Category Archives: Thiền

Tách trà

Nan-in, một thiền sư thời Minh Trị Thiên Hoàng (1868-1912), tiếp một giáo sư đại học đến để hỏi về Thiền.

Nan-in rót trà. Thiền sư rót đầy tách của giáo sư, và cứ tiếp tục rót.

Vị giáo sư nhìn trà tràn ra ngoài cho đến lúc ông không nhịn được nữa, “Tràn ra ngoài rồi, không thêm được nữa!”

“Như là tách trà này,” Nan-in nói, “ông đầy ý kiến và phỏng đoán. Làm sao tôi có thể chỉ Thiền cho ông nếu ông không đổ sạch tách của ông trước?”

Bình

Câu chuyện này không nhất thiết chỉ đúng cho học Thiền. Muốn tìm hiểu bất kỳ điều gì ờ đời–một tôn giáo, một người, một nhóm người, một nền văn hóa, một dân tộc, một lịch sử, một vụ kiện, v.v… chúng ta phải đổ sạch tách thành kiến, giả định, phỏng đoán và kết luận trong đầu–một cái tách trống rỗng, một tờ giấy trắng tinh–thì chúng ta mới có thể học hỏi được.

Bạn đang bắt đầu vào cuộc hành trình qua 101 Truyện Thiền để tìm hiểu Thiền là gì. Đây là truyện đầu tiên. Bạn cần đổ sạch tách của bạn, để bước vào và đi qua cuộc hành trình này.

Bạn đã nghe, đọc, biết và hiểu gì về Thiền trước kia? Xin bạn đổ sạch. Để tâm và trí trống rỗng cho cuộc hành trình.

Tâm rỗng lặng, nhớ nhé.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

A Cup of Tea

Nan-in, a Japanese master during the Meiji era (1868-1912), received a university professor who came to inquire about Zen.

Nan-in served tea. He poured his visitor’s cup full, and then kept on pouring.

The professor watched the overflow until he no longer could restrain himself. “It is overfull. No more will go in!”

“Like this cup,” Nan-in said, “you are full of your own opinions and speculations. How can I show you Zen unless you first empty your cup?”

#1

Không có gì là rác cả

Sống sót trở về sau chiến tranh tàn khốc giữa thập niên bốn mươi, Soko Morinaga tìm về căn nhà cũ, trực diện với những khó khăn và mất mát tận cùng của đời người. Cha mẹ không còn, anh chị em phân tán, nhà cửa, tiền bạc bị tịch thu. Ông cố ngoi lên bằng ý chí trở lại học đường nhưng đành chào thua vì cuộc vật lộn cam go, có khi bao tử thường xuyên lên tiếng kêu khóc.

Giữa quạnh hiu đổ nát cả thân và tâm, một sự mầu nhiệm kỳ diệu nào đó đã dẫn bước chân vô định của Soko tới trước cửa chùa Daishuin ở Tokyo. Ngước nhìn mái chùa rêu phong, lưỡng lự đôi ba phút rồi Soko mạnh dạn gõ cửa. Người mở cửa chính là Đại sư Zuigan Goto. Soko ngỏ lời xin được đại sư thâu nhận làm đệ tử. Đại sư chỉ hỏi một câu duy nhất:

– Ngươi tin ta chứ? Nếu không tin ta thì có ở đây bao lâu cũng chẳng học được gì, phí công ta thôi.

Soko trả lời:

– Con xin hết lòng tin tưởng

Đại sư mở rộng cửa, lạnh lùng truyền:

– Theo ta.

Soko líu ríu theo vào. Tới góc sân, đại sư chỉ cây chổi tre, ra lệnh:

– Quét dọn vườn.

Trước khi cầm chổi, Soko quỳ xuống bái tạ đại sư đã thâu nhận mình.

Công việc quét vườn thì có chi là khó, Soko hăng hái quét… quét… và quét. Không bao lâu đã gom được đống rác cao nghệu đầy đất, sỏi, đá vụn và lá khô. Dừng chổi, Soko lễ phép hỏi:

– Bạch thầy, con phải bỏ đống rác này đi đâu ạ?

Bất ngờ, đại sư quát lên:

– Rác ! người nói gì? Không có gì là rác cả !

Soko ngẩn ngơ nhìn đống chiến lợi phẩm, không hiểu, đây không là rác thì là gì? Còn đang lúng túng thì đại sư lại bảo:

– Vào nhà kho kia lấy cái bao lớn ra đây.

Khi Soko tìm được cái bao mang ra thì thấy đại sư đang dùng hai tay, gạt đám lá khô sang một bên. Ông lại bảo:

– Mở rộng miệng bao ra.

Soko tuân lời, lẳng lặng theo dõi thầy đại sư quơ từng ôm lá, bỏ vào bao, thỉnh thoảng lại giậm giậm cho lá xẹp xuống. Cuối cùng, những lá khô trong đống rác đã được nhồi vào bao, cột lại. Soko lại nghe lệnh truyền:

– Đem bao lá này vào nhà kho, để dành đun nước tắm.

Vừa vác bao lá trên vai, Soko vừa nghĩ:

– Còn đống đất đá, không phải rác thì dọn đi đâu?

Ấy thế mà khi ở nhà kho ra, Soko thấy đại sư đang lượm những viên sỏi, đá vụn ra. Trước vẻ ngẩn ngơ của Soko, ông vừa hỏi, vừa sai:

– Có thấy hàng hiên ngay dưới máng xối kia không? Có thấy những chỗ bị nước mưa xoáy lồi lõm không? Đem những sỏi, đá vụn này trám vào những chỗ đó.

Soko vừa làm, vừa thán phục thầy mình, vì quả thật, sau khi trám, không những chỗ lồi lõm bằng phẳng mà còn đẹp hẳn lên nữa.

Bây giờ, đống rác (theo Soko) chỉ còn lại đất và rêu. Lần này thì chắc chắn phải hốt, đổ đi rồi. Nhưng kinh ngạc biết bao khi Soko quay lại sân, thấy thầy mình thong thả nhặt từng miếng đất, từng tảng rêu trên tay, rồi chậm rãi nhìn quanh, tìm những khe tường nứt, những chỗ lõm nhỏ trên mặt đât, từ tốn trám vào.

Bây giờ thì đống rác không còn đó. Nhưng cũng không phải là vật phế thải vô dụng gom quẳng đi đâu. Mỗi loại rác, nếu biết tận dụng, sẽ lại trở thành hữu ích.

(There is no trash by Soko Morinaga)

Ẩn Danh

Thân như điện ảnh

Chào các bạn

Lý Thái Tổ

Hôm  nay chúng ta bàn đến một bài thiền thi của thiền sư Vạn Hạnh, dạy học trò, đã đăng trước đây trong PPS Thiền Thi (Lý Trần)Thiền sư Vạn Hạnh họ Nguyễn, sinh vào khoảng năm 932, người làng Cổ Pháp, phủ Thiên Đức (hiện nay là làng Đại Đình, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh).  Ngài xuất giá ở chùa Lục Tổ, là học trò của Thiền Ông.  Ngài thuộc thế hệ thứ 7 của dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi của chùa Pháp Vân.

Thiền Sư Vạn Hạnh đã từng giúp vua Lê Đại Hành trị quốc, nhưng khi thấy vua Lê Long Đĩnh không còn là minh quân, thiền sư Vạn Hạnh đã cùng với Đào Cam Mộc sắp xếp việc triều chính và đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua hiệu Lý Thái Tổ năm 1009.

Vào ngày rằm, tháng 5, năm Ất sửu, Thuận Thiên 16 (1025), ở chùa Lục Tổ, trước lúc qua đời, thiền sư đã gọi học trò đến dặn dò trong bài Thị đệ tử sau:

Thị đệ tử

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

    Quốc sư Vạn Hạnh
    (Nguyễn Vạn Hạnh ?-1018)

Việt dịch:

Dạy học trò

Thân như điện chớp, có thành không
Cỏ cây xuân thắm, thu héo tong
Suy thịnh vào tay, lòng không sợ
Thịnh suy như sương bám cỏ đồng

    TĐH dịch

Thân như điện chớp có thành không

Thời xưa người ta gọi ánh chớp trên trời là điện.  Thân ta như điện chớp tức là có đó và biến mất ngay, có thành không.  Tức là  nói đến cái phù du tạm bợ của thân này.

“Có thành không” trong bản chữ Hán là “hữu hoàn vô”, tức là “có trở về không.”   Trở về, như vậy có nghĩa là, trước là không, sau mới thành có, sau đó lại trở về không.

