Sau những ngày bôn ba du ngoạn Tây Bắc và dự trại sáng tác ở Mộc Châu về. Hà Nội oi nồng nắng nóng nên đành giam mình trong nhà làm bạn với cái máy tính không bao giờ biết kêu ca đòi hỏi, thì bất ngờ nhận được lời bình của nhà thơ Hoàng Xuân Họa về tập thơ: “Mục xó xỉnh cười” của Du Nguyên, XNB Hội Nhà văn-2011.Thơ Du Nguyên đã mới, đã “điêu ngoa”, đã lạ lại được “chàng trai” Hoàng Xuân Họa, sinh năm 1939 với hai lần “Trót một thời yêu” và viết cuốn dạy cách làm thơ bình thì còn gì bằng nữa. Một người “điêu ngoa” trẻ trung gặp một người “điêu toa” thâm trầm, uyên bác. Đúng là một cặp bài trùng trời sinh giữa biển thơ thời mở cửa!Những cái Du Nguyên viết có phải là thơ không nhỉ? Mới đọc vài dòng thì thật không thể nhịn cười rồi lặng đi trong suy ngẫm. Cấu tứ lạ, ngôn từ lạ, tràn ngập âm thanh và hình ảnh lạ, cách thể hiện lạ nhưng đằng sau những con chữ “điêu ngoa” lạ kia là cảm quan của người viết trước bộn bề cuộc sống, trước lòng người và nhân tình thế thái một cách tinh tế và sâu sắc. Cái cách thể hiện độc đáo, đôi khi mang âm hưởng dân gian tạo một ấn tượng khó phai đến mức ám ảnh khi đã hiểu và cảm. Ô! Thế là thơ chứ còn gì nữa, thơ đích thực ấy chứ, mà cái thú là thơ Du Nguyên không hề giống ai, không như bây giờ đọc thơ cứ phải nhấc mũ chào liên tục, hoặc “mới” và ” “hiện đại” đến mức người đọc không hiểu họ viết cái gì!
Nhân Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lưu Trọng Lư (19/6/1911 – 19/6/2011)
NHÀ VĂN CỦA KHÁT VỌNG TÌNH THƯƠNG
(Tùy bút, Nguyễn Anh Tuấn)
Nếu được sống trăm lần Chúng con xin nguyện được chết trăm lần Vì đất Mẹ Đất vô lượng tình thương
Lưu Trọng Lư
Cách đây chưa lâu, trong khi cả nước cồn cào lo toan và đau xót trước cảnh tan hoang bởi lũ lụt ở miền Trung, trên trang mạng Vanvn xuất hiện một thiên tiểu thuyết của nhà văn Lưu Trọng Lư: “Cầu sương điếm cỏ” (do nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân mới tìm thấy) viết về hậu quả cơn lũ lụt khủng khiếp ở Quảng Bình năm 1935; và câu chuyện thương tâm nhà văn kể lại quanh số phận hai đứa trẻ bị mất mẹ trong lũ phải lang thang tự kiếm sống, cùng với những cảnh đau lòng hiện tại dường như cũng góp phần lay động lương tri xã hội- cái lương tri vốn bắt đầu rệu rạo bởi những tiêu cực tràn lan khó kiểm soát… Lần đầu tiên được đọc thiên truyện đó, tôi đã không chỉ một lần ứa lệ trước tấm lòng của nhà văn và bồi hồi nhớ lại cảnh những bàn tay trẻ em dỡ ngói nóc nhà kêu cứu trên nước trắng… Còn giữa những ngày nóng nực tháng 6 này, giữa cơn “địa chấn” của lòng người trước chủ quyền Đất Nước bị xâm phạm trắng trợn, tôi đã bỗng nhớ đến một bài thơ yêu nước Tây Ban Nha do chính nhà văn Lưu Trọng Lư đọc cho nghe, cách đây hơn hai chục năm, trong căn buồng của nhà văn đối diện phía sau Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Có mấy câu in hằn trong tâm trí tôi:
(Nhân đọc bài QUAN HỌ KHÔNG NGOẠI TÌNH của Nguyễn Nguyên Bảy)
Nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy gửi bài thơ này cho tôi với một lời chú thích: “Đây là bài hóa giải mọi oan ức hận thù của anh, bài này anh mơ viết bao năm nay bây giờ mới viết được.” (Thư điện tử)
