all our life
Where exists what we’ve forged in fire–
Man as true man, man who truly loves
Eyes meeting pure eyes, hearts wide-open hearts
Each morning feeling like falling again in love

Translated by Trần Đình Hoành

Stumble It!

© Copyright 2009, TDH
Licensed for non-commercial use

Chào mừng Ngày Xuân phân và Ngày Trái Đất

earth-lighting-equinox

Chào các bạn,

Hôm nay, 20 tháng 3 năm 2009, là Ngày Xuân phân và Ngày Trái Đất.

Ngày Xuân phân là ngày đầu tiên chính thức của mùa xuân tại Mỹ và nhiều quốc gia Âu Mỹ. Tại các quốc gia theo âm lịch ở Á châu, Ngày Xuân phân lại được xem là ngày chính giữa mùa xuân.

Vào ngày 20 tháng 3 năm 2009, đúng 7 giờ 44 sáng (giờ Washington DC) (20 tháng 3, 11 giờ 44 sáng, giờ Greenwich), mặt trời sẽ đi ngang xích đạo của trái đất, chiếu ánh sáng thẳng góc vào xích đạo. Thời điểm này được gọi là Xuân phân nếu ta ở bắc bán cầu (vernal equinox) và Thu phân ở nam bán cầu (autumnal equinox).

spring

Equinox có nghĩa là “equal night” (đêm bằng, hay là, đêm bằng ngày), bởi vì mặt trời nằm ở vị trí thẳng đứng trên xích đạo. Thời điểm này đặc biệt bởi vì trục xoay của quả đất đứng nghiêng 23°4. Vì độ nghiêng này, chúng ta nhận ánh sáng nhiều nhất từ mặt trời trong mùa hè (ngày dài đêm ngắn) và ít nhất trong mùa đông (ngày ngắn đêm dài). Vào thời điểm Xuân phân (Thu phân), mặt trời đứng thẳng góc ngay trên xích đạo nên ngày và đêm bằng nhau.

Bởi vì được xem là ngày đầu của mùa xuân, mùa vạn vật bừng sống trở lại sau mùa đông lạnh lẽo tăm tối, Ngày Xuân phân có ý nghĩa lớn và là ngày lễ hội lớn trong nhiều nền văn hóa.

Theo Wikipedia tiếng Việt, Ngày Xuân phân được xem là ngày lễ hội tại nhiều nơi trên thế giới như sau:

Lễ hội Norouz (lễ hội năm mới hay lễ hội đầu xuân) của Iran được tổ chức vào ngày này. Đạo Bahai gọi lễ này là Naw-Rúz. Ngoài ra còn có lễ hội Ostara của đạo Wicca, và là một trong tám lễ hội Sabbat của những người theo đạo đa thần giáo kiểu mới (neopagan).

Tại Nhật Bản ngày Xuân phân (春分の日) là ngày lễ chính thức của quốc gia để mọi người đi tảo mộ và đoàn tụ gia đình.

Lễ Phục sinh ở các nước theo Cơ đốc giáo được tổ chức vào ngày chủ nhật đầu tiên ngay sau khi trăng tròn kể từ ngày Xuân phân.

Ngày Trái Đất được kỷ niệm vào ngày Xuân phân hàng năm kể từ ngày đầu tiên là 21 tháng 3 năm 1970.

Năm mới Tamil được tổ chức sau ngày Xuân phân. Nó được tổ chức tại bang miền nam Ấn Độ (Tamil Nadu).

earthbluemarblewestterra

Ngày Trái Đất (Earth Day)

Theo John McConnell, người sáng lập Ngày Trái Đất, khi ông đang suy tư tìm một ngày nào đó để mọi người trên thế giới cùng nhau ca tụng huyền diệu của đời sống trên quả đất, “Ngày Xuân phân hiện ra trong óc, và tôi biết ngay là chính nó. Một cơn động đất ở California làm rung rinh căn nhà của tôi lúc đó như là dấu hiệu đồng ý. Còn thời điểm nào hay hơn là lúc bắt đầu mùa xuân, khi ngày và đêm bằng nhau khắp mọi nơi trên thế giới, và mọi trí óc và con tim có thể hợp nhau trong suy tư về hòa hợp và sự tươi mới trở lại của Trái Đất. Chỉ một lời cầu nguyện đã rất ý nghĩa, còn ý nghĩa hơn biết bao nhiêu khi hàng trăm, hàng nghìn, hàng triệu người vòng quanh thế giới hợp nhau trong suy tư và cầu nguyện để nuôi dưỡng tình láng giềng và thiên nhiên.”

Ngày Trái Đất đầu tiên xảy ra tại San Francisco vào ngày 21 tháng 3 năm 1970, với một công bố chính thức của thành phố San Francisco, bang California, Mỹ. San Francisco có nghĩa là “Thánh Phan-xi-cô”, thánh quan thầy của sinh thái học (ecology). Sau này, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc U Thant ký một Công bố xác nhận Ngày Trái Đất cho Liên Hiệp Quốc.

Vào Ngày Trái Đất, ngay khi mùa xuân bắt đầu Chuông Hòa Bình của Liên Hiệp Quốc sẽ đổ, để hàng triệu người trên thế giới đồng tâm suy niệm.

Chúc các anh chị em một mùa xuân đầy tình yêu và ánh sáng.

Trần Đình Hoành

Sự có mặt — quà tặng quý giá

sadness
“Tặng phẩm quý giá nhất ta có thể dâng tặng cho người khác là sự có mặt của chúng ta. Khi sự quan tâm chia sẻ của chúng ta bao bọc những người ta yêu thương, họ sẽ rộ nở như những đóa hoa tươi thắm”

Ý nghĩa đích thực của từ có mặt trong lời dạy trên của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là gì? Và bằng cách nào sự có mặt là một tặng phẩm ta dành cho người khác?

Và câu hỏi cuối cùng ta tự đặt cho mình là mỗi ngày trong đời, ta đã thực sự tặng cho những người ta yêu, ta quý, những người sống, làm việc bên ta hay những người ta gặp, sự có mặt của mình đúng nghĩa hay chưa?

Chắc chắn mỗi chúng ta đều có câu trả lời, nhưng trước hết mời các bạn suy nghĩ về câu trả lời của Sunada. Bà Sunada sinh ra ở Nhật, nhưng sống tại Mỹ từ năm lên 3 cho đến nay. Bà đã có 16 năm làm việc trong lĩnh vực công nghệ cao (high tech), quản lý các chương trình phát triển phần mềm . Trong khoảng thời gian đó thường xuyên đối mặt với áp lực rất lớn, bà đã phải chịu đựng những thương tổn nặng là hậu quả của stress . Bà bắt đầu nghiên cứu Phật pháp và thực hành thiền định từ 1995, có 3 năm giảng dạy các lớp tu học và thiền tại Boston (Mỹ), hiện đang tham gia giảng dạy các lớp tu học thiền qua mạng Internet với Wildmind và tư vấn cho những ai cần giúp đỡ về tu học. “Khi tôi bắt đầu thực hành chánh niệm, lĩnh vực đầu tiên của tôi là chánh niệm trong mỗi hoạt động hàng ngày quen thuộc. Tôi “nhìn “ lại những gì đang diễn ra trong đầu tôi trong một bữa ăn trưa cùng một người bạn đồng nghiệp. Tôi giật mình sửng sốt nhận ra rằng tôi không đang chú ý đến bạn. Trong khi anh ấy đang say sưa nói về một dự án chung của chúng tôi, tôi thấy mình đang suy nghĩ về ý tưởng của tôi. Rồi sau đó tôi thấy mình đang lập kế hoạch cho cuộc họp chiều hôm đó. Tóm lại, tôi đang theo đuổi những vấn đề, một chương trình tương lai của tôi, và tôi không thực sự đang có mặt trong hiện tại cùng anh ấy. Bây giờ tôi mới nhận ra rằng thật đáng buồn chúng ta hiếm khi thực sự có mặt cùng người khác.”

gia-dinh

Các bạn có thấy mình giống hệt Sunada không? Tôi cũng không phải là ngoại lệ. Trong cuộc sống hàng ngày, bộn bề với công việc đủ loại: việc công, việc tư, chuyện cơ quan, chuyện gia đình con cái… với đủ áp lực, chúng ta đi đâu, ngồi ở đâu, với ai vẫn không thoát ra khỏi những gì đang đè nặng lên tâm trí của chúng ta. Những ý tưởng, kế hoạch, các hợp đồng kinh doanh, hay chuyến đi nghỉ lễ sắp tới, quà sinh nhật cho người yêu,…. là những rào cản che mất khiến ta không thực sự nhìn thấy người khác, hoặc thấy rõ họ dù họ đang ngồi cạnh ta. Ta có tập trung lắng nghe người khác chăng? Ta có hiểu người ấy muốn gì ở ta?