Tức là, “không” đây chẳng có nghĩa là “không có” theo nghĩa triệt tiêu, zero.  “Không” đây là tên của bản tính nguyên thủy, bản tính đầu tiên, của tất cả mọi thứ trong vũ trụ.   Vì vậy, ta nên viết hoa cho dễ hiểu–Không

Người ta hay dùng hình ảnh “nước và sóng” để diễn tả “Không và có”.   Nước là bản tính nguyên thủy, sóng là hiện tượng bề mặt.  Nước thì luôn ở đó, nhưng mỗi con sóng thì chỉ hiện ra vài mươi giây là biến mất.  Sóng tan lại “trở về” nước.  Thân ta tan biến, lại trở về Không.

Như vậy khi chết đi, cái thân như ánh chớp này lại trở về bản tính nguyên thủy của mình là “Không”.  Chết chẳng phải là hết, mà là trở về bản tính nguyên thủy—Không.

Cỏ cây xuân thắm, thu héo tong

Có sinh thì có tử.  “Thành, Trụ, Hoại, Không” là bốn thời kỳ sống của vạn vật—sinh ra, đứng vững, hư hại, tan biến.   

Cây cỏ mùa xuân nẩy sinh mầm sống, hạ là thời sống mạnh, thu là vào giai đoạn héo úa,  đông là chết.

Con người có sinh thì có tử, cũng là lẽ tự nhiên.  Tử có nghĩa là thân này tan biến đi để trở về Không.

Vậy thì việc gì mà sợ chết?  Việc gì mà các đệ tử phải sợ, phải buồn việc thầy chết?

Suy thịnh vào tay, lòng không sợ. Thịnh suy như sương bám cỏ đồng. 

Khi xuống khi lên, khi thắng khi thua, khi thành khi bại, khi suy khi thịnh, cũng là lẽ tự nhiên.  Cả một đời người cũng chỉ là một ánh chớp, thì bao nhiêu suy thịnh lên xuống trong đời đó còn nhỏ và nhanh hơn cả một ánh chớp.  Mong manh phù du như giọt sương trên đầu cỏ, sẽ tan biến ngay dưới những ánh mặt trời đầu tiên.   Có gì mà phải quan trọng hóa chúng?  Có gì mà phải sợ?

Sống chết cũng chỉ là một tí lên xuống suy thịnh, như sóng lên sóng xuống, của vòng luân lưu “có hoàn Không, Không sinh có”, mà thôi.  Có gì mà phải sợ?


Chúng ta cần ghi chú thêm ở đây rằng, “không sợ” là một đức hạnh rất quan trọng trong đường tu Phật.  Người Giác Ngộ  có tâm tĩnh lặng, không sợ, không có bất kỳ nỗi sợ nào gây sóng gió trong tâm.

Trong 6 đường tu của Bồ tát (lục độ ba-la-mật), đường đầu tiên là bố thí—bố thí tiền (tài thí), bố thí Phật pháp (pháp thí), và bố thí tính không-sợ (vô úy thí).  Trong ba loại bố thí này, thì bố thí cao quí nhất là “vô úy thí”, tức là “bố thí tính không-sợ,” là  mang cho người ta sự can đảm và đức bình tĩnh.

Tóm lại, bài thơ này, nhắn nhủ đệ tử trước khi chết, rằng sống chết là lẽ tự nhiên.  Thân này cũng chỉ phù du như ánh chớp.   Đang có và sẽ trở về Không.  Cũng chỉ là  thịnh suy của sóng lên sóng xuống, sóng sinh và sóng tan, trên mặt biển.  Chẳng có gì phải lo sợ.

Binh thản đối diện cái chết.
Bình thản đối diện thịnh suy thắng bại ở đời.
Bình thản đối diện cuộc đời.

Không sợ.
Không sợ thắng bại,  thịnh suy, được mất, sống chết.

Tâm tĩnh lặng.

Chúc các bạn một ngày vui,

Mến,

Hoành

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Cư trần lạc đạo

Chào các bạn,

Trần Nhân Tông (1258-1308) là vua Đại Việt thứ ba của nhà Trần. Trước đó là Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông.

Sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, vua Trần Nhân Tông, dưới sự hướng dẫn của Tuệ Trung Thượng Sĩ, lên núi Yên Tử tu thiền, và tập hợp ba dòng thiền tại Việt Nam lúc đó là dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci), dòng Vô Ngôn Thông, và dòng Thảo Đường, thành Thiền phái Trúc Lâm, còn tồn tại cho đến ngày nay với Trúc Lâm Thiền Viện ở Đà Lạt do thiền sư Thích Thanh Từ chủ trì.

Hôm nay chúng ta sẽ nghiên cứu một bài thiền thi ngắn nhưng rất sâu sắc của vua Trần Nhân Tông, là bài Cư trần lạc đạo, vừa đăng gần đây trong slideshow Thiền Thi.

Cư trần lạc đạo

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu báo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền

    Trần Nhân Tông
    (Trần Khâm 1258-1308)


Sống đời vui đạo

Sống đời vui đạo cứ tùy duyên
Đói thì ăn no mệt ngủ liền
Trong nhà có của, đừng tìm nữa
Nhìn cảnh vô tâm, hỏi chi thiền

    TĐH dịch

Sống đời vui đạo cứ tùy duyên. Sống đời vui đạo. Không phải là “trốn đời vui đạo” theo kiểu “Lan và Điệp” như mọi người thường lầm tưởng. Đời và đạo là sống và vui.

“Đời đạo là sống vui. Đạo đời là vui sống.”

Có “sống đời” thì mới “vui đạo” được. Vì đời là đạo và đạo là đời. Ngoài đời không có đạo, ngoài đạo không có đời. Như thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác nói trong Chứng Đạo Ca :

Vô minh thực tính tức phật tính
Huyễn hóa không thân tức pháp thân

Giải thích:

Bản tính thực của vô minh (si mê) chính là tính phật
“Thân không thực” huyền ảo này chính là thân (thực) của tất cả mọi thứ

Đây cũng chính là “sắc bất dị không, không bất dị sắc” (sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc) của Bát Nhã Tâm Kinh.

• Muốn “sống đời vui đạo” thì phải “tùy duyên” Chữ “duyên” là chữ bao gồm toàn bộ tư tưởng Phật học.

“Duyên” là nhân quả. Những gì xảy ra bây giờ là kết quả của tất cả mọi nguyên nhân (mọi nhân duyên) trước đó—một tích tắc trước cũng như vô lượng kiếp trước—và là nguyên nhân của những gì sau đó—một tích tắc sau cũng như vô lượng kiếp sau.

(Chỉ cần hiểu hết được lý‎ lẽ của chữ duyên—thập nhị nhân duyên, mười hai bước nhân duyên của cuộc đời—là đã có thể giác ngộ thành Bích Chi Phật)

“Tùy duyên” là “theo duyên”. Nghĩa là chuyện gì xảy đến cũng có l‎ý do của nó, cứ thuận theo đó mà sống–không cần phải chống lại nó, không cần phải phàn nàn về nó, không cần phải lo âu về nó, không cần phải stress về nó, như là:

Đói thì ăn no, mệt ngủ liền.

Chẳng ai phàn nàn tại sao đói. Chẳng ai thắc mắc tại sao mệt. Chẳng ai đau khổ mỗi khi đói bụng hay buồn ngủ.

Vậy thì, bệnh thì tìm thuốc chữa, cần tiền thì đi làm kiếm tiền, cần thi đậu thì học, cần hết stress thì giải stress…

Việc gì phải làm thì làm, chẳng lý do gì phải stress, phải phàn nàn, phải trách móc, phải giận dữ, phải đau khổ, phải than thân trách phận, phải tiêu cực.

Trong nhà có của, đừng tìm nữa.

Cái gì là báu vật vậy? USD? Hột xoàn mười mấy cara?

Không. Báu vật đó là cái tất cả mọi người trong thiên hạ đi tìm: Hạnh phúc.

Hạnh phúc: Nhà Phật gọi là Niết Bàn—hoàn toàn tĩnh lặng, hoàn toàn an lạc, thành người tĩnh thức, thành Phật.

Nhưng Niết Bàn không nằm ngoài ta—Niết Bàn đã có sẵn trong tâm ta. Phật cũng không nằm ngoài ta, Phật đã nằm sẵn trong tâm. Mỗi người chúng ta là Phật đang thành, là Niết Bàn sắp hiện.

Đừng tìm Phật bên ngoài, đừng tìm Niết Bàn bên ngoài. Trong nhà có của, đừng tìm nữa.

Nhìn cảnh vô tâm, hỏi chi thiền.

Nhìn cảnh thì thấy cảnh, đừng “chú giải” thêm vào cảnh đó. Như là nhìn“mưa rơi trên mái hiên” thì thấy “mưa rơi trên mái hiên”, chứ đừng chú giải thêm là “mưa rơi trên mái hiên buồn tênh” hay “mưa rơi trên mái hiên như những bước nhảy nhót của người yêu.”

Phụ chú tình cảm chủ quan vào “cảnh” ta thấy, là có tâm ý.