Nguyễn Nguyên Bảy khiêm nhường tự nhận là “người thơ nghiệp dư”, nhưng thực ra đó là một tác giả rất có ý thức về sự nghiệp thơ ca của mình, và rất chuyên nghiệp. Nhà nghiên cứu văn học Đỗ Quyên (Canada) có lần viết cho tôi: “Nguyễn Nguyên Bảy là tác giả thật kì khôi; tôi chưa hình dung hết, có lẽ vì chưa đạt được “cảnh giới”. Hình như cánh “chuyên nghiệp” kính nhi viễn chi loại tác giả như vậy. Có điều này tôi chưa hiểu rõ: dường như ở Thơ và Người Thơ Nguyễn Nguyên Bảy có sự chen lấn nhau, khiến cho Thơ (văn bản) bị Người Thơ cưỡng bức. Tác giả tự nhận là “nghiệp dư” có lẽ là vậy chăng? Hay tác giả coi đời sống thơ như một thứ đạo, mà tác phẩm chỉ là phó sản của Sống Đạo? Thiển ý, đây là nút để mở thơ Nguyễn Nguyên Bảy ra đọc.”( Thư điện tử)
Tôi buộc phải viện dẫn lời chuyên nghiệp của bạn để mong có một bàn đạp khả dĩ góp phần lý giải một bài thơ chứa những nội dung hình tượng quá phong phú và quá phức tạp như bài thơ này. Tôi còn cho rằng: đây là bài thơ đau xót nhất và đồng thời cũng nồng ấm bậc nhất của Nguyễn Nguyên Bảy!
“Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển/ Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa/ Ngàn năm trước con theo cha xuống biển/ Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa”, những vần thơ được Nguyễn Việt Chiến viết ra từ năm 2009, đang được lan truyền mạnh mẽ trong cộng đồng.
> Những vần thơ hay về quê hương, đất nước
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến trong một chương trình đọc thơ.
Dưới đây là cuộc trò chuyện giữa nhà thơ Nguyễn Việt Chiến với VnExpress.
– Sau khi được đăng tải trên báo Thanh Niên, bài thơ “Tổ quốc nhìn từ biển” của ông được lan truyền mạnh mẽ trên mạng. Ông có thể chia sẻ về sự ra đời của bài thơ?
( Đọc bài thơ “Lời chim câu” của Nguyễn Nguyên Bảy )
Thời gian vừa qua, những bài thơ của NNB tựa một sự tổng kết, chiêm nghiệm những gì đã trải qua trên đường đời- như chùm thơ về Mẹ, và mới đây nhất là về Tình nghĩa trăm năm gói trong chùm “Lời chim câu”. Quen biết anh từ khi tôi còn ở tuổi thanh xuân, thuộc không ít thơ anh qua nhiều giai đoạn, song cứ mỗi lần tiếp nhận một bài thơ mới của anh, tôi đều thấy ngỡ ngàng bởi sự say mê không mệt mỏi của anh trong việc khám phá thế giới bản thân mình bằng thơ ca. Nhưng dường như, đối với người thi sĩ có phần lạ lùng bí hiểm này, Nghệ thuật chữ nghĩa càng ngày càng trở nên chỉ là thứ phương tiện sau rốt. Anh tối giản câu chữ bóng bẩy, phép tu từ, mỗi câu thơ chỉ giống như lời nói thô mộc hàng ngày, hoặc chắc nịch như tục ngữ, ngọt sắc như ca dao, thậm chí đưa cả lời chú thích nặng thông tin vào cấu trúc thơ, thế nhưng, hiệu quả thơ thực bất ngờ khiến người đọc không thể chỉ đọc một lần câu thơ, khổ thơ, bài thơ ấy, kích thích họ bằng chính trải nghiệm của mình để khám phá thêm ý nghĩa và sự lý thú của chúng… Đằng sau những câu thơ, hình tượng thơ đó là toàn bộ cuộc sống đầy trăn trở ngẫm ngợi, chất chứa niềm thương yêu của người viết, và chứa đựng một nội hàm văn hóa sâu xa.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy có ba bài thơ liên hoàn viết về người Mẹ đã khuất của anh.
Nếu như trong “Thơ NNB I”, nhà thơ đã dựng được tượng đài tinh thần kỳ vĩ về người cha của mình qua trường ca “Sông Cái mỉm cười”, thì trong “Thơ NNB II” này, với ba bài thơ ngắn về mẹ, anh làm thế nào để hình tượng mẹ tương xứng với hoài niệm của chính anh?
Ta hãy đi vào từng bài.
1. Phật Hát
Yếm thắm không bỏ bùa sư
Mà sư cứ đòi xoa yếm thắm
Mẹ bảo này trọc đầu
Trong ngực tôi có Phật
Trọc đầu có sợ ố cà sa?