Chẳng hạn chúng ta có một người bạn bị ốm, hay đang gặp chuyện không hay, cần giúp đỡ. Tùy theo mức độ thân tình mà ta quan tâm và giúp đỡ theo khả năng của mình. Ta có thể giúp được rất nhiều từ vật chất đến tinh thần cho người bạn thân thiết ấy. Nhưng với một người lạ qua đường xin ta giúp đỡ, có bao nhiêu người trong chúng ta nghi ngại và do dự?

Và thử suy nghĩ xem có bao nhiêu phần trăm trong cách đáp ứng của chúng ta là do ý muốn giúp đỡ, gỡ rối, điều chỉnh sự khó khăn ấy theo cách của riêng ta? Hoặc giả ta làm việc gì đó chỉ để làm giảm bớt nỗi lo âu và buồn phiền của ta khi nhìn thấy người ta đau đớn hay bất hạnh? Cũng có thể ta đang tỏ ra tốt đẹp như chân dung tự họa của mình là một người tốt bụng, nhân ái, và sẵn sàng giúp đỡ. Có hay chăng việc ghi điểm với hi vọng rằng nếu ta giúp người lúc này, mai mốt họ sẽ đền đáp cho ta? Những động cơ rất vị kỷ để giúp đỡ ai đó được khoác tên lòng vị tha. Mà nếu ta thực sự có một ước muốn chân thành giúp người, hầu như không tránh khỏi những động cơ lẫn lộn ấy len lỏi ít nhiều vào suy nghĩ và hành động của ta.

Với những trợ giúp đến do nghề nghiệp, lại có thêm mức độ phức tạp. Nếu chúng ta quá chú trọng đến hình ảnh của chính mình với vai trò chuyên môn, ta có thể đang liên hệ với người khác qua lớp mặt nạ của nghề nghiệp. Thực sự chính ta với tư cách là một con người đang có mặt, hay chỉ là một y tá, bác sĩ., luật sư, giáo viên đang lên tiếng một cách máy móc theo chức trách nghề nghiệp?

Có khi sự giao tiếp giữa người với người trong lĩnh vực này còn tệ hơn Các bạn đã bao giờ chứng kiến một vị bác sĩ không buồn nghe bệnh nhân khai bệnh, và rất tiết kiệm lời han hỏi dù mới đầu buổi khám bệnh? Tôi đã không ít lần chứng kiến những cảnh này trong bệnh viện công và cả trong phòng khám tư. Một buổi chiều nọ tôi đi cùng một người bạn là bác sĩ ở tỉnh lẻ đưa một người thân, mắc một căn bệnh tim mạch nghiêm trọng đến phòng khám của một vị bác sĩ giáo sư chuyên khoa nổi tiếng ở Sài Gòn. Vì ở xa, chúng tôi vào muộn hơn nên có số phiếu hẹn khám cuối cùng của ngày hôm ấy. Sau khi chờ rất lâu mới đến lượt, người bạn là bác sĩ (vốn là học trò cũ từ xưa, chắc thầy không nhớ) đưa người thân của tôi vào khám. Tôi ngồi ở ngoài và có lẽ đến khi ấy vị bác sĩ đã quá mệt mỏi nên rất tiết kiệm lời. Ông ta nghe khai bệnh và hỏi không quá 3 câu với vẻ gắt gỏng, rồi lập tức ghi đơn cho thuốc, không thèm liếc mắt đến những hồ sơ kết luận bệnh án trước đó. Ra về người thân của tôi rất buồn rầu. Không phải vì tiền khám bệnh và thuốc mua tại đó rất đắt, nhưng thực sự người bệnh cảm thấy mình bị coi thường, không được giúp đỡ, trấn an khi vị bác sĩ ấy đang có mặt, và mất cả niềm tin vào cái gọi là “lương y như từ mẫu” của vị giáo sư bác sĩ đó.

sadness
Phải chăng ta đang sử dụng vai trò nghề nghiệp của minh như một cách tránh giao tiếp liên hệ với người khác theo nghĩa từ trái tim đến trái tim?

Một tình huống khó khăn khác là khi ai đó đang làm gì sai quấy, phạm pháp hay thiếu đạo đức, họ đang làm một điều gì khiến người khác bị tổn hại và đau khổ hay chính họ cũng đau khổ. Khi chúng ta tin rằng ta đúng và người khác sai, chúng ta sẽ phân hóa, phân cực, và rơi ngay vào cái bẫy của thói quen tự cho mình là chính trực, là đạo đức. Chính cách suy nghĩ này đã ngăn trở ta đặt mình vào hoàn cảnh của người và cảm thông với họ. Ví dụ, một người ăn cắp một số tiền của ta, ta có tìm hiểu lý do nào thúc đẩy anh ta làm như thế? Để tiêu xài thỏa thích, hay để mua thuốc cho đứa con bị ốm nặng…?

Thế thì chánh niệm có nghĩa là thụ động và để cho người khác tiếp tục đớn đau, hay tiếp tục gây ra rắc rối khó khăn trong cuộc đời họ? Tất nhiên là không!

Chánh niệm có vai trò vô cùng quan trọng vì chánh niệm làm sự sống có mặt trong giây phút hiện tại.. Chánh niệm là thành phần thứ bảy trong Bát Chánh Đạo. Chánh niệm là sự nhớ nghĩ chân chánh, là sự quán chiếu bốn đối tượng: thân, thọ, tâm, pháp, hay nói cách khác Chánh niệm chính là sự ý thức về tất cả các hiện tượng từ vật lý đến tâm lý đang xảy ra ở đây ngay trong giây phút hiện tại. Trong số các đặc tính của chánh niệm, xin nêu ra ở đây:

Chánh niệm là ý thức không có một cái ngã
Chánh niệm là một ý thức về sự thay đổi. (Thích Nhất Hạnh)

Theo Sunada, chánh niệm phải bắt đầu bằng sự tôn trọng nhân phẩm và lý luận của người khác. Như thế có nghĩa dù cho ta rất không đồng tình với việc làm của họ, ta vẫn phải cố gắng để hiểu xem tại sao họ làm như thế và hoàn cảnh nào đưa đẩy họ đến đó. Có nghĩa là tạm dừng quan điểm của mình và thực sự hiểu hoàn cảnh của người ta- không chỉ bằng trí óc mà bằng trái tim.

Có mặt trong chánh niệm cũng có nghĩa là loại bỏ những động cơ vị kỷ của ta đi. Hay nếu ta không thể làm được như thế, ít nhất ta có thể cố gắng tránh không dùng đến chúng như những tấm kính lọc qua đó chúng ta nhìn vào và xem xét hoàn cảnh, vấn đề của một người khác. Như thế cũng dẹp bỏ những nỗi sợ hãi của chúng ta. Cái gì đã ngăn cản ta mở lòng ra với người khác? Ta sợ mình bị tổn thương chăng? Hay ta sợ mắc phải sai lầm về nghề nghiệp? Thực sự, cái gì dựng lên một bức tường ngăn cách ta và người mà cơ bản rất giống ta?
giadinh

Tất nhiên có những lúc điều tốt nhất ta phải làm là bắt tay hành động trước khi có thêm những tổn hại nặng nề hơn. Ta cần làm việc này theo cách nào gây ra ít tổn hại nhất cho người trong cuộc, có liên quan. Và có lẽ ta cần hành động mạnh đối với người đó để ngăn cản họ không gây thêm điều xấu tổn hại nào hơn. Nhưng trước hết ta hãy đặt mình vào hoàn cảnh, thân phận của người ấy trong chốc lát, để suy nghĩ và hiểu người ta hơn.