Chỉ nhìn cảnh, thấy cảnh, nhưng không phụ chú, không tam quốc diễn nghĩa thêm vào, gọi là “không tâm ý”, tức là “vô tâm.”

“Nhìn cảnh vô tâm” tức là nhìn người chửi mình mà không nổi giận; nhìn bệnh tật đến với mình mà không sợ hãi; nhìn nguy hiểm trước mắt mà không kinh khiếp; nhìn đống vàng mà không hoa mắt; nhìn danh vị mà không ham hố; nhìn quyền lực mà không say mê; nhìn túi quần không một xu teng mà không mặc cảm; nhìn thân thể tật nguyền mà không tủi thân, nhìn thế lực địa vị trong tay mà không kiêu mạn…

Điều gì đến thì đến, điều gì phải làm thì làm. Đến thì đến, nhìn thì nhìn, làm thì làm, nhưng tâm luôn bình lặng, luôn thoải mái, luôn an lạc.

Đó là vô tâm.

Và đó là Hạnh phúc, là Niết Bàn, là Phật tính.

Đối cảnh vô tâm. Nhìn cuộc đời với con tim hoàn toàn tĩnh lặng.

Như thế thì không còn tham lan, sân hận, si mê, kiêu mạn, sợ hãi, làm cho tâm bị mù lòa nữa.

Lúc đó tự nhiên ta thấy được của báu đã có sẵn trong nhà—cái tâm tĩnh lặng của mình, Phật tính của mình, Niết Bàn của mình.

“Đối cảnh vô tâm” là Phật, là Niết Bàn, là an lạc, là Hạnh phúc.

Thế thì đâu cần phải hỏi chi đến thiền, hay tu, hay pháp?

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Thực hành từ tâm

compassion

    Yêu láng giềng như yêu chính mình

      Jesus of Nazareth

    Tâm từ khi được khéo tu,
    Làm cho trói buộc bị mau yếu dần.
    Không còn dấu vết tham sân,
    Niết bàn hiển lộ thênh thang giữa đời.

      Kinh Từ Tâm

Chào các bạn,

Từ tâm, từ bi, lòng từ, bác ái, nhân ái… tất cả đều nói đến yêu người. Chúng ta đều thấy, mọi vị thầy lớn của thế giới, dù dùng ngôn ngữ nào, loại l‎ý luận nào, ở vùng địa lý nào, vào thời khoảng nào… đều đặt trọng tâm thuyết giảng của mình vào một điểm—yêu người.

Và đương nhiên khỏi cần thầy nào dạy, chúng ta cũng biết là thế giới này sẽ thành thiên đàng nếu mọi người yêu nhau. Tình yêu là cái nền của vũ trụ, trên đó mọi sự, mọi thứ, và mọi người, đứng vững, cùng với nhau. Thiếu tình yêu, tất cả đều rời rã và tan biến.

Trong bài này chúng ta sẽ lượt qua nền tảng l‎ý thuyết căn bản của “yêu người” của ba trường phái—Thiên chúa giáo, Phật giáo, và chủ nghĩa lợi ích (không tôn giáo). Sau đó chúng ta sẽ nói đến cách thực hành “lòng từ” của Đại Sư Phật Âm, là một phương cách rất khoa học, mọi trường phái để có thể dùng được.

I. Căn Bản của Yêu Người

1. Yêu người trong Thiên chúa giáo:

Mother Mary
Chúa Giêsu nói: “Yêu Chúa, Thượng đế của bạn, với cả trái tim, cả linh hồn, cả khối óc của bạn. Đây là điều răn đầu và quan trọng nhất. Và điều răn thứ hai như thế này: Yêu láng giềng của bạn như yêu chính bạn.” Matthews 22:37-38.

Câu nói đó được gọi là Luật Vàng (The Golden Rule). Người Thiên chúa giáo yêu người vì Chúa bảo thế. Đây là luật từ trời. Thực ra luật này đã có tối thiểu là từ thời Moses, trước Chúa Giêsu khoảng 1500 năm. Leviticus 19:18. Giêsu chỉ lập lại một cách rất ngắn gọn mà thôi.

Và Luật Vàng có hai vế: Vế đầu là yêu chúa. Vế sau mới là yêu người. Yêu người vì yêu chúa, và vì chúa bảo “yêu người.”

Ở đây, lòng tin vào chúa rất quan trọng. Nếu không tin chúa (vế đầu), thì chẳng lý do gì phải nghe lệnh chúa “yêu người” (ở vế sau).

Và Luật Vàng dạy yêu người—chứ không nói thêm là người tốt hay xấu, có học hay không có học, du côn hay tử tế, thiện hay ác, thân hay sơ, bạn hay thù… “Yêu người” ở đây là yêu tất cả mọi người, kể cả người xấu, người tội lỗi, người ức hiếp, kẻ thù ta… Cho nên, tình yêu trong Thiên chúa giáo gọi là “Tình yêu vô điều kiện” (unconditional love).

2. Yêu người trong Phật giáo
kwanyin
Nền tảng triết lý‎ sâu thẳm nhất của “yêu người” trong tư tưởng Phật giáo là câu này: “ Tất cả pháp là không .” Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Vô Tận Tạng .

Tất cả mọi thứ, mọi người, mọi vật (tức là “tất cả pháp”) đều là Một, và cái Một đó không thể diễn tã được bằng từ nào cho đúng, nên gọi là “không”. “Không” đây không có nghĩa là “không có”.

Vì tất cả đều là một, như tất cả ngọn sóng đều là một đại dương, nên người và ta là một. Người là ta và ta là người. Yêu nhau là chuyện đương nhiên. Yêu người cũng là yêu mình thôi.

Ở một mức suy tư thấp hơn, có tính cách thực hành, Kinh Từ Tâm nói ta yêu người vì:

Tâm từ khi được khéo tu,
Làm cho trói buộc bị mau yếu dần.
Không còn dấu vết tham sân,
Niết bàn hiển lộ thênh thang giữa đời.

Tức là yêu người làm tim ta có thể thoát mọi rằng buộc tối tăm–như tham lam, sân hận, si mê–và có được con tim tĩnh lặng để đến được Niết Bàn—Nirvana, Hoàn Toàn Tĩnh Lặng.

Kinh Từ Tâm cũng nói rất rõ là yêu người là yêu tất cả chúng sinh, không phân biệt gần xa tốt xấu, như là Tình yêu vô điều kiện trong Thiên chúa giáo.

Thế Tôn thuyết giảng những lời,
Liên quan tu tập nên người từ tâm,
Là người rất đỗi ân cần,
Thương yêu trải khắp kẻ gần người xa.
Tấm lòng nhân ái bao la,
Thật là thuần khiết, thật là cao thâm.
Hướng về tất cả chúng sinh,
Người từ tâm trọn quên mình mà thương.

    Kinh Từ Tâm

3. Yêu người trong chủ nghĩa lợi ích (utilitarianism)
compassion2
Những người không tin vào truyền thống tâm linh nào, thì suy nghĩ theo chủ nghĩa lợi ích để xây dựng căn bản cho “yêu người”. Hệ thống đạo đức của chủ nghĩa lợi ích đặt trên căn bản rằng: “Mục đích của đạo đức là tạo nên một thế giới tốt hơn.”

Và “đạo đức là để tạo ra hậu quả tốt, chứ không cần biết đến ‎ý định tốt.” Điều này rất khác với các truyền thống tâm linh, trong đó tâm ý (intention) của ta có một vai trò rất lớn (dù là không có tính cách quyết định) trong việc xét đoán một hành động là thiện hay ác, tốt hay xấu.

Kim chỉ nam cho tư duy và hành động của người theo chủ nghĩa lợi ích là “Ta nên làm bất kỳ điều gì có lợi nhất cho con người, tức làm cho thế giới sung sướng hơn, hạnh phúc hơn, lý tưởng hơn, bình đẳng hơn, v.v….”

Với kim chỉ nam như thế này, yêu người đương nhiên là có giá trị khi nó làm cho mọi người cùng vui vẻ hòa đồng cho thế giới tốt đẹp hơn. Nhưng khi phải giết người để thế giới tốt đẹp hơn thì cũng nên làm, và gạt bỏ tình yêu cá nhân sang một bên.

Như vậy ta thấy, trong các truyền thống tâm linh, tình yêu con người vô điều kiện–của mỗi cá nhân đến mỗi cá nhân khác trong xã hội–là chỉ đạo cho đời sống cá nhân và xã hội. Tình yêu và cảm xúc tình yêu là kim chỉ nam cho mọi sinh hoạt cá nhân và xã hội.

Nhưng trong chủ nghĩa lợi ích thì yêu người chỉ là một trong những con số trong con toán. Nếu yêu người mà được việc cho thế giới thì yêu, nếu người làm phiền thế giới thì đánh người. Đây cũng là căn bản suy tư cho nhiều cuộc cách mạng xã hội đẩm máu ta đã thấy trong thế kỷ 20 (và vẫn còn xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới, dù là dưới hình thức chiến tranh tôn giáo “lệch lạc” ngày nay).

Điều này không có nghĩa là các truyền thống tâm linh không sống chung được với chủ nghĩa lợi ích. Trong đa số vấn đề ở đời, chủ nghĩa lợi ích và các truyền thống tâm linh sẽ có cùng đáp số. Tuy nhiên thỉnh thoảng sẽ có những vấn đề mà kết quả sẽ khác nhau lớn, tùy theo ta chú trọng đến tình yêu hay lợi ích. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm này trong đời sống cá nhân, và cũng thấy lịch sử cận đại thế giới đã xảy ra những chuyện gì.

II. Thực Hành Yêu Người
compassion3
Khi yêu ai, tự khắc ta biết phải làm gì. Vì vậy, các trường phái tâm linh chú trọng vào dạy ta có con tim yêu ái, hơn là chú tâm vào dạy qui tắc hành động. Nói chung thì mọi chúng ta đều biết yêu người như thế nào: Nói năng vui vẻ, mỉm cười, đừng trộm của người, đừng ức hiếp người, nghĩ tốt về người và không nên nghĩ xấu về người, thấy cái xấu của người thì biết nhưng không dùng nó để ghét, tha thứ, kẻ thù khi ngã ngựa thì cũng cứu giúp, v.v… Khi yêu tự khắc ta biết phải hành động thế nào.

Tuy nhiên vài trăm năm trước, Đại sư Phật Âm (Bhadantacariya Buddhaghosa), viết quyển cẩm nang quan trọng nhất trong Phật giáo Nguyên Thủy, Visuddhimagga, mà Tỳ kheo Nanamoli đã dịch từ tiếng Pali sang Anh ngữ là The Path of Purification (Con Đường Thanh Tịnh), có chỉ rõ phương cách luyện tập từ tâm, mọi người đều có thể dùng, dù mình nằm trong trường phái nào. Tóm gọn như sau:

Chúng ta thực tập lòng từ (yêu người) từng bước một, bằng cách chia mọi người thành 4 nhóm: Chính ta, người ta rất yêu mến, người ta không thương không ghét, người ta ghét hay thù.

Và thực hành qua 3 (hoặc 4) bước chính như sau:

1. Trước hết ta “khởi lòng từ”: bằng cách hướng lòng từ về chính mình—tôi mong hạnh phúc và không đau khổ; tôi mong không có thù hận, không đau đớn, không lo lắng, và sống hạnh phúc.

2. Sau đó ta “hướng lòng từ”: bằng cách nhớ lại những gì làm ta tăng thêm thương mến (như các món quà hay lời nói dịu dàng), những gì làm ta tăng kính trọng (như đạo đức hay trí tuệ), mà ta đã thấy trong một người nào đó, ví dụ như một vị thầy giáo của ta. Rồi ta hướng lòng từ của ta về người đó: “Tôi mong thầy được hạnh phúc và không đau khổ.” Cứ định tâm như vậy cho đến khi ta cảm thấy đầy ắp lòng từ trong tâm ta.

3. Sau đó ta từ từ “phá bỏ rào cản” giữa các nhóm người. Từ vị thầy giáo, ta hướng lòng từ về một người bạn rất thân, cho đến khi thấy đầy ắp lòng từ.

Xong rồi ta lại hướng lòng từ về một người không thương không ghét, cứ như là bạn thân của mình, cho đến khi thấy đầy ắp lòng từ.

Xong rồi ta lại hướng lòng từ về một người ta thù, cứ như người ta không thương không ghét, cho đến khi thấy đầy ắp lòng từ.
compassion4
4. Tuy nhiên, khi đến “kẻ thù” có thể ta gặp khó khăn, vì đôi khi lòng ta có quá nhiều sân hận làm ta không thể có lòng từ với người này được. Đại sư Phật Âm dạy ta phải biết cách Dập Tắt Sân Hận để lòng từ có thể nẩy nở, theo phương pháp sau:

• Khi bị sân hận cản trở, thì hãy nhớ lời Phật dạy:

“Tỳ kheo, nếu có kẻ cướp dùng cái cưa cưa tay cưa chân ngươi, ai mà mang thù hận trong lòng vì điều đó, người đó không mang giáo pháp của ta.”

“Lấy sân hận trả sân hận thì còn tệ hơn là nổi sân hận trước. Đừng dùng sân hận trả sân hận. Hãy thắng cuộc chiến khó thắng.”

Đức Phật nói có 7 điều làm cho kẻ thù của ta rất thỏa mãn và lợi lộc. Kẻ thù ta muốn ta (1) xấu xí, (2) đau khổ, (3) thiếu may mắn, (4) nghèo khổ, (5) không danh tiếng, (6) không bạn bè, (7) không đến được cõi trời hạnh phúc sau khi chết. Khi mà ta sân hận thì kẻ thù của ta sẽ được cả 7 điều ước này.

• Nếu vẫn còn thấy sân hận, thì hãy nghĩ đến những điều tốt đẹp trong tác phong của người mình đang giận. Người này có thể có vài tác phong đáng ghét, nhưng cũng có vài tác phong cao đẹp. Hãy nghĩ đến những tác phong cao đẹp của họ.

• Nếu vẫn còn thấy giận, thì hãy nhớ (1) nếu kẻ thù bạn đã dùng quyền năng của hắn để làm cho bạn giận, tại sao bây giờ bạn lại cố hành cái đầu của mình, trong khi hắn không còn quyền năng đó nữa. (2) Người ta làm bậy, cho nên bạn giận, tại sao vậy? Chẳng lẽ bạn cũng muốn bắt chước làm bậy hay sao? (3) Có người làm bậy để chọc giận bạn, chẳng lẽ bạn muốn nổi giận đúng ý họ muốn hay sao? (4) Bạn nổi giận thì không chắc là bạn có làm cho kẻ thù đau đớn được không, nhưng chắc chắn là bạn bị đau đớn vì cơn giận đó. (5) Kẻ thù của bạn bị cơn giận làm mù quáng, chẳng lẽ bạn cũng muốn mù theo hay sao? (6) Nếu vì bạn giận dữ mà kẻ thù bạn làm bạn đau đớn, thì hãy bỏ cơn giận đi. Tại sao bạn phải đau khổ không lý do? (8) Những cơn phẫn nộ thường chỉ kéo dài trong giây phút, những ngông cuồng gây ra những hành động tai ác đã qua hết rồi, vậy thì bạn giận cái gì đây? (9) Khi ta muốn gây khổ đau cho một người vắng mặt, thì ta làm ai đau? Bạn đang có mặt và bạn làm chính bạn đau, tại sao bạn nổi giận với người vắng mặt đó?
compassion5
• Nếu buồn giận vẫn chưa hết, thì hãy nhớ rằng mỗi người là sở hữu chủ của hành động của mình. Việc gì tôi phải nổi giận với anh ta? Anh ta làm bậy thì anh ta sẽ nặng nghiệp tội. Tại sao tôi phải nổi giận, để rồi tôi phải mang nghiệp tội?

• Nhưng sau đó nếu vẫn còn buồn giận thì hãy nghĩ đến những lợi lộc mà lòng từ mang lại. Khi ta thành tâm thực tập lòng từ như là nền tảng của đời sống, ta sẽ được nhiều lợi lộc: (1) Thoải mái khi ngủ, (2) thoải mái khi thức, (3) không có ác mộng, (4) được mọi người thương mến, (5) được loài vật thương mến, (6) thánh thần phò hộ, (7) tập trung tư tưởng dễ dàng, (9) mặt nhìn lúc nào cũng thanh tịnh, (10) khi chết không hoảng loạn.

• Nhưng nếu làm vậy mà vẫn còn hờn giận, thì hãy nghĩ đến những thành tố làm nên một con người. Anh ta cũng chỉ là Không, cũng sẽ vào hư vô. Tôi giận cái gì đây? Tôi giận ai đây?

• Nhưng nếu đến lúc này mà vẫn không hết giận, thì hãy dùng quà tặng, hoặc là ta tặng quà cho người ta đang giận, hoặc là nhận quà tặng của người ấy.

• Khi cơn giận đã bắt đầu nguôi, ta phải hướng lòng từ về người này, cứ như là chính ta, là người thân của ta, người ta không thương không ghét, người ta có thù hận. Và ta phải lập đi lập lại thực tập lòng từ, phá bỏ rào cản, cho đến lúc trong tâm ta bốn nhóm người đều bình đẳng như nhau: ta, người thân của ta, người không thương không ghét, người có thù hận.