Tối thứ Bảy, 31/7/2010, tại Trung Tâm Văn Hóa ngôn Ngữ Đông Tây, Hà Nội, nhà thơ Bằng Việt đã đò đưa thơ tôi (Nguyễn Nguyên Bảy) thế này. Hình ảnh và Băng ghi âm:
Nguyễn Nguyên Bảy là người làm thơ cùng thời với tôi,với Lưu Quang Vũ,Vũ Quần Phương,Trúc Thông…tức là cùng lứa những nhà thơ khói lửa chống Mỹ.Nhưng anh đã rẽ sang một lối khác sau khi xuất hiện khá ấn tượng trên báo chí và phát thanh (anh làm việc ngành phát thanh).Chúng tôi nghĩ là anh đã bỏ thơ chạy theo một tình yêu khác. Nhưng sau bốn chục năm,Nguyễn Nguyên Bảy đã quay trở lại với thơ,kỳ lạ,sang trọng và làm choáng tất cả với tập thơ Nguyễn Nguyên Bảy đồ sộ 500 trang mà tôi và các bạn đang cầm trong tay, có trước mặt lúc này.
Tôi nhắm nghiềm mắt hồi lâu
Mới hay cái ngủ từ đầu ngủ ra
Chương Cuối, Trằn Trọc Tu Thân
Lời phi lộ chương đầu tôi tỏ ra là một người khinh miệt chủ nghĩa kinh nghiệm, nhưng qua 13 chương đò đưa thơ này, tôi đã tỏ ra là một người kinh nghiệm chủ nghĩa. Đó là một hư xấu, một giả dối. Độc giả (nếu đọc nó) hãy coi đây là một tự đánh giá, hay là một tâm sự mà cảm thông cho; vì tất nhiên đối với bất kỳ người cầm bút nào cũng cần đánh giá từng giai đoạn để thấy hiện tại và tương lai, để xét minh trên phương diện người làm thơ, nên hay không nên tiếp tục công việc của mình.
Việc tu vần đã khiến cho những câu thơ viết ra đạt được những tiêu chuẩn nhất thiết phải có của nó, về tính họa trong thơ, tính nhạc trong thơ, tính tư tưởng trong thơ…
…Nói cách khác, hình ảnh, hình tượng, triết lý, trí tuệ đều làm nên bởi câu chữ, mà câu chữ sử dụng trong thơ là câu chữ của vần điệu.
Sẽ có người nói rằng: Thơ tự do chính là thơ không vần! Đúng, nó không nằm trong qui luật vần thông thường, nó tuân theo qui luật vần ẩn, vần kín kín đáo nằm trong nhịp điệu, trong các thanh bằng chắc và chấm phẩy. Đó là sự tự do trong giới hạn thơ, chứ tuyệt nhiên không phải tự do là muốn lắp ghép từ ngữ thế nào cũng được…
Những Người Đãi vàng
Thực ra trong cách nói văn vẻ này tôi không chỉ dừng lại ở việc chọn chữ. Mà phải nói khái quát một quá trình chọn: Hình tượng, hình ảnh, câu, chữ, vần điệu…
Chào các bạn,
Dưới đây là video về cảnh đàn cá hồi đỏ đang chạy ngược dòng để đẻ trứng.
Cá hồi là loại cá sinh ra ở các suối nước ngọt, sau đó sẽ di cư theo sông ra sống ở biển. Sau khoảng từ 1 tới 5 năm trưởng thành ở biển, salmon sẽ quay lại vùng suối nơi chúng được sinh ra để đẻ trứng.
Đây là một cuộc trở về gai góc vì phải lội ngược nước đi lên vùng cao. Nhiều cá hồi sẽ chết trên chuyến đi ngược dòng vì kiệt sức, và vì bị người hay gấu bắt. Và những con cá mẹ đến được đầu nguồn, sẽ đẻ trứng, và chết sau khi đẻ.
Một chuyến đi về nguồn như thế có thể dài đến 1400 km và lên cao tới 2,100 m đẻ trứng.
Nhà thơ Trần Mộng Tú đã viết “Mùa Thu, Tình Yêu và Cá Hồi” dưới đây.
Chúc các bạn một ngày về nguồn 🙂
Hiển
Mùa Thu, Tình Yêu và Cá Hồi
Mùa thu đã đến đây
con suối đẹp nhất làng đang ngập đầy thuyền lá.