Và trên hết, chánh niệm là kiên nhẫn. Phải thừa nhận rằng mọi thay đổi đều cần thời gian, và ta không thể bắt sự việc vận hành theo thời gian biểu của ta. Và có một số sự việc xảy ra vượt quá dự kiến và khả năng thay đổi của ta như thường thấy. Chẳng hạn, ta không thể bắt hoa nở theo ý muốn; có khi hoa chẳng nở mà còn héo úa. Nhưng chúng ta có thể vun xới tạo điều kiện tốt cho cây tốt và hoa nở thắm tươi. Như thế ta nên bón phân cho đất, cho cây hoa có nước và ánh sáng, dưỡng chất… Rồi ta kiên nhẫn chờ đợi…

Trở lại với sự có mặt như một tặng phẩm mà Thiền sư Nhất Hạnh đã nói. Phải chăng ta hãy luôn chánh niệm về sự có mặt thực sự của mình bên người khác trong từng giây phút, trong mỗi hoàn cảnh và vị trí. Ta cho đi sự có mặt trọn vẹn của ta khi đang đứng, ngồi ở đâu, làm việc gì với một hay nhiều người khác. Ta ngồi ở bàn, ăn một bữa cơm bình thường của gia đình. Ta đang chăm chú nghe một người thân giải bày tâm sự. Ta đang đứng trong lớp học giảng bài cho học sinh, hay đang bên giường bệnh nhân… Dẫu trong vai trò nào, ta cũng có thể dâng tặng sự có mặt của ta theo cách vun xới cây hoa, cho ánh sáng, nước và dưỡng chất… Và tiền đề quan trọng hơn cả, ấy là hãy rộng mở lòng mình, dẹp bỏ những thành kiến, nghi kỵ và trao tặng trái tim chân thực dễ bị tổn thương của chính ta cho người khác.

Huỳnh Huệ

Bagan – Myanmar

Kinh đô cổ đại Bagan
Kinh đô cổ đại Bagan

Tuy chỉ là một quốc gia nhỏ bé nằm khiêm tốn bên cạnh người láng giềng khổng lồ Thái Lan, Myanmar lại tự hào được sở hữu một trong những di chỉ khảo cổ lớn nhất, nổi tiếng nhất Đông Nam Á. Đó là Bagan (còn được gọi là Pagan) – cội nguồn của đất nước Miến Điện. Nếu tới Myanmar mà chưa tới Bagan thì chẳng khác nào kẻ khát nước chưa tìm được nguồn nước. Bagan chính là thành phố tôn giáo đặc biệt nhất trên thế giới. Hiện nay ở Bagan vẫn còn tồn tại tới 2.224 trong tổng số 4.446 ngôi đền được xây dựng từ thế kỷ 11 cho tới thế kỷ 13 – bộ bách khoa thư đồ sộ về kiến trúc cổ Miến Điện. Từng là thủ phủ của một vương quốc hùng mạnh, giờ đây Bagan chỉ là thành phố bị dòng chảy của xã hội văn minh “bỏ quên”, nằm lặng lẽ ở tả ngạn sông Ayeyawady hiền hòa. 

Theo lịch sử, trong 12 thế kỷ (kể từ năm 168), 55 vị vua đã kế tiếp nhau trị vì vùng đất này và người có công lớn nhất trong việc biến Bagan thành một trung tâm quyền lực, tôn giáo và kinh tế hưng thịnh là vua Anawrahta (1044 – 1077). Ông đã chinh phục vương quốc láng giềng Thaton, bắt hàng ngàn thợ thủ công Thaton về nước để xây dựng đền chùa, đưa đạo Phật thành quốc giáo. Cũng dưới triều đại Anawrahta, văn tự burman (miến điện cũ) ra đời. Truyền thuyết kể lại rằng, cứ một ngày, ở Bagan lại mọc lên 40 ngôi chùa và ngày nay, bất cứ du khách nào đặt chân tới Bagan cũng bị choáng ngợp trước tài năng của những người thợ vô danh khi xưa, và cả sự cuồng tín của một quốc gia: hàng vạn, có thể là hàng triệu người bỏ công sức, tiền bạc, của cải để dựng lên những công trình vĩ đại với mục đích duy nhất – ngợi ca công đức cùng những giáo lý của Phật tổ từ bi. 

Chùa Shwezigon
Chùa Shwezigon

Trong cái nóng nực, bụi bặm của miền trung Myanmar, dọc theo bờ sông Ayeyawady, từng cụm đền, chùa với những ngọn tháp nhọn hoắt như muốn chọc thủng cả bầu trời xanh ngắt hiện dần ra trước mắt, trên một vùng cao nguyên rộng lớn. Mỗi công trình mang một dáng vẻ, kiểu kiến trúc riêng biệt, hoàn toàn không có sự trùng lắp. Tuy nhiên, hầu hết đã mất đi màu trắng tinh khôi của lớp tường vôi ban đầu, thay vào đó là màu đỏ thẫm hoặc bị xỉn đi bởi lớp bụi dầy do những cơn gió dữ dội trong mùa khô mang tới. Không có nhiều màu xanh trên cao nguyên này, chỉ toàn cọ và những thân xương rồng khẳng khiu, đầy gai nhọn. Thỉnh thoảng mới có một cơn mưa ngắn ngủi, không đủ để gột rửa sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Hiếm hoi lắm mới thấy được ánh vàng rực rỡ còn sót trên một đỉnh chóp. Ấy vậy mà từ năm 1300, khi cư dân cuối cùng rời khỏi Bagan, những ngôi đền chùa này vẫn đứng sừng sững, trơ gan cùng tuế nguyệt, ngắm nhìn cảnh bể dâu, xem vật đổi sao dời. Một sự may mắn lớn dành cho hậu thế.

Với những người lần đầu tiên tới Bagan, có lẽ chùa Shwezigon nằm ở khu vực ngoại ô là thắng cảnh để lại nhiều ấn tượng nhất. Bản thân nó cũng giữ một vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống chùa ở Myanmar, chẳng kém gì Chùa Vàng (Shwedagon) ở thủ đô Yangon. Shwezigon là ngôi chùa đầu tiên của quốc gia Miến Điện xưa được xây dựng theo lối kiến trúc Phật giáo tiểu thừa. Hơn thế, nó còn là nơi lưu giữ Xá lợi phật – bao gồm hai mẩu xương và phiên bản của một chiếc răng.

Những điều bí ẩn ở ngôi chùa này cho đến ngày nay vẫn làm đau đầu các nhà khoa học, còn hàng triệu lượt du khách đến viếng thăm Shwezigon chỉ biết lắc đầu khâm phục mà thôi. Bạn có biết rằng, dù là sáng, trưa hay chiều, chiếc bóng khổng lồ của Shwezigon chẳng bao giờ đổ qua bốn bức tường bao bọc. Và bất chấp những cơn gió cuồn cuộn, vô số mẩu giấy rơi xuống từ đỉnh tháp dát vàng cũng không bao giờ bay qua những bức tường kia. Đó thực sự là một ranh giới vô hình ngăn cách Shwezigon với thế giới phàm tục bên ngoài. Và bất cứ ai đã một lần tới đây cũng phải thừa nhận, dù lượng khách viếng thăm Shwezigon có nhiều tới cỡ nào thì họ cũng không hề cảm nhận được sự đông đúc trong bốn bức tường bao. Luôn là cảm giác vắng vẻ, u tịch của chốn đình viện thâm nghiêm. Không chỉ có vậy, trong các dịp lễ hội cử hành ở đây, người ta đã phát hiện ra rằng, đứng ở phía bên này của chùa thì chẳng thể nghe thấy bất cứ một âm thanh nào từ phía bên kia, kể cả tiếng trống rền vang. Và ngay cả những trận mưa dầm dề kéo dài hàng tuần cũng không thể làm nước đọng lại ở bất cứ góc nhỏ nào trên khoảng sân trong của chùa. Còn cây sơn trà trồng ở góc chùa phía Đông Nam thì tươi tốt và ra hoa quanh năm. Điều cuối cùng là dù được xây trên khoảng đất bằng nhưng nhìn từ xa, du khách luôn có cảm giác chùa đứng sừng sững trên một ngọn đồi nhỏ. Thật là kỳ diệu. 

Đền Anada
Đền Anada

Hai ngôi đền nổi tiếng nhất ở Bagan là Anada va Thatbynnyu. Cả hai đều được xây vào cuối thế kỷ 11, trong đó Thatbynnyu với chiều cao 62m là ngôi đền cao nhất và Anada – chịu nhiều ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ – là ngôi đền đẹp và hài hòa nhất. Cái tên Anada bắt nguồn từ Anata, tức là sự sáng suốt vô tận của Phật tổ. Du khách đến với Anada và Thatbynnyu không chỉ để chiêm ngưỡng vẻ tráng lệ của hai ngôi đền này mà còn để thưởng thức cảnh hoàng hôn tuyệt đẹp trên cao nguyên Bagan. Mặt trời khuất dần sau những ngọn đồi phía xa, ráng chiều đỏ rực phủ lên những hoang tàn, đổ nát của muôn vàn đền đài càng làm tăng thêm vẻ cô liêu, hoang vắng. Trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ đó, con người chợt cảm thấy mình nhỏ nhoi biết nhường nào…

Loan Sabaru

Chào Mừng Ngày Thánh Patrick

st-patrick1

st-patrick2

Chào các bạn,

Cuối tuần lễ vừa rồi rất nhiều nơi trên thế giới có nhiều cuộc diễn hành và lễ hội, ở khuôn viên các trường đại học lớn, các công viên công cộng, tại Mỹ, Canada, Úc, Anh và New Zealand, để chào mừng Ngày Thánh Patrick, mà ngày chính thức là hôm nay, 17 tháng 3, 2009.

Đây là một vài hình ảnh của ngày thánh Patrick tại New Haven Green, trường đại học Yale, Connecticut, USA. Chúng ta cùng tìm hiểu về ngày thánh Patrick nhé.

Ngày Thánh Patrick

Ngày Thánh Patrick vào 17 tháng 3, hay thường được gọi bông đùa là ngày Anh chàng Ailen, là lễ hội hàng năm tưởng nhớ thánh Patrick, thánh hộ mệnh của xứ Ailen (Ireland) và người Ailen. Đây là ngày quốc khánh của Ailen. Ở các nơi khác trên thể giới, ngày 17 tháng 3 là ngày nghỉ lể chính thức ở Montserrat, và là ngày lễ tôn giáo ở Anh, Mỹ, Úc và New Zealand.

st-patrick3

st-patrick4

Lịch sử Ngày Thánh Patrick

Thánh Patrick sinh năm 385 và mất năm 461. Là người gốc Anh, ông bị bắt làm nô lệ ở Ailen khi mới 16 tuổi, ông trốn thoát, trở về Anh với gia đình, và sau đó quay lại Ailen để truyền giáo, và cải hóa Ailen thành một nước theo đạo Thiên Chúa. Tới thế kỷ thứ 8, ông thành vị thánh hộ mệnh của Ailen.

Tới thế kỷ mười bảy, ngày 17 tháng 3 được chọn làm ngày lễ chính thức để tưởng nhớ thánh Patrick trong giáo hội Công giáo La-mã. Ngày lễ này thường rơi vào mùa chay (Lent) là mùa lễ cầu nguyện, ăn chay và sám hối, chuẩn bị cho lễ phục sinh của chúa Giê- su. Nếu ngày Patrick rơi vào ngày thứ sáu, việc cấm ăn thịt là bắt buộc và chỉ có giám mục mới có quyền cho phép ngoại lệ. Tùy theo năm, ngày lễ Patrick thực tế đôi khi cũng có sự thay đổi nếu ngày này trùng với các ngày lễ thánh khác trong luật Công giáo La-mã.

st-patrick5

Màu xanh Ailen

Rất dễ nhận thấy màu xanh Ailen tràn ngập trên con người Ailen và đất nước Ailen trong các dịp lễ hội– quần áo, cờ, tóc giả, giải bóng đá, thể hiện niềm tin, hy vọng. Nhưng không phải ai cũng biết rằng tất cả màu xanh đó bắt đầu từ ngày lễ thánh Patrick.

st-patrick61

Ngày xưa, thánh Patrick đã dùng cây “cỏ ba lá” để giải thích ý nghĩa của Chúa Ba Ngôi (Cha, Con và Thánh thần) cho những người Ailen khi ông truyền đạo. Dọc theo lịch sử Ailen, cụm từ “Mặc màu xanh” đã trở nên rất phổ biến, có nghĩa là mặc, trang điểm “màu xanh Ailen”, “cỏ ba lá” (Shamrock) trên quần áo đầu tóc, thể hiện tình yêu dân tộc hay niềm tin tôn giáo trong người Ailen. Sự tràn ngập “cỏ ba lá”, màu xanh Ailen, và các nét văn hóa Ailen, là điểm nhấn rõ nét trong lễ thánh Patrick trên toàn thế giới.

Chúc các bạn một ngày xanh Ailen. 🙂

Nguyễn Minh Hiển

Lễ hội Té nước

Lễ hội Té nước Songkran ở Thái Lan
Lễ hội Té nước Songkran ở Thái Lan

Khác với Tết Nguyên Đán của Việt Nam rơi vào tháng giêng âm lịch, Tết Nguyên Đán của một số quốc gia thuộc vùng Đông Nam Á, gọi là Chol Chnam Thmay ở Campuchia, Songkran ở  Thái Lan, và Bunpimay ở Lào, rơi vào tháng 4 Dương Lịch hàng năm, kéo dài 3 ngày–từ 13/4 đến 15/4. Đây là Tết theo Phật Lịch do ở Campuchia, Thái Lan, Lào, Đạo Phật từ lâu đã trở thành quốc đạo.

Trong ngày Tết cổ truyền này, người ta tổ chức lễ hội té nước để cầu may, bình yên cho cả năm. Lễ hội này mang ý nghĩa đem lại sự mát mẻ, phồn vinh cho vạn vật, ấm no hạnh phúc, thanh khiết hóa cuộc sống của con người.

Người dân mang hoa tươi, đồ lễ lên chùa nghe giảng kinh từ sáng sớm, rồi thực hiện nghi thức tắm Phật, cắm cờ hoa lên bảo tháp bằng cát và đổ ra đường phố, lấy nước tạt nhau chúc mừng năm mới. Thay cho lời chúc may mắn đầu năm, người dân sẽ tưng bừng chào đón năm mới với nghi thức dội nước lên người nhau. 

Người dân Capuchia múc nước từ ao hồ lên để té nhau
Người dân Capuchia múc nước từ ao hồ lên để té nhau

Tết té nước Songkran của Thái Lan mang nhiều tính chất cộng đồng. Mọi người dùng tất cả vật dụng chứa được nước thi nhau té nước vào nhau. Bất kể là ai đều có thể té nước mà không sợ bị mắng và té nước càng nhiều, năm mới càng gặp may mắn, thành đạt. Ngoài té nước, người Thái còn bôi bột mì lên mặt, lên đồ vật để trừ tà ma, xua đi rủi ro trong cuộc sống. Hoàng cung Thái và chùa Vàng những ngày này càng thêm lộng lẫy, đông vui bởi người dân sẽ lên chùa dự lễ cầu bình an cho năm mới, hoa tươi được treo khắp nơi. 

Bên cạnh đó, không khí đón Tết cổ truyền của Campuchia tưng bừng và náo nhiệt không kém. Không khí vui nhộn, đèn hoa sáng rực ở các chùa và khắp các ngả đường dẫn đến Hoàng Cung. Thủ đô Phnôm Pênh, nhà nhà treo đèn kết hoa lộng lẫy, người dân tham gia vào các hoạt động lễ hội đường phố lễ té nước, bôi bột màu…Trước những ngôi chùa, mọi người đắp những núi cát nhỏ với mong muốn xây dựng những điều tốt đẹp.

Một cảnh té nước trong Tết Lào tại Luông Pra Băng
Một cảnh té nước trong Tết Lào

Ở Lào, vào buổi chiều, người dân trong làng tập trung ở chùa để làm lễ cúng Phật, cầu nguyện, nghe các nhà sư giảng đạo. Sau đó, người ta rước tượng Phật ra một gian riêng trong ba ngày và mở cửa để mọi người có thể vào tắm Phật. Nước thơm sau khi tưới lên các tượng Phật sẽ được hứng lại đem về nhà để sức vào người làm phước. Người ta còn té nước vào các nhà sư, chùa và cây cối xung quanh chùa. Để tỏ lòng tôn kính, người trẻ tuổi té nước những người lớn tuổi để chúc sống lâu và thịnh vượng. Bạn bè té nước vào nhau. Họ không chỉ té nước vào người mà còn vào nhà cửa, đồ thờ cúng, súc vật và công cụ sản xuất. Người Lào tin rằng nước sẽ giúp gột rửa điều xấu xa, bệnh tật và cầu chúc năm mới sống lâu, sạch sẽ và mạnh khỏe. Tục lệ té nước trong ngày tết của Lào cũng có phần do thời tiết nóng bức (tháng 4 là thời điểm nóng nhất ở Lào). Trước khi té nước cho nhau, người ta thường dành cho nhau những lời chúc tốt lành.

Loan Subaru

Brunei

Brunei

Negara Brunei Darussalam, thường được gọi là Vương quốc Hồi giáo Brunei hay đơn giản là Brunei, là một nước nằm trên đảo Borneo, ở Đông Nam Á. Nước Brunei giàu dầu lửa và khí gas, một thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) và thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh. Về mặt chính trị và chính phủ: người đứng đầu nhà nước và chính phủ Brunei là Vua Hassanal Bolkiah.

Theo tiếng Malay, Brunei Darussalam có nghĩa là Nơi ở của hoà bình. Diện tích toàn đất nước là 5.765 km2, dân số khoảng 380.000 người, được hình thành cuối thế kỷ 14. Nằm lọt thỏm giữa đảo Borneo của Malaysia và nhìn ra biển Đông, Brunei có trên 75% diện tích là rừng cây nên thành phố và rừng gần gũi, hài hòa. Người ta có lý khi ví Brunei là “hòn ngọc xanh” của Đông Nam Á. Không có những tòa nhà chọc trời, không có những quán cóc bên đường, không có bóng một chiếc xe máy hay xe đạp nào, rất ít thấy người rảo bộ trên đường phố… Brunei Darussalam thật yên bình đúng với tên gọi của nó.

Một trong những ấn tượng đầu tiên ở Brunei là giao thông. Thành phố toàn xe hơi (thống kê: mỗi gia đình bình quân sở hữu ba xe hơi!). Tuy nhiều xe hơi và chạy với tốc độ khá cao, chủ nhân của những chiếc xe không bao giờ tranh cướp đường, không một tiếng còi xe, và họ kiên nhẫn chờ đợi để đến lượt rẽ vào phần đường của mình. Khi bạn muốn qua đường, họ sẵn sàng dừng lại, cười rất thân thiện, ra hiệu rất lịch sự và nhường đường cho bạn.

Tuy nhiên, vì quá nhiều xe hơi, nên rất ít xe bus và taxi (trung bình chỉ có 50,000 chiếc taxi trong toàn Brunei). Do đó, rất khó để bạn có thể đón một chiếc taxi khi cần. Tôi may mắn có dịp đến Brunei vào kỳ nghỉ Tết Nguyên Đán năm 2008. Ngày đầu tiên, loay hoay mãi không bắt được taxi, chờ mãi mới gặp được và hỏi một người đi đường: “Làm thế nào để bắt được taxi?” (How can I catch a taxi?), thì ông ấy cười và trả lời rất hóm hỉnh: “Bạn phải chạy theo để bắt được taxi” (You have to run to catch it!!!). Và sau đó…ông ấy dùng điện thoại công cộng để gọi taxi giúp tôi! 🙂

Thánh đường Hồi giáo
Thánh đường Hồi giáo

 Vì Đạo Hồi là tôn giáo chính thức của Brunei, Brunei có rất nhiều thánh đường Hồi giáo (với hơn 100 thánh đường), với kiến trúc đặc trưng là mái hình chóp với hai màu trắng – vàng. Các thánh đường rất lộng lẫy, các chóp mái dát vàng – đỉnh chóp thường bằng vàng ròng.

Nhiều người biết rõ là trong tháng Ramadhan những người theo đạo Hồi không ăn, không uống từ khi mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn. Vì thế nếu bạn là người nước ngoài có mặt ở đây vào tháng này, để tôn trọng họ, bạn nên tránh ăn uống trước mặt họ. Kết thúc tháng Ramadhan là bắt đầu bốn ngày lễ truyền thống được tổ chức hàng năm của Brunei gọi là Hari Raya Aidilfitri. Ngày đầu tiên của Hari Raya là sự xum họp của con cháu trong gia đình, họ hàng. Sang ngày thứ hai gọi là ngày Mở cửa (Open house), mỗi gia đình đều chuẩn bị các món ăn dân tộc để thết đãi khách và bạn bè đến “xông nhà”. Tuy nhiên khi đến nơi bạn nhớ quan sát xem đâu là bàn ăn dành cho phái nữ, đâu là bàn ăn dành cho phái nam, vì theo luật Hồi giáo, trong các bữa tiệc công cộng nam nữ không được ngồi ăn chung cùng bàn (kể cả trong tiệc cưới cũng vậy). Cũng trong ngày thứ hai của lễ này, Hoàng cung Brunei bắt đầu mở cửa trong ba ngày để đón tất cả mọi người vào thăm. Khách thăm có vinh dự được bắt tay Quốc vương, Hoàng hậu cùng các thành viên trong gia đình Hoàng gia…

Kampong Ayer
Kampong Ayer

Nếu đến Brunei mà không đến thăm Kampong Ayer (Water Village: Làng nổi) – nơi được mệnh danh là “Venice của Phương Đông” – thì có nghĩa bạn chưa bao giờ đến Brunei. Chỉ 10 phút đi bằng thuyền máy từ bất cứ bến thuyền nào trên sông, bạn sẽ tới một ngôi làng trên mặt nước khá rộng và nổi tiếng thế giới, nơi có 600 năm tuổi với gần 500 căn hộ , khoảng 30.000 cư dân sinh sống. Trường học, thánh đường, bệnh viện, cơ quan hành chính… cũng là những nhà nổi. Trước mỗi nhà đều có cầu tàu cho thuyền cập. Đây thực sự là biểu tượng của truyền thống văn hóa lâu đời và là niềm tự hào của người dân Brunei.

Loan Subaru

Trà Đạo Nhật Bản

Nghi Lễ Trà Đạo
Nghi Lễ Trà Đạo

Có lẽ, một trong những nét văn hóa đặc sắc nhất của Nhật Bản là Trà Đạo – một loại nghệ thuật thưởng thức trà. Gọi là “nghệ thuật”, bởi lẽ việc uống trà của người Nhật thực sự mang tính nghệ thuật rất cao, đồng thời cũng mang phong cách sống của người dân Nhật.

Theo truyền thuyết, vào khoảng thế kỷ 12, có nhà sư Eisai sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài mang theo một số hạt trà về trồng và phổ biến tác dụng của trà cùng với cách thức uống trà. Thời kì sau đó, trà được sử dụng phổ biến trong giới quý tộc.

Đến thế kỉ 14, một nhà sư tên là Murata Juko đưa văn hóa uống trà thành nghệ thuật. Với tư cách là một nhà sư, ông rất coi trọng cuộc sống tinh thần. Ông tìm thấy vẻ đẹp giản dị trong văn hóa uống trà hòa cùng với tinh thần Thiền – Zen trong Phật Giáo. Từ đó Trà đạo ra đời.

Từ uống trà, cách uống trà, rồi nghi thức uống trà cho đến trà đạo là một tiến trình không ngưng nghỉ mà cái đích cuối cùng người Nhật muốn hướng tới đó là cải biến tục uống trà du nhập từ ngoại quốc trở thành một tôn giáo trong nghệ thuật sống của chính dân tộc mình, một đạo với ý nghĩa đích thực của từ này. Hiển nhiên ở đây trà đạo, không đơn thuần là con đường, phép tắc uống trà, mà trên hết là một phương tiện hữu hiệu nhằm làm trong sạch tâm hồn bằng cách hòa mình với thiên nhiên, từ đó tu tâm dưỡng tính để đạt giác ngộ.

Trà viên
Trà viên

Tinh thần của trà đạo được biết đến qua bốn chữ “Hoà, Kính, Thanh, Tịch”.

“Hòa” có nghĩa hài hòa, hòa hợp, giao hòa. Đó là sự hài hòa giữa trà nhân với trà thất, sự hòa hợp giữa các trà nhân với nhau, sự hài hòa giữa trà nhân với các dụng cụ pha trà.

“Kính” là lòng kính trọng, sự tôn kính của trà nhân với mọi sự vật và con người, là sự tri ân cuộc sống. Lòng kính trọng được nảy sinh khi tinh thần của trà nhân vươn tới sự hài hòa hoàn toàn.

Khi lòng tôn kính với vạn vật đạt tới sự không phân biệt thì tấm lòng trở nên thanh thản, yên tĩnh. Đó là ý nghĩa của chữ “Thanh”.

Khi lòng thanh thản, yên tĩnh hoàn toàn thì toàn bộ thế giới trở nên tịch lặng, dù sống giữa muôn người cũng như sống giữa nơi am thất vắng vẻ tịch liêu. Lúc đó, thế giới với con người không còn là hai, mà cả hai đều vắng bặt. Đó là ý nghĩa của chữ “Tịch”.

Bốn chữ “Hòa, Kính, Thanh, Tịch” như một thước đo bản thân vị trà nhân đang ở vị trí nào trên con đường Trà đạo.

Để có thể tiến hành những nghi thức Trà đạo đúng nghĩa, cần phải có một không gian thanh tịnh và hoài hòa với cảnh sắc thiên nhiên. Đáp ứng những tiêu chuẩn đó mà dần hình thành hai không gian thưởng trà chính, đó là Trà Viên và Trà Thất.

Trà Viên: là một khu vườn được thiết kế phù hợp với việc ngắm hoa, và thưởng thức trà. Trà viên đòi hỏi bố cục khu vườn phải tinh tế, làm cho khu vườn vẫn giữ được nét tự nhiên.

Trà thất
Trà thất

Trà thất: là một căn phòng nhỏ dành riêng cho việc uống trà, nó còn được gọi là “nhà không”. Đó là một căn nhà mỏng manh với một mái tranh đơn sơ ẩn sau một khu vườn. Cảnh sắc trong vườn không loè loẹt mà chỉ có màu nhạt, gợi lên sự tĩnh lặng. Trà thất làm ta nghĩ đến cái vô thường và trống rỗng của mọi sự.

Trà thất không có một vẻ gì là chắc chắn hay cân đối trong lối kiến trúc, vì đối với Thiền, sự cân đối là chết, là thiếu tự nhiên, nó quá toàn bích không còn chỗ nào cho sự phát triển và đổi thay. Điều thiết yếu là ngôi Trà thất phải hòa nhịp với cảnh vật chung quanh, tự nhiên như cây cối và những tảng đá. Lối vào Trà thất nhỏ và thấp đến nỗi người nào bước vào nhà cần phải cúi đầu xuống trong vẻ khiêm cung, thể hiện sự bình đẳng, không phân biệt giai cấp. Ngay trong Trà thất cũng ngự trị một bầu không khí lặng lẽ cô tịch, không có màu sắc rực rỡ, chỉ có màu vàng nhạt của tấm thảm rơm và màu tro nhạt của những bức vách bằng giấy.

Tokonoma: một góc phòng được trang trí và hơi thụt vào trong so với vách tường. Tokonoma là một trong bốn nhân tố thiết yếu tạo nên phòng khách chính của một căn nhà. Có một vài dấu hiệu để biết đâu là tokonoma. Thông thường, có một khu vực để treo tranh hoặc một bức thư pháp. Hay có một cái giá nhỏ để đặt hoa, có thể là một chiếc bình, có thể nhìn thấy một hộp hương trầm. Khi bước vào một trà thất, người ta thường quỳ và ngắm tokonoma một lát. Thiền gây ảnh hưởng đến tokonoma lẫn chabana… chỉ khi chúng ta chú tâm đến những chi tiết nhỏ bé trong cuộc sống thì mới thấy vẻ đẹp trong những điều giản dị.

tradao4

Chabana: phong cách cắm hoa đơn giản mà thanh lịch của Trà đạo, có nguồn gốc sâu xa từ việc nghi thức hóa Ikebana. Phong cách của chabana là không có bất kỳ qui tắc chính thức nào để trở thành chuẩn mực cho nghệ thuật cắm hoa trong trà thất. Hoa thể hiện tình cảm của chủ nhà trong một buổi tiệc trà. Hoa được cắm trong một chiếc bình hoặc một cái lọ mộc mạc với phong cách thay đổi theo mùa. Hoa trong phòng trà gợi được cho người ngắm cảm giác như đang đứng giữa khu vườn tự nhiên.

Kakejiku: có thể là một bức tranh treo tường, một bức thư pháp hoặc là sự kết hợp cả tranh và chữ (thư họa) ở tokonoma. Những bức thư pháp treo tại tokonoma thường mang nghĩa sâu xa, có thể là một công án Thiền tông. Chẳng hạn: “Bình thường tâm thị đạo” hoặc đơn giản chỉ là một chữ “Vô”

Đạo cụ dùng trong Trà Đạo: trà, nước pha trà, ấm nước, ấm nước, lò nhỏ, chén trà, hủ đựng trà, khăn nhỏ, muỗng múc trà, gáo múc trà, bình trà, tách trà và bánh ngọt.

Nước pha trà là nước suối, nước mưa hay nước đã qua khâu tinh lọc. Khi pha trà, người ta lấy nước ở tầng giữa của ấm vì tầng giữa tượng trưng cho Hiện Tại (Tầng dưới -sát đáy ấm- là Quá Khứ, tầng trên cùng là Tương Lai)

Bánh ngọt trong Trà Đạo: Dùng bánh trước khi uống trà sẽ làm cho khách cảm thấy hương vị đậm đà đặc sắc của trà. Trong những lễ hội 4 mùa, người Nhật làm những chiếc bánh hình dáng nhỏ nhắn để thể hiện phong vị thiên nhiên. Bánh truyền thống nổi tiếng được lấy cảm hứng từ vẻ đẹp thiên nhiên, bốn mùa, từ thơ Waka, Haiku (là các thể thơ cổ của Nhật Bản) và cảm hứng từ quê hương.

Loan Subaru

Con đường hỏi gì?

trail-speak-1

Mỗi ngày chúng ta đi trên đường–đến trường, đi làm, tới văn phòng, đi chợ. Con đường có nói gì với bạn không?

Ở một thị trấn nhỏ bé tại Mỹ, anh Chapin Spencer và chị Rebecca Granis đặt tấm biển ngộ nghĩnh này “Điều gì bạn cho là tốt nhất để thị trấn Burlington của chúng ta tốt đẹp hơn” . Anh chị thu thập câu trả lời và đăng tại website: http://trailspeak.blogspot.com/

trail-speak-2

Đây là một câu chuyện đang diễn ra, ngay lúc này. Và có rất nhiều người tham gia trả lời 🙂

“Điều cụ thể nào tốt nhất để thành phố ta ở tốt đẹp hơn?”, “Điều gì để căn nhà ta ở tiện dụng hơn?”, “Điều gì để trường học ta tốt đẹp hơn?”.

Ta hãy bắt đầu bằng những câu hỏi tích cực, và ta sẽ có những câu trả lời tích cực. Đôi khi, câu trả lời không đến ngay tức thì. nhưng bạn đã thành người tích cực hơn chỉ với một câu hỏi. Và câu trả lời sẽ đến, đôi khi rất bất ngờ nếu ta tiếp tục hỏi.

Ngày hôm nay, chúng ta hãy hỏi một câu hỏi tích cực, bạn nhé.

“Điều cụ thể nào hay nhất để làm thành phố của bạn tốt hơn?”

Câu này đang là Câu Hỏi Tích Cực trên trang nhà của dotchuoinon.

Bạn có thể click vào đây để trả lời.

Chúc bạn một ngày tươi hồng!

Nguyễn Minh Hiển

Ngày Quốc Tế Phụ Nữ

Women's Liberation
Ngày Quốc tế Phụ Nữ (mồng 8 tháng 3) là một dịp được ghi dấu bởi những hiệp hội phụ nữ trên toàn thế giới. Ngày này cũng được Liên Hiệp Quốc kỷ niệm và được xem như ngày lễ quốc gia ở nhiều nước. Khi phụ nữ trên tất cả các châu lục, bị chia cắt bởi những khác biệt về biên giới quốc gia, chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa, kinh tế và chính trị, cùng nhau kỷ niệm Ngày của mình, họ có thể nhìn lại truyền thống tiêu biểu cho ít nhất chin thập kỷ đấu tranh vì sự bình đẳng, công bằng, hòa bình và phát triển.

Ngày Quốc tế Phụ nữ là câu chuyện về những người phụ nữ bình thường đã tạo nên những dấu ấn lịch sử; nó bắt nguồn từ cuộc đấu tranh hàng thế kỷ của phụ nữ để tham gia vào xã hội một cách bình đẳng như nam giới. Vào thời Hy Lạp cổ đại, Lysistrata đã khởi đầu một cuộc biểu tình của nữ giới yêu cầu chấm dứt chiến tranh; suốt Cách Mạng Pháp, những người phụ nữ Paris đã diễu hành ở Versailles, kêu gọi cho “Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái”, và đòi quyền được bỏ phiếu của phụ nữ.

Ý tưởng về Ngày Quốc tế Phụ nữ đầu tiên nảy sinh vào thời điểm chuyển đổi thế kỷ, khi thế giới công nghiệp đang trong giai đoạn bành trướng và hỗn loạn của bùng nổ dân số và các ý thức hệ cấp tiến. Sau đây là tóm tắt theo cột mốc thời gian những sự kiện quan trọng nhất:

Đòi Quyền Phụ Nữ Trước Nhà Trắng
Đòi Quyền Phụ Nữ trước Nhà Trắng

1909

Cùng với tuyên bố của Đảng Xã Hội Mỹ, ngày Phụ nữ Quốc gia đầu tiên được kỷ niệm trên toàn Liên Bang Hoa Kỳ là ngày 28 tháng hai. Phụ nữ tiếp tục kỷ niệm nó đến ngày chủ nhật cuối cùng của tháng hai năm 1913.

1910

Quốc tế Xã hội họp tại Copenhagen, thiết lập một Ngày Phụ Nữ mang tính quốc tế để vinh danh phong trào đòi những quyền phụ nữ và hỗ trợ quyền bầu cử phổ thông cho phụ nữ. Đề nghị được chào đón với sự nhất trí tán thành tại hội nghị của hơn 100 phụ nữ đến từ 17 nước, gồm cả ba người phụ nữ đầu tiên được bầu vào quốc hội Phần Lan. Chưa có ngày cố định được chọn để kỷ niệm.

1911

Như kết quả của quyết định tại Copenhagen năm trước, Ngày Quốc tế Phụ nữ lần đầu tiên được ghi nhận (19 tháng ba) tại Áo, Đan Mạch, Đức và Thụy Sĩ, nơi hơn một triệu phụ nữ và nam giới tham dự đại hội. Bên cạnh quyền bầu cử và đảm nhiệm những công việc văn phòng chính phủ, họ đã yêu cầu quyền làm việc, học nghề và chấm dứt phân biệt trong công việc.

Chưa đầy một tuần sau đó, vào ngày 25 tháng ba, thảm họa tại Triangle Fire, New York đã lấy đi sinh mạng của hơn 140 nữ công nhân, phần lớn là những người nhập cư gốc Ý và Do Thái. Sự kiện này có một ảnh hưởng quan trọng đến luật lao động của Hoa Kỳ, và những điều kiện làm việc dẫn đến thảm họa đã được viện dẫn trong suốt những lễ kỷ niệm sau đó của Ngày Quốc tế Phụ Nữ.

1913-1914

Như một phần của phong trào hòa bình đã tích tụ từ buổi đêm của cuộc Chiến tranh Thế giới I, những người phụ nữ Nga kỷ niệm Ngày Quốc tế Phụ nữ đầu tiên vào ngày chủ nhật cuối cùng của tháng hai năm 1913. Ở những nơi khác trên châu Âu, vào đúng ngày 8 tháng ba hoặc những ngày gần đó của năm sau đó, phụ nữ đã tập hợp để chống chiến tranh và để bày tỏ tinh thần đoàn kết giữa các chị em.

Đòi Quyền Phụ Nữ ở Pakistan
Đòi Quyền Phụ Nữ ở Pakistan

1917

Với hai triệu người lính Nga tử trận, những người phụ nữ Nga một lần nữa đã chọn ngày chủ nhật cuối cùng của tháng hai để biểu tình vì “bánh mì và hòa bình”. Những nhà lãnh đạo chính trị phản đối thời điểm của cuộc biểu tình, nhưng những người phụ nữ vẫn tiến hành dù thế nào. Phần còn lại là lịch sử: Bốn ngày sau đó, Sa hoàng bị buộc thoái ngôi và chính phủ lâm thời đã trao cho phụ nữ quyền bầu cử. Ngày chủ nhật lịch sử đó là ngày 23 tháng hai theo lịch Julian được sử dụng ở Nga thời đó, nhưng là ngày 8 tháng ba theo lịch Gregorian ở những nơi khác.

Ngay từ những năm đầu, ngày Quốc tế Phụ nữ đã được xem như một chiều hướng mới trên toàn cầu cho phụ nữ ở các nước phát triển và đang phát triển. Sự lớn mạnh của phong trào phụ nữ quốc tế, được hỗ trợ bởi bốn hội nghị phụ nữ toàn cầu của Liên Hiệp Quốc, đã làm cho việc kỷ niệm trở thành một điểm tập hợp của những nỗ lực liên kết đòi quyền phụ nữ và sự tham gia vào quá trình chính trị và kinh tế. Càng ngày, ngày Quốc tế Phụ nữ là một thời điểm để nhìn lại những bước tiến đã qua, kêu gọi những thay đổi và kỷ niệm những hành động dũng cảm và quyết đoán của những người phụ nữ bình thường, những người đóng một vai trò đặc biệt trong lịch sử của quyền phụ nữ.

Vai trò của Liên Hiệp Quốc

Những mục tiêu được Liên Hiệp Quốc thúc đẩy đã tạo ra những ủng hộ mạnh mẽ và lan rộng hơn cho chiến dịch xúc tiến và bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ. Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, được ký tại San Francisco năm 1945, là hiệp định đầu tiên công bố bình đẳng giới như một nhân quyền cơ bản. Từ đó, tổ chức đã giúp tạo nên một di sản lịch sử về những chiến lược ưng thuận quốc tế, những tiêu chuẩn, chương trình và mục tiêu để nâng cao vai trò người phụ nữ trên toàn thế giới.

Trong nhiều năm, hoạt đông của Liên Hiệp Quốc vì sự tiến bộ của phụ nữ đã có bốn định hướng rõ ràng: thúc đẩy về những phương sách luật pháp, huy động ý kiến công chúng và hoạt động quốc tế; đào tạo và nghiên cứu, bao gồm biên soạn những thống kê về xóa bỏ phân biệt chủng tộc về giới và hướng đến hỗ trợ những nhóm bất lợi (khó khăn). Ngày nay, một nguyên tắc tổ chức trọng tâm của công việc ở Liên Hiệp Quốc là không có giải pháp dài hạn nào cho những vấn nạn gay cấn nhất của xã hội về mặt xã hội, kinh tế, chính trị có thể tìm thấy được nếu không có sự tham gia đầy đủ, và sự trao quyền đầy đủ của thế giới phụ nữ.

Thùy Dương (theo Website Liên Hiệp Quốc)

http://www.un.org/ecosocdev/geninfo/women/womday97.htm

Mẹ … và … con gái

me-con
“Bi kịch là, bất bình thường chính là bình thường.” Đọt Chuối Non

Có lẽ các gia đình đều gặp vấn đề liên quan đến “Khoảng – cách – giữa – hai – thế – hệ”. “Khoảng – cách” đó có thể là sự khác biệt về tư duy, quan niệm, nhận thức, lối sống giữa ba mẹ và con cái…Kết quả của sự “khác biệt” này thường dẫn đến những xung đột, bất hòa giữa hai thế hệ. Vậy bạn có bao giờ gặp vấn đề tương tự không? Cách giải quyết của bạn sẽ như thế nào?

Bản thân tôi cũng từng trải nghiệm vấn đề này trong chính gia đình của mình…

Mẹ tôi sinh ra và lớn lên trong gia đình làm quan, nên bị ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng phong kiến. Vỉ thế, mẹ cũng đã áp đặt cách suy nghĩ truyền thống, cứng nhắc đó; uốn nắn và giáo dục con cái theo lối sống quy tắc của chính mình.

Gia đình tôi có năm người: mẹ tôi, hai anh trai, một chị gái và tôi là con út. Dĩ nhiên mọi người đều nhận được sự thương yêu của mẹ. Tuy nhiên, có vẻ như tình cảm mẹ dành cho hai anh trai (anh cả và anh kế tôi) vẫn nhiều hơn, đặc biệt hơn, nếu so sánh với chị tôi và tôi. Các vấn đề quan trọng trong gia đình, mẹ chỉ bàn bạc với các anh, mà không nghĩ rằng: nếu tôi và chị gái cùng tham gia, bàn luận, hai chị em tôi có thể đưa ra những ý kiến hay, hoặc cách giải quyết tốt hơn và thông minh hơn giúp giải quyết vấn đề. Thế nên, nhiều lúc, tôi cảm thấy rất buồn, nhưng chẳng làm gì được hơn. Vì tôi biết rằng: thay đổi cách suy nghĩ của mẹ không phải là điều dễ dàng.
me-cho-con
Nhớ lại thời thi đại học, bốn anh chị em tôi chẳng được quyền lựa chọn thi vào trường mình thích. Mẹ tôi rất thích trong gia đình có con là bác sĩ, nên cả bốn anh chị em tôi đều bị ép học để thi vào trường ĐH Y (mặc dù chúng tôi chẳng mặn mà, ham thích ngành này do cảm thấy không phù hợp). Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cố học, đăng ký thi vào trường ấy vì chỉ muốn làm mẹ vui. “Lưc bất tòng tâm” và kết quả như dự đoán: cả bốn anh chị em đều thi trượt! Chị cả và hai anh lớn thi trượt ĐH Y ba lần, và cuối cùng đành phải lựa chọn, thi vào trường phù hợp hơn với khả năng của mình. Riêng tôi, so với các anh chị, thì tư tưởng nổi loạn hơn và phản kháng mạnh hơn, nên sau một lần thi trượt ĐH Y, tôi đã không đủ kiên nhẫn thi lại nhiều lần như các anh chị và kết quả thì lại đậu vào trường ĐH không mấy tên tuổi…

Mẹ tôi rất buồn vì chúng tôi đã không hiện thực hóa được mong muốn của mẹ, và cũng hay nhắc đi, nhắc lại nhiều lần việc này. Tuy nhiên, mẹ không hiểu rằng nếu chúng tôi chọn và thi vào chuyên ngành mình thích, bốn anh chị em tôi đã có thể hạnh phúc hơn và thành đạt hơn trong cuộc sống. Chính vì thế, tôi luôn ấp ủ trong lòng một điều: sau này lập gia đình, chắc chắn tôi sẽ để cho con mình phát triển tự nhiên, không gò ép thế này.
me-va-con
Bây giờ cũng thế, dù tôi đã trưởng thành, đã đi làm nhưng những xung đột do khác biệt trong tư tưởng của hai hế hệ – tôi và mẹ – thỉnh thoảng vẫn tồn tại. Nhiều lúc tôi cũng cảm thấy bức rứt, khó chịu, mất tự do khi sống chung với gia đình. Nhưng, vài lần trao đổi với mẹ, xin ra ở riêng thì lại có xung đột vì mẹ không thể chấp nhận việc con cái sống riêng…

Tuy nhiên, nói thế cũng không hẳn là tôi trách móc gì mẹ. Tôi nghĩ mẹ tôi có lý do riêng khi suy nghĩ và hành động như vậy. Những gì mẹ làm cũng chỉ vì gia đình và tình thương yêu dành cho bốn anh chị em tôi. Nghĩ đến những điều này, tôi đã cố gắng tự điều chỉnh bản thân, biết chấp nhận và cảm thông, cũng như mở rộng lòng mình hơn để có thề hòa nhập hơn với suy nghĩ của mẹ tôi. Có lẽ đây cũng là một cách giải quyết vấn đề chăng?

Loan Subaru

Lời thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc

Đài tưởng niệm Đồng Lộc
Đài tưởng niệm Đồng Lộc

Chào các bạn,

Ai trong chúng ta lại không cảm thấy bi tráng với câu chuyện 10 Cô Gái Đồng Lộc. Mình có cơ duyên “gặp” các cô năm 1995 tại nghĩa trang Đồng Lộc. Cuộc viếng thăm làm mình buồn rất nhiều năm, và có lẽ là sẽ tiếp tục buồn suốt đời, mỗi lần nhớ đến.

Năm 2005, mình có cơ duyên được chị Diệu Ánh (Sài gòn) gửi bài thơ “Lời Thỉnh Cầu Ở Nghĩa Trang Đồng Lộc,” của anh Vương Trọng, lúc đó đã được khắc vào bia đá ở Nghĩa Trang, đã đổi tên thành Đài Tưởng Niệm Đồng Lộc. Mình dịch ra tiếng Anh.

Đây là bài thơ với một cách nói chuyện rất chân chất, từ tốn, bình thường—chết tan xác vì bom cũng chỉ bình thường—vì vậy nó vượt được lên trên tất cả màu sắc chính trị và nghệ thuật, và nói lên được tiếng khóc vượt biên giới, vượt thời gian, tiếng nói bi thảm của chiến tranh, không phải như một hành động chính trị, mà như một ung nhọt trong tâm thức con người. Continue reading Lời thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc

Búp bê may mắn Daruma

Daruma
Daruma

“Thất bại không phải là vấp ngã mà là cứ nằm lì sau khi ngã”(trích dẫn của M.A.Carrera)

Daruma là Engimono (biểu tượng may mắn) phổ biến thứ 2 ở Nhật, sau Maneki Neko. Daruma là tên được phiên âm từ chữ Dharma, là một con búp bê làm từ giấy bồi không có tay chân, có râu và ria, trọng tâm nằm ở dưới đế nên không bao giờ bị ngã, người Việt mình hay gọi loại búp bê này là lật đật. Nó được làm mô phỏng theo hình dáng ngồi thiền của Bodhidharma – Bồ Đề Đạt Ma, người đã sáng lập ra Thiền phái trong Phật giáo chính tông và mở rộng từ Trung Quốc rồi phát triển đến Nhật Bản hiện đại.

Năm 1697, chùa Daruma được dựng lên ở Takasaki, vị trụ trì có tên Shinetsu đã vẽ hình Bodhidarma ngồi thiền vào mỗi năm mới, đó được cho là khởi đầu của búp bê Daruma. Cuối thế kỷ 18, một người tên là Yamagata Goro đã tạo ra hình dáng ban đầu của búp bê Daruma theo ngoại hình của nhà sư Togaku, sau này ông đã dán giấy lên nó và thành Daruma như hiện nay. Vào thời Minh Trị, khi nghề nuôi tằm phát triển, Daruma được dùng để cầu chúc cho một vụ mùa thu được nhiều sợi tơ tằm. Và đến bây giờ, nó đã trở thành vật bất ly thân của những doanh nhân mong muốn sự thành công và giàu có.

Thiền Tổ Bodhidarma
Thiền Tổ Bồ Đề Đạt Ma

Vậy thì Daruma tượng trưng cho điều gì mà người ta lại coi trọng nó đến thế?

Vì nó không bao giờ biết ngã là gì, cứ nằm xuống lại bật dậy, nên thông điệp của nó là sự cống hiến hết mình và kiên trì theo đuổi mục tiêu.

Nếu bạn đặt ra một mục tiêu nào đó và quyết tâm thực hiện bằng được, hãy làm theo cách của người Nhật: vào chùa mua một con Daruma, vừa đọc lời cầu ước vừa tô lên con mắt bên phải của nó, rồi đặt ở một nơi thật trang trọng và dễ nhìn thấy nhất, để chứng tỏ bạn sẽ không từ bỏ. Khi đã hoàn thành mục tiêu, bạn tô nốt lên con mắt bên trái, và mang nó đến ngôi chùa trước đó bạn đến vào ngày cuối năm, “hoá vàng” con Daruma để thần linh chứng giám cho sự quyết tâm của mình.

Nhưng nếu bạn vẫn chưa xong? Không sao cả, bạn cứ việc đốt Daruma, việc này sẽ giúp bạn thực hiện nguyện vọng hay mục tiêu của mình nhanh hơn!

Vẽ mắt
Vẽ mắt sau khi mua về

Hầu như người Nhật nào cũng mua một con Daruma cho mình, bởi ngoài việc mang lại sự giàu có cho người sở hữu nó, một vụ mùa bội thu cho người nông dân, giúp những người mẹ sinh nở dễ dàng, nó còn bảo vệ những đứa trẻ tránh khỏi bệnh tật nữa. Giống như ông Bụt ấy, giúp mọi người thực hiện tất cả các nguyện vọng. Bạn nào học Aikido có biết câu nói “Nanakorobi yaoki, jinsei wa kore kara da” (ngã xuống 7 lần, đứng dậy 8 lần, cuộc sống bắt đầu từ bây giờ) không? Câu nói này được ẩn dụ từ hình tượng không-bao-giờ-ngã của Daruma đấy.

Ở Nhật, búp bê Daruma được dùng với nhiều mục đích khác nhau, nhưng hầu hết là để cầu may mắn trước khi ai làm một việc gì đó. Thậm chí, các chính trị gia Nhật Bản cũng có búp bê Daruma ở bên mình. Hình ảnh các chính trị gia đang vẽ nốt con mắt còn lại của Daruma sau khi họ trúng cử đã từng có lần được đưa lên truyền hình tại Nhật Bản. Còn ở các nhà hàng và các cửa hàng buôn bán ở Nhật, các ông chủ vẫn thường đặt búp bê Daruma ở ngay trước cửa ra vào.

Loan Subaru — Japan