Và, các bạn, dĩ nhiên là môn thực hành nào cũng đòi hỏi nhiều năm tháng để thuần thục. Điều quan trọng là, cũng như học đàn, học vẽ hay học võ, luyện tập thường xuyên hàng ngày là cách duy nhất để giỏi. Và nếu thỉnh thoảng có đánh đàn sai nốt thì cũng nhớ rằng bao nhiêu nghìn học trò khác, bao nhiêu nghìn vị thầy thượng đẳng của thế giới, cũng lâu lâu bị sai nốt như bạn vậy. 🙂

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

Bài liên hệ: Yêu mình, Yêu người, Yêu người, tin người, Người và Tôi

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Si

Chào các bạn,

Hôm nay ta nói đến chữ “Si” trong Phật học, chữ cuối cùng trong tam độc tham sân si, nguồn gốc của mọi khổ đau.
ignorance
Chắc là ai trong chúng ta cũng đã biết cây si của các chàng si tình trồng trước cửa nhà các cô. Sở dĩ gọi là si, vì khi yêu thì thành mù quáng. Si là mù quáng, ngu dốt, đần độn… Vì vậy nên mới nói “si mê”. Đã mê thì phải si, chưa si là chưa mê. 🙂

Trong Phật học, si là (1) không biết về nguyên lý căn bản của vũ trụ và đời sống: Tất cả mọi sự đều phù du, không chắc chắn, thay đổi không ngừng—tức là, mọi sự đều “vô thường” (non-permanent), và (2) mê say ôm chặt (tức là “chấp” vào, attached to) những cái vô thường đó.

Ở đây, chúng ta không cần phải đi sâu rốt ráo vào vô thườngchấp của những người tu đường Bồ tát, mà có thể dùng một khái niệm tương tự trong tư tưởng và luận l‎ý Tây phương khá quen thuộc với chúng ta ngày nay. Đó là khái niệm “tương đối” (relative, relativity).

• Tương đối hàm ý “so sánh”. Ví dụ: Khi ta nói “Cô ấy đẹp”, ta đương nhiên nói “So sánh với những người trung bình khác, thì cố ấy đẹp, nhưng so sánh với các hoa hậu thì chưa biết.”

• Tương đối hàm ý “lệ thuộc vào chủ từ”. Ví dụ: “Cô ấy đẹp” có nghĩa là “Đối với mắt tôi thì cô ấy đẹp, nhưng đối với mắt của người khác thì chưa biết.”

• Tương ‎đối hàm ý “có giới hạn”. Ví dụ: Khi ta nói “Anh ta rất thông minh”, ta vẫn hàm ‎ ý rằng có những điều anh ấy không biết.
Relativism
• Tương đối hàm ý “có thể thay đổi”. Ví dụ: “Cô ấy đẹp” có nghĩa là hiện thời cô ấy đẹp, nhưng khi cô ấy 50 tuổi thì chưa biết. Hay “Anh ấy rất giàu” có nghĩa là hiện thời anh ấy giàu, nhưng mai mốt thì chưa biết.

Trong cách nói hàng ngày, ta luôn luôn nói với nghĩa tương đối, dù là ta chẳng bao giờ nhắc đến từ “tương đối”, thậm chí chẳng nghĩ đến nó. Khi ta nói “Cô ấy đẹp” hay “Anh ấy thông minh” là đương nhiên ta hàm ‎các ý so sánh, tùy thuộc chủ từ, giới hạn, và thay đổi.

Nhưng…
khi ta nói về chính mình:

“Tôi rất đẹp, tôi rất tử tế, tôi rất hiền hậu, tôi rất đạo đức…”

thì lại là chuyện khác.

Khi nói về “tôi hiền hậu” chẳng hạn, ta thường hành động như là ta không nghĩ đến so sánh, chủ từ, giới hạn, và thay đổi. Ta hành động cứ như là “Tôi hiền hậu nhất thế giới, không ai bằng, và luôn luôn hiền hậu tại mọi nơi mọi lúc, vĩnh cửu, và tất cả mọi người trên thế giới đều đồng ‎ý như thế (dĩ nhiên ngoại trừ mấy người u mê).”

Khi nói, Tôi học giỏi, tôi đẹp, tôi khiêm tốn, tôi yêu người, tôi đạo đức… cũng thế. Ta suy tư và hành động cứ như là tôi giỏi nhất thiên hạ và sẽ giỏi vĩnh viễn và ai cũng biết, đẹp nhất thiên hạ và sẽ đẹp vĩnh viễn và ai cũng biết…

Đó là nói về các phương diện cụ thể của tôi…

Khi nói về tư tưởng trừu tượng của tôi, như là ‎ý kiến của tôi, phán đoán của tôi, chủ nghĩa của tôi, lòng tin của tôi, tôn giáo của tôi… thì sự tập trung vào tôi còn mạnh hơn ngàn lần, và hầu như ta quên hẳn “tương đối”:
closedminded
Mấy đám này vừa bất tài vừa thiếu giáo dục.
Chủ nghĩa dân chủ đa đảng là con đường duy nhất đưa đến thịnh vượng.
Chủ nghĩa xã hội là lối duy nhất đến hạnh phúc.
Tin tên đó là chỉ có bán nhà.
Chỉ có đạo tôi mới đúng, mấy đám khác là mê tín dị đoan.
Làm sao mà có thể yêu kẻ nửa người nửa ngợm vậy nhỉ?

Tất cả những điều này, ta thường tuyên bố và hành động một chiều như là chúng nhất định phải đúng 100% và “người khôn ngoan” thì phải biết các điều đó và sống với các điều đó.

Đương nhiên chúng ta biết, thái độ đó rất là trẻ con, vì…

Người già dặn hơn một tí ai cũng biết là điều gì hay và tốt cho mình chưa hẳn là hay và tốt đối với người khác, hay và tốt lúc này chưa hẳn là hay và tốt lúc khác, hay và tốt nơi này chưa hẳn là hay và tốt nơi khác.

Tương đối có nghĩa là cái nhìn của ta rất tương đối, và người khác có thể có cái nhìn khác ta, nhưng vẫn có thể đúng như ta. Nếu ta nói “voi hiền” thì cũng đúng, người khác nói “voi dữ” thì cũng đúng, tuỳ theo lúc voi đứng trong sở thú ăn mía hay đang trong rẫy phá mía.

Nếu biết rằng mọi suy tư, mọi chân lý ở đời đều có tính cách tương đối, và các suy tư hoặc chân lý khác nhau có thể đều đúng, thì ta không còn hồ đồ kiêu căng trong suy tư và phán đoán của mình, cũng như không ép buộc người khác phải nghĩ và làm như mình. Tức là, ta gạt bỏ được những khổ đau cho mình và cho xã hội quanh mình, sinh ra từ kiêu căng và áp bức của chính mình.

Thêm vào đó, ta lại có thể học cách suy tư để thấy cái đúng của người khác, tức là làm cho đầu óc và tư duy của mình giàu có hơn, thông thái hơn.

Bạn không cần phải thích ăn mắm nêm, nhưng đừng đòi hỏi mọi người hãy tẩy chay mắm nêm theo bạn. Và chẳng lý do gì mà bạn không sống thoải mái được với người thích mắm nêm, cũng như học thêm tại sao họ thích mắm nêm và mắm nêm có gì ngon với họ.

Hiểu được lý tương đối ở đời, và sống vui vẻ hòa hợp với mọi người trong‎ lý tương đối đó, chính là sống với thực tế cuộc đời, là mở rộng đầu óc để nhìn mọi vấn đề dưới mọi góc cạnh khác nhau, là không còn làm “người mù sờ voi”, là không còn “Si” nữa.

Trên phương diện xã hội học, tư duy tương đối chính là nền tảng của cách sống mà ta gọi là hòa đồng, cởi mở, dân chủ. Trong một xã hôi có nhiều người suy nghĩ và sinh hoạt khác nhau, thì cách sống hòa bình, công bình và thoải mái nhất là, mọi người cùng nghiên cứu phương cách để có thể sống chung hòa bình vui vẻ, thay vì một nhóm áp đặt một cách suy tư và sinh hoạt trên tất cả mọi nhóm khác.

Kết quả cuối cùng của việc hiểu lẽ tương đối là:

• Trên phương diện cá nhân: Ta khiêm tốn hơn vì biết mọi cái ta có cũng chỉ là tương đối (tức là vô thường); bình thản hơn vì biết bản chất hay thay đổi (vô thường) của đời sống và, do đó, sẵn sàng đối diện tương lai; thông thái hơn vì biết học cách nhìn của người khác.

• Trên phương diện xã hội: Xã hội bình đẳng hơn, nhân ái hơn, hòa bình hơn và thịnh vượng hơn, vì mọi người tôn trọng nhau, học hỏi nhau và gắn bó nhau.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Bài liên hệ: Tham, Sân, Si

Sân

Chào các bạn,

Hôm nay ta nói đến chữ “sân” trong ba độc “tham sân si”, ba nguồn gốc của mọi khổ đau theo Kinh Tham Sân Si của Phật gia.

Sân hay sân hận là nổi nóng, giận dữ, hờn giận, bực bội, la hét, chưởi bới, xù lông xù cánh… Sân là nóng ra ngoài. Hận là nóng ngầm bên trong. Chẳng ai trong chúng ta lạ lùng gì với sân hận.
anger
Nhưng, chẳng mấy khi ta nghĩ đến sân hận là nguồn gốc của đau khổ cho mình và cho cả thế giới của mình cả, phải không các bạn? Có ai đó nói một câu đụng chạm đến ta một cách bất công, ta “giải thích” ngay lập tức, với lời lẽ “dạy trẻ” hay “hăm dọa”, hay cả hai. Hoặc là mỉm cười dịu dàng với quả tim thâm tím, “Để đó, bà sẽ cho mày biết tay. Đời còn dài.”

* Ít khi chúng ta nổi nóng một cách bất công. Thông thường thì ta nổi nóng vì một anh chàng “ngu dốt” nào đó làm một điều “ngu dốt” nào đó, đụng chạm đến bản thân hay quyền lợi của ta, hay đụng chạm lợi ích xã hội, hay bất công với người khác… Nói chung là chúng ta thường có lý do “đúng” để nổi nóng. Rất ít khi ta nổi nóng vì hiểu lầm. Và tuyệt nhiên không ai nổi nóng mà không có l‎ý do.

Và đó chính là vấn đề khó khăn nhất ta đối diện: Vì ta luôn luôn có lý do chính đáng để nổi nóng, cho nên ta thường không thấy nổi nóng là một độc cần phải giải trừ.

* Hơn nữa, nổi nóng là một quyền lợi xã hội đi đôi với chức vụ. Ông là quan chức, ông có quyền nổi nóng với mày, mày là phó thường dân khố rách áo ôm mà dám hỗn với ông à?

Thầy cô có quyền nổi nóng, học trò thì không. Bố mẹ có quyền nổi nóng, con cái thì không. Chức cao hơn thì được nổi nóng, chức nhỏ hơn thì không.

Quyền nổi nóng gia tăng theo địa vị xã hội, cho nên vua là tồi nhất trong chứng bệnh này. Nói chạm đến lông chân của vua là chết như không.

Vì vậy rất nhiều người càng lớn tuổi và càng quyền lực thì càng tồi tệ với người nhỏ hơn và thấp hơn. Về khoản sân hận này, xem ra người ta có thể đi xuống trong khi người ta đi lên về địa vị và tuổi tác.

Khi nói đến sân hận, chúng ta có thể nghĩ ngay đến một đám teen nhảy choi choi đánh nhau trên đường phố. Nhưng thực ra, sân hận là vấn đề nhỏ đối với teen, mà là vấn đề lớn hơn rất nhiều đối với người lớn, và là vấn đề cực lớn với những người quyền cao danh trọng và lớn tuổi.

* Điều này rất dễ hiểu, vì càng quyền cao danh trọng thì “cái tôi” càng có nhiều cơ hội để trương phình vĩ đại—với bao nhiêu khen thưởng, nịnh hót, danh tiếng, quyền lực, tiền bạc dồn vào mình. “Cái tôi” càng trương phình, ta càng dễ tự ái vặt—ai phê phán một tí xíu thôi, là có thể đốt ngòi nổ chậm cho bom nguyên tử. Sống gần vua như sống gần cọp là thế.

Nhưng tại sao ta phải diệt sân hận?
anger1
Thưa, bởi vì kinh nghiệm cho thấy khi ta nóng, ta làm nhiều chuyện điên rồ và ngu dốt ngoài sức tưởng tượng. Đọc báo thì thấy nhan nhản hàng ngày: Chồng vợ cải nhau hai ba câu, ông chồng nổi nóng đổ ngay thùng xăng vào vợ và bật hộp quẹt. Học trò làm ồn, cô giáo bực mình tát cho một tát lũng luôn màng nhỉ. Một bạn nói bạn kia ngu, bạn “ngu” bèn rút dao đâm ngay tại cổng trường…

Và cái hận ngấm ngầm cũng chẳng kém hại tí nào, nếu không nói là hại hơn nóng bùng nổ. Truyện kiếm hiệp, ảnh hưởng lớn trong nền văn hóa nước ta, dạy “Quân tử báo thù 10 năm cũng chưa muộn.” Và nhiều người bỏ cả đời, chỉ sống để tầm thù. Hạng “quân tử” của đạo tầm thù và không biết đến đạo lý buông xả này, nhất định phải là sáng tạo của các tiểu nhân thời hậu thế mạt pháp, vì khó tưởng tượng được Khổng Tử–thầy dạy quân tử–lại có thể nhỏ mọn đến thế, chưa cần nói đến thầy dạy buông xả Thích Ca.

Mỗi phút sân hận là mỗi phút stress. Người sân hận thì không thể vui vẻ hạnh phúc được, và stress tạo ra đủ loại tâm bệnh và bệnh cơ thể, như động tim, đột quỵ, tăng khả năng ung thư, làm yếu hệ thống miễn nhiễm để bao nhiêu loại bệnh tha hồ tấn công… Nếu ai muốn đi sớm, thì cứ tự do sân hận thoải mái.

Ngoài cái hại cho chính mình, người nhiều sân hận chẳng vui vẻ được với ai, hay “chia” stress cho những người gần gũi, và gây đau khổ cho những người chung quanh, mỗi khi ai đó làm trái ý họ, dù đó là bạn bè hay thân quyến.

Lãnh đạo hay sân hận thì người dưới trướng sống như sống chung với cọp. Lãnh đạo quốc gia mà hay sân hận thì thường gây chiến tranh với lân bang.

* Điều quan trọng nhất ta thấy là, sân hận chẳng được một lợi ích gì cả. Không có điều gì mà ta không thể làm được mà không cần nổi nóng. Ta có thể làm được mọi điều rất tốt mà không hề phải nổi nóng một tí nào.

Thế nghĩa là sân hận chỉ có thể có hại, hoặc cùng lắm là vô hại trong một vài trường hợp lẻ loi, nhưng không thể có lợi gì cả. Cho nên chẳng có l‎ý do gì chúng ta phải có sân hận trong lòng.

Thế nhưng, không phải là đôi khi nổi nóng, làm dữ, cũng là cách tốt để chống sai trái sao?

Đúng như thế, khi gặp một nhóm cướp đường, có thể cách hay nhất là đập cho các chú một trận rồi bắt nhốt vào trại cải huấn, may ra mới lấy lại được an ninh cho đường phố và giáo huấn các chú được.
cooldown
Hoặc vợ bị chồng áp bức quá, phải nổi nóng chống lại kịch liệt thì may ra chàng ta mới bắt đầu kính nể.

Hoặc dân bị quan chà đạp quá, nổi nóng chống lại kịch liệt thì may ra mới có người nghe lời kêu nài.

Bản tính con người là như thế, đôi khi phản ứng mạnh mẽ thì mới đưa lại kết quả và công lý, còn lúc nào cũng dịu dàng chưa chắc đã được việc.

Nhưng phản ứng mạnh mẽ không có nghĩa là nổi giận hay sân hận, các bạn. Đây là hai điều hoàn toàn khác nhau.

Qui tắc chiến đấu thành công đòi hỏi một con tim thông suốt tĩnh lặng:

Nếu bạn phải chiến đấu như người nổi điên vì tức giận, thì hãy chiến đấu dữ dội như thế, với sự suy tính cẩn thận của một con tim trong trẻo tĩnh lặng như mặt nước hồ thu.

Nếu dữ dội vì suy tính bình thản mình phải làm thế, thì đó là chiến lược thắng,

Nếu dữ dội vì nổi nóng, đó là đường thua và đó không là chiến lược.

Tóm lại, sân hận, như HIV/AIDS chỉ có hại mà chẳng được lợi gì. Chẳng lý do gì mà ta không luyện tập để từ bỏ nó.

Nhưng làm sao để từ bỏ sân hận?

Người ta hay nói nhiều cách để chấm dứt sân hận, dẹp bỏ tính nóng, như là: Uống một ly nước khi nổi nóng; hay có nhiều lòng từ và yêu thương mọi người… Mọi cách đó đều tốt cả. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của mình thì có 2 điều dễ làm nhất để trừ sân hận từ từ. (Trừ từ từ vì bản tính con người không thể xoay ngược trong chỉ một ngày, một tháng, hay ngay cả một năm. Bất kỳ luyện tập nào cũng đòi hỏi kiên trì và nhiều công phu tu tập nhiều năm, mỗi ngày khá một tí). Hai điều đó là:

1. Không bao giờ làm quyết định gì khi bạn đang nổi nóng. Quyết tâm đợi hết nóng rồi hãy tính.

Nếu muốn giải thích cho hắn ta ngay vì mình đang nổi nóng, để đó tính sau. Nguội rồi hãy tính. Nếu muốn đấm cho hắn một đấm vì hắn phi lý quá, để đó tính sau. Hết nóng rồi hãy tính. Không làm quyết định gì khi đang nóng, kể cả khi đang “nóng ngầm.”

Quyết định khi đang nóng đơn giản là dốt, là bất trí.

2. Luôn luôn nhắc mình rằng sân hận hoàn toàn chỉ có hại mà không có lợi, và ta sân hận chỉ vì ta còn là nô lệ của thói quen.

Vì vậy, không l‎ý do gì ta phải tiếp tục nô lệ trong con đường bất trí đó, mà không tìm cách làm chủ tâm mình để có được tự do.

Nếu mình biết sân hận là cái phải dứt bỏ như thế, thì rất khó để cho nó có thể sống lâu trong mình.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

Bài liên hệ: Tham, Sân, Si

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Tham

Chào các bạn,

Tham sân si. Đây là cái mà Phật gia gọi là tam độc, ba loại độc làm cho chúng ta đau khổ. Nguồn gốc mọi khổ đau của chúng ta nằm trong 3 chữ này. Hôm nay ta sẽ nói về chữ “tham” trước.
greed
Hầu như bất kỳ điều gì trên đời ta cũng có thể tham được: Tham tiền, tham tài sản, tham tài năng, tham sắc, tham quyền lực, tham danh tiếng, tham an ninh, tham người yêu/tình yêu, tham thành công … Hầu như bất cứ danh từ nào trong quyển tự điển mấy chục ngàn chữ, cũng đều có thể là đối tượng của máu tham của ta cả: Cái bàn, chim bồ câu, lăng tẩm, sách, cá mập, đô la, phụ nữ … Cho nên chỉ một chữ này thôi, ta có thể đi lạc vòng vòng thế giới, luân lưu sáu nẻo luân hồi qua vô lượng kiếp, không bao giờ dứt (Nói theo kiểu nhà Phật :-)). Cho nên có lẽ vì vậy mà “tham” đứng đầu trong ba độc.

* Tham cái xấu như tham ma túy, tham nổi tiếng ăn cướp, tham áp bức… là chuyện xấu, đương nhiên rồi.

* Nhưng tham cái hay cái đẹp cũng là vấn đề, dù ta thường không thấy vấn dề này — như là, yêu em quá, nhưng thấy em có vẻ như có cảm tình với tên búzù kia, bèn nổi máu du côn đập cho anh chàng một trận. Hay, tham học quá, nhưng anh chàng hàng xóm làm ồn học không được, mới cho anh chàng một búa.

* Tệ nhất và nguy hiểm nhất là tham những lý tưởng cao siêu, cao quý, như là mang ánh sáng của Chúa hay của Allah đến cho thế giới mù lòa, bằng cách chi tiền hay mang quân tấn công đất người để “giúp” họ trở lại đạo. Hay, mang lại công bình hạnh phúc cho thế giới bằng cách mạng đẩm máu giết chết hàng triệu người “cản trở” con đường cách mạng.
greed1
Cái tham “l‎ý tưởng” này ai cũng thấy là to lớn và kinh khiếp số một cho thế giới con người. Phiền một nỗi là cái tham này lại làm cho người ta mù quáng và điên rồ hơn tất cả mọi cái tham khác—Một tên đồ tể giết hàng triệu người như nghóe, cũng có thể rất thành thật tin rằng hắn ta phục vụ Allah hay phục vụ công bình hạnh phúc cho con người. Và hầu như chẳng có cách nào để khuyên can hay giải bày gì cho mấy đại đồ tể này thấy rõ cái ác của họ.

Vấn đề của chúng ta là “ước muốn” khác với “tham” thế nào?

Trong hàng Bồ tát của Phật gia, ước muốn và tham là một. Còn ước muốn là còn tham.

Nhưng chúng ta chỉ mới đến hàng bị bồ tát, cho nên ta khoan lý giải theo hàng Bồ tát và chỉ lý giải theo hàng bị bồ tát mà thôi.

Ước muốn là những giấc mơ thúc đẩy ta tích cực tiến bước về một tương lai tươi sáng.

* Ước muốn cho chính ta thì ích kỷ, không tốt; và ước muốn vị tha, cho người khác–cho xã hội cho thế giới–là ước muốn tốt, phải không các bạn? Hmm… các bạn đã quên những đại đồ tể vẫn tin mình là thánh mà chúng ta mới nói trên kia sao? Chẳng có gì để bảo đảm là khi ta ước muốn cho xã hội thì ta sẽ không là đồ tể. Và chẳng có gì để bảo đảm là khi ta chỉ ước muốn ta khỏe mạnh giàu có thì ta sẽ không là người tốt cho xã hội. Cho nên ta không thể lấy “ước muốn cho ta” hay “ước muốn cho người” làm kim chỉ nam.

* Trong xã hội mọi người sống chung, không ai thực sự quan tâm đến chuyện ta ước muốn cho riêng của ta hay ta ước muốn cho xã hội. Điều duy nhất mọi người quan tâm là sự thực hiện ‎ý muốn của ta có thiệt hại đến người khác không.

Nếu ta muốn có nhiều tiền, nhưng ta kiếm tiền thành thật, không dối trá, không quảng cáo láo, không ăn chận, không tham nhũng, không áp bức người nghèo… thì việc làm tiền đó có gì sai? Thực ra, nếu tiền rơi vào tay những người làm ăn thành thật, thì đây là việc tốt cho họ và cho cả thế giới, vì người thành thật thường dùng tiền của mình để giúp xã hội và những người chung quanh.

Nếu bạn muốn rao giảng lời chúa, nhưng xỉ vả người “ngoại đạo” là mê tín dị đoan, lầm lạc hay vô đạo đức, và không kính trọng truyền thống tâm linh của người khác, kể cả người không theo đạo nào, thì sự rao giảng lời Chúa của bạn có lợi gì cho ai?
gentleness
Nếu bạn đấu tranh cho hòa bình và công lý, mà không giết chóc trù dập ai, cũng không cản trở tiến hóa của xã hội, thì việc làm lý tưởng của bạn chỉ có lợi cho mọi người mà không hại.

Không làm hại người khác khi thực hiện ý muốn của mình, đây là thước đo cách sống của chúng ta.

Dĩ nhiên là nói vẫn luôn luôn dễ hơn làm. Bởi vì nếu bạn tố cáo tham nhũng, đương nhiên là bạn sẽ “làm hại” người bị bạn tố cáo. Thế thì làm sao đây?

Thưa, đây là câu hỏi không có câu trả lời chung, mà tùy theo mỗi trường hợp, bạn phải tự hỏi lòng mình và phải tự quyết định. Có thể bạn tố cáo anh chàng “tham nhũng” này vì hắn lấy mất chức của bạn mấy tháng trước? Nếu thế thì bạn thực sự chống tham nhũng hay bạn đang trả thù? Mà dù là bạn đang muốn trả thù, bạn vẫn nên tố cáo hay không, vì đó là việc tốt cho xã hội? Hay bạn nên đợi khi bạn thực sự không còn ganh tị với người này nữa, rồi hãy tính đến chuyện tố cáo sau, để chắc chắn là mình khách quan trong việc làm?

Rốt cuộc cũng chính cái tâm của mình phải quyết định cho mình. Nếu ta có tâm tốt, không có ý đồ hại ai vì cá nhân mình, lại luôn luôn tránh thiệt hại cho người càng nhiều càng tốt … thì ước muốn và hành động của ta thường là tốt.

Nhưng khi các chính trị gia hại cả triệu người để, họ tin trong lòng, là giúp cả triệu hay cả tỉ người khác, thì chúng ta cần xét lại… vì với các con số lớn như vậy, các tính toán của ta rất khó để chính xác. Thông thường thì, chết chóc và đổ vỡ thấy ngay trước mắt, nhưng hạnh phúc cho xã hội thì chỉ là một cái bánh vẽ của tương lai. Kinh nghiệm của lịch sử thế giới thường cho thấy thế. Vì vậy, khi nói đến đau thương chết chóc cho nhiều người, tốt hơn là đừng tưởng ta là thánh đang “thay trời hành đạo.”

Nói chung là, Không những tâm ta không muốn hại ai, mà hành động cũng không hại ai, thì đó mới là ước muốn tốt.

Suy tư phải tốt, và hành động cũng phải tốt.

Dùng mục đích để biện mình cho hành động là con đường nhanh nhất để biến ta thành đại ác. Như chặt chân con để nó tốt, không đi chơi bậy. “Trong lòng tôi chỉ muốn con tôi tốt mà, tôi đâu muốn hại nó.” Đó là lối suy tư của ác quỷ, các bạn ạ.

Chỉ “ý tốt” không đủ, phải “làm tốt” nữa mới đủ.

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

Bài liên hệ: Tham, Sân, Si

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Nguyên hỏa – Lửa gốc

Chào các bạn,

Nguyên Hỏa là tên một bài thiền thi của đại sư Khuông Việt (Ngô Chân Lưu, 930-1011), sống vào thời Đinh Tiên Hoàng – Lý Công Uẩn. Bài này mới được đăng gần đây trong slideshow Thiền Thi. Hôm nay mình sẽ giải thích về bài này một tí, nhấn mạnh đến khía cạnh tư duy tích cực của bài thơ.
flame
Lời dịch tiếng Việt của bài thơ như sau:

Lửa gốc

Trong cây đã có lửa
Có lửa nên sinh lửa
Nếu cây không có lửa
Cọ xát sao thành lửa

    TDH dịch

Lời nguyên thủy Hán Việt là:

Nguyên hỏa

Mộc trung nguyên hữu hỏa
Nguyên hỏa phục hoàn sanh
Nhược vị mộc vô hỏa
Toàn toại hà do manh?

Đây là lấy ý từ việc tạo lửa bằng cách dùng hai thanh củi khô cọ vào với nhau. Các bạn trong quân đội, hướng đạo (boy or girl scouts), hay các đoàn thể thanh niên, học môn mưu sinh thoát hiểm, đều biết cách tạo lửa này.

Bài thơ rất giản dị rõ ràng, chẳng có gì bí hiểm cả. Nhưng, đại sư Khuông Việt muốn chuyển tải điều gì, ngoài việc tạo lửa nấu… mì vằn thánh chay? 🙂

Trong Phật học, dĩ nhiên “lửa” ở đây là nói về đích điểm cuối cùng của tu học, tức là giác ngộ, trí tuệ, hay Bát Nhã.

(Một chú thích nhỏ ở đây: Tất cả các từ này—trí tuệ, Bát Nhã, giác ngộ– hơi khác nhau một tí về khái niệm, nhất là khi chúng ta suy nghĩ theo luận lý Tây phương–mỗi từ phải có một nghĩa rõ ràng, khác các từ khác. Ví dụ: Bát Nhã là trí tuệ tối thượng, nhờ đó ta có thể đi đến giác ngộ. Bát Nhã là phương tiện và giác ngộ là mục tiêu. Tạm thời trong bài này, ta có thể cứ suy nghĩ theo kiểu Tây như thế. Nhưng theo cách suy tư triết lý của Phật gia, thì phương tiện và mục đích là một, Bát Nhã và giác ngộ là một. Nhưng tạm thời ta không cần quan tâm đến điểm rất tế nhị đó trong bài này).
light
Chúng ta thường nghĩ rằng trí tuệ hay giác ngộ là cái ta phải cố gắng để đạt, từ bên ngoài, từ sách vở kinh kệ, từ thầy cô. Mỗi ngày ta đạt thêm một tí, đi xa hơn một tí, lên cấp cao hơn một tí. Cho đến một ngày nào đó ta đạt đủ trí tuệ, và ta giác ngộ. A! Qua rồi, qua rồi, qua bờ rồi, qua bờ hết rồi, giác ngộ rồi, sướng quá! 🙂

Thế là ta ngỡ rằng ta đạt được trí tuệ và giác ngộ bằng cách gặt hái kiến thức và giác ngộ từ bên ngoài vào.

Nhưng, lửa đã có sẵn trong cây. Lửa không vào từ bên ngoài. Lửa có sẵn trong cây, và sẽ bùng ra khi có đủ điều kiện bùng ra, như là khi cây cọ sát vào nhau hay khi gặp sức nóng của mặt trời.

Khổng tử nói, Nhân chi sơ tính bản thiện. Thánh kinh nói, con người do Thượng đế tạo ra theo hình ảnh của Ngài với hơi thở của Ngài.

Nghĩa là, trí tuệ và giác ngộ–tức là con tim thiện hảo—của ta đã có sẵn trong ta từ nguyên thủy, khi gặp đủ điều kiện tốt, thì trí tuệ đó, giác ngộ đó, con tim thiện hảo đó, sẽ lộ diện. Trí tuệ, giác ngộ, con tim thiện hảo, không phải là cái ta lấy được từ bên ngoài, mà là cái ta đã có sẵn, nhưng ta không thấy, đến lúc ta hội đủ điều kiện thì chúng tự nhiên hiện ra (và ta “hốt nhiên đại ngộ”!).

Vậy nghĩa là sao?

Nghĩa là nếu bạn tin rằng bạn xấu xí, bẩn thỉu, tội lỗi, ngu dốt, số con rận, sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu… tức là bạn không thấy được chân tướng thiện hảo sáng láng của bạn. Chỉ cần vén được bức màn “vô minh” che mắt bạn, thì chân tướng thiện hảo sáng láng đó sẽ hiện ra.

Bức màn vô minh đó là gì?

Đó là suy tư tiêu cực về chính mình, tiêu cực về người khác, và tiêu cực về cuộc đời.yourselfthelight
Là kiêu căng,
Là tham lam,
Là dối trá,
Là sân hận,
Là sợ hãi,
Là chỉ tin vào con mắt mà không suy xét sâu hơn,
Là con tim dao động không ngừng bởi tất cả những điều trên.

Chân tướng thiện hảo sáng láng của bạn sẽ hiện ra khi bạn chấm dứt được những điều trên–khi con tim bạn thanh tịnh tinh khiết.

Phúc cho những người có con tim tinh khiết, vì họ sẽ thấy được Thượng đế–tức là sẽ thấy được “hình ảnh và hơi thở của Thượng đế trong chính ta.”

Mỗi chúng ta là một viên kim cương. Bạn không thấy được điều đó sao?

Đừng mong cầu kim cương ở ngân hàng, hay ở các đại sư đại ni, hay ở những rừng sách vở kinh điển. Chính ta đã là viên kim cương sáng láng.

Hãy vén bức màn vô minh, thì trí tuệ hiện ra sáng láng, thì ta sẽ thấy được những điều ta đã không thấy và nhiều người đang không thấy. Và tâm ta sẽ điềm nhiên tự tại, không dao động với bao nhiêu khổ đau và stress do con tim dao động gây ra.

Chúc các bạn một ngày thiện hảo.

Mến,

Hoành

© copyright 2009
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

Nhạn ảnh (thiền thi)

wildgeese
Nhạn ảnh

Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm

Thiền sư Hương Hải (1627-1715)

.

Nhạn và Bóng

Nhạn vút qua không
Bóng chìm nước lạnh
Để dấu: nhạn không có ý
Giữ bóng: nước cũng vô tâm

Võ Đình (1933-2009)

.

wildgeese3

A Wild Goose and Its Image

A wild goose, flies across the sky
Its wings reflect in the cold water
The bird does not mean to leave its image
The water has no desire to retain it

(trích Hương Thiền, Võ Đình dịch)

.

Giải thích:

Nhạn bay qua trời, ta cho đó là THỰC.
Ảnh nhạn bay dưới nước, ta cho đó là ẢO ẢNH.
Nhưng nhạn bay rồi, không còn dấu tích, chỉ còn khoảng trời KHÔNG. Đó là Ý.
Ảnh cũng thế, khi ảnh qua rồi không còn dấu tích, chỉ còn khoảng trời KHÔNG. Đó là TÂM.
Mọi điều ta cho là THỰC hay ẢO ẢNH đều chỉ là ảnh hình trong khoảnh khắc.
Chỉ có khoảng KHÔNG là tồn tại vĩnh viễn.
KHÔNG đó chính là TÂM Ý.
TÂM ta thanh tịnh như trời KHÔNG. Tất cả những gì đi qua tâm, dù ta cho là thực hay là ảo ảnh, cũng chỉ là phù du trong khoảnh khắc, như mây bay ngang trời. Mây đến mây đi. Trời KHÔNG luôn thanh tịnh.
Đau đớn, buồn rầu, tủi hổ, hờn giận, mừng vui, thất vọng, tuyệt vọng, công hầu khanh tướng–tất cả chỉ là những đám mây qua trời, trong khoảnh khắc. Bản chất của TÂM ta là không, là rỗng lặng.

Chúc các bạn một ngày vui. Sau đây mời các bạn thưởng thức ba bức tranh của anh Võ Đình

Nguyệt Cầm là tranh sơn dầu trừu tượng
Công Cha là tranh mộc bản. Con ngựa là tuổi của bố anh Võ Đình.
Nghĩa Mẹ là tranh mộc bản.

Mến,
Hoành
.

Nguyệt Cầm (Võ Đình 1933-2009)
.

Công Cha (võ Đình 1933-2009)
.

Nghĩa Mẹ (Võ Đình 1933-2009)

Bóng Nhạn – tranh Võ Đình