Sao anh không về cùng cá Hồi
để em được làm những chiếc vẩy lấp lánh
em sẽ mang thai
em sẽ sanh những chiếc trứng màu hồng ở trong dòng suối cũ
như con cá hồi chết sau những lần sanh nở
những chiếc vẩy sẽ không còn nữa
trên lưng anh
em sẽ chết cùng với mùa thu.
Tình trạng thơ không có tứ hiện rất phổ biến và nhiều người mắc phải. Những bài thơ này thường kể lể dài dòng, miên man, vấn đề tung ra vung vãi, hình ảnh và hình tượng chạy xa chủ đề. Nói tóm lại là người đọc chẳng hiểu nhà thơ định nói gì…
Muốn làm thơ có tứ, thì việc tập dượt ban đầu phải như người học sinh làm luận, cả trong tư duy và khi viết, luôn luôn tự hỏi mình: Câu này có phục vụ cho điều mình định nói không. Lúc đầu, phương pháp sáng tác này có thể hơi lố bịch, thêm cái khô khan, cứng ngắc và không có vẻ gì là công việc của một nghệ sĩ. Nhưng từ những lao động cơ bản này công việc làm thơ dần dà trở nên vững chắc con đường thành tựu. Ví như người diễn viên chèo vất vả khi học những làn điệu cổ trước khi cập nhật những làn điệu cách tân.
Xương Cốt Của Thơ
Thật thú vị khi nói về xương cốt của thơ. Xương cốt của thơ chính là cái tứ, bài thơ cần thiết phải có xương cốt, cần phải có tứ.
Nên định nghĩa thế nào là tứ thơ?
Trước hết hãy nói công việc mở đầu cho một bài thơ. Đối với một bài thơ tôi thường bắt đầu bằng hai phương pháp khác.
1. Đã thuộc rất mạch lạc vấn đề mình sẽ viết, thuộc đến nỗi – như tôi đã nói ở trên – chỉ việc đặt bút xuống và mặc cho dòng thơ cuốn mình đi, cuốn cho đến chữ cuối cùng dừng lại, là bài thơ đã kết thúc. Chẳng những tôi thuộc lòng nội dung mà còn thuộc lòng cả hình thức biểu hiện. Đối với phương pháp này tôi có thể trả lời một cách dũng cảm: Mình viết cái gì và đã viết như thế nào.
Góp thêm một cách hiểu câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử
Dương Hiền Nga
Trong thời gian qua, đã có rất nhiều bài viết trao đổi về câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” trên mặt báo. Để trả lời câu hỏi “mặt chữ điền” là gương mặt của ai? Mặt cô gái hay chàng trai, cho đến này dường như vẫn chưa thật ngã ngũ một cách thỏa đáng.
Theo tôi, nên đặt câu thơ và chỉnh thể nghệ thuật Đây thôn Vĩ Dạ để xem xét sẽ thấy đây là câu thơ tả cảnh thôn Vĩ chứ không phải tả mặt người.
Tượng đài cụ Nguyễn Khắc Nhu tại quê hương Yên Dũng, Bắc GiangÔng sinh năm 1881, tại làng Song Khê, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Xuất thân trong một gia đình Nho học, thuở nhỏ ông theo học khoa cử, năm 1912 đi thi Hương đứng đầu cả xứ Bắc Kỳ nên đương thời gọi là Đầu Xứ Nhu, gọi tắt là Xứ Nhu. Ông không chỉ là một lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân đảng, với chức vụ trưởng ban lập pháp, người có vai trò quan trọng trong đường lối đấu tranh vũ trang của Việt Nam Quốc Dân đảng, mà còn là một nhà thơ chân chính. Mỗi trang, mỗi dòng như chính cuộc đời bi hùng của ông, chứa chan tinh thần yêu nước, thương nòi.
Là một nhà nho chân chính, hết lòng yêu quê hương đất nước, ông chủ trương đấu tranh vũ trang chống thực dân cướp nước dành chính quyền, vì vậy thơ ông khác hẳn với những nhà nho đương thời: Đó là hơi thở của dân gian, mang cái hồn trí tuệ và tầm cao thời đại. Nơi ông sinh ra là cái nôi của nhiều làn điệu dân ca và văn học dân gian. Ngay từ nhỏ ông đã từng theo một phương chèo đi khắp miền Bắc Giang, Bắc Ninh, Lạng Sơn. Những làn điệu dân ca đầy chất trí tuệ, nhưng không kém phần lạc quan thấm vào ông từ lúc nào. Chí lớn, hoài bão của ông được thể hiện rõ nét trong thơ. Đây là câu đối treo trên tường lớp học, cùng bản đồ thế giới: