Category Archives: Nhạc Xanh

Phil Collins và Against All Odds

Hôm nay Nhạc Xanh giới thiệu với các bạn một tài năng âm nhạc người Anh, lừng danh quôc tế như một ca sĩ, nhạc sĩ, tay trống, tay chơi keyboard, và diễn viên. Người ta nói rằng Phil Collins sinh ra để chơi trống, và hát solo bởi nhịp gõ, tiết điệu, và tài sáng tạo riêng của ông đã tạo ra một phong cách vô cùng độc đáo phù hợp với các thể loại âm nhạc mà ông chọn biểu diễn và được thừa nhận bởi những khán giả tinh tế và yêu cầu cao.
Phil_Collins_Wierd
Philip David Charles, “Phil” Collins sinh ngày 30 tháng 1 năm 1951 tại Chiswick, London. Sự nghiệp âm nhạc của Collins bắt đầu như một tay trống, ban đầu với ban nhạc không mấy tên tuổi là Flamming Youth, về sau nổi tiếng với ban nhạc Rock Genesis. Vừa chơi trống, vừa hát solo rất thành công, Collins được Atlantic Records xếp vào nhóm ca sĩ solo đã bán được 150 triệu đĩa vào năm 2002.

Lên 5 tuổi, cậu bé Collins nhận được món quà Giáng sinh là một bộ trống đồ chơi. Về sau, ông cậu Mark Wade đã làm cho cậu một bộ gõ thực sự, qua đó nó đã giúp cậu luyện tập nâng cao khả năng của mình. Collins luyện tập nhạc không theo một giáo trình nào cả, ngay cả cách đọc và viết nốt nhạc ông cũng không được học qua, chủ yếu là tự học theo cách chơi học được trên tivi, và trên đài với hệ thống nốt nhạc tự chế. Đến năm 14 tuổi ông mới được đào tạo về kịch nghệ khi ông vào trường Trung học Sân Khấu Barbara Speake và đóng vai Artful Dodger trong vở nhạc kịch Oliver ( Dickens). Trong phim của Beatles- A Hard Day’s Night ông đóng một vai phụ và ngoài ra tham gia lồng tiếng cho vai diễn Romeo trong phim Romeo và Juliet (1968).

Mặc dù khởi đầu khá thuận lợi với nghề diễn viên, nhưng ông vẫn luôn tập trung vào ca nhạc. Trong thời gian ở trường Chiswick Community School Collins thành lập ban nhạc The Real Thing và sau đó gia nhập ban The Freehold với ca khúc đầu tay Lying Crying Dying. Năm 1969 anh cùng ban nhạc Flamming Youth nhận đươc hợp đồng sản xuất đĩa đầu tiên và phát hành Album Arc 2, tuy Album này không bán được nhiều. Do không mấy thành công ban nhạc sớm tan rã.

Trong vòng 6 năm, từ 1984 đến 1989 Collins đã 7 lần đoạt được vị trí số 1 trong bình chọn Billboard Hot 100 của Mỹ; ngoài lần xếp thứ nhất với album Invisible Touch ghi âm với ban nhạc Genesis.

Phong cách đa dạng mà độc đáo của Collins được thể hiện rõ nét trong các ca khúc của ông. Có những bài mang phong cách trống làm chủ như In the Air Tonight, đến những bài mang nhịp điệu Pop Sussudio hay mang đậm sắc thái chính trị, xã hội của Another Day in Paradise. Ca khúc này đến nay được cho là thành công nhất của Collins. Không chỉ có vậy, những ca khúc về tình yêu và nỗi sầu đau do dư vị ngậm ngùi của những cuộc hôn nhân không bền lâu của Collins cũng là những chủ đề sáng tác quen thuộc. rainbow_concepts_

Sự nổi tiếng của ông trên thế giới đã ảnh hưởng khá nhiều đến thành công của Genesis. Ban nhạc này đã nhận được đề cử Video Của Năm 1987 của MTV cho đĩa đơn Land of Confusion.

Nhiều album khác của Collins được xếp trong số Top 30 ở Anh, Mỹ và các nước khác như Secret Policeman’s Other Ball – The Music 1982, và Something’s Going On ( của Frida, ABBA), và I Know There’s Something Going On”, trong đó Collins chơi trống và hát đôi với Frida trở thành top hit quốc tế.

Đặc biệt bài hát ballad Against All Odds (Take a Look at Me Now) là bài hát chủ đề cho bộ phim Against All Odds (1984) nhanh chóng nhảy lên hạng 1 ở Mỹ, hạng 2 ở Anh, tạo thêm danh tiếng cho người nghệ sĩ đa tài. Đây là một bài hát trữ tình, như tiếng lòng của người nghệ sĩ đã được viết ra và hát bằng tất cả cảm xúc.

Album thành công nhất của Collins là No Jacket Required có 3 bài hát top số 1 ở Mỹ được trao giải Grammy và là Album của năm.

Phil Collins cũng là nghệ sĩ tích cực tham gia cùng Bob Geldof tại chương trình âm nhạc từ thiện Live Aid và là người duy nhất trình diễn ở 2 nơi: Sân vận động Wembley ở Anh, và sân vân động JFK tại Mỹ.

Mời các bạn thưởng thức bài Against All Odds ( nhạc chủ đề phim cùng tên; được trình diễn tại chương trình từ thiện Live Aid)
another day

Tiếp theo là bài Another Day in Paradise về những kẻ không nhà xếp hạng 1 trên Billboard cuối năm 1989 và đã đem về cho ông một giải Grammy cho ca khúc của Năm (1990).

Và bài thứ ba là True Colors mà ca từ rất đẹp bởi giàu chất nhân bản: an ủi, động viên, và yêu thương những mảnh đời khốn khó, bất hạnh đi vào lòng người nghe:

Em với đôi mắt buồn . Xin em chớ nản l òng. Vẫn biết không dễ gì can đảm trong một thế giới quá đông người mà em có thể không nhìn thấy chi. Và bóng tối trong em có thể làm em thấy nhỏ nhoi.
.

1 AGAINST ALL ODDS

http://www.youtube.com/watch?v=-OiV_5kEt6A&feature=related
.

How can I just let you walk away, just let you leave without a trace
When I stand here taking every breath with you, ooh
You’re the only one who really knew me at all

How can you just walk away from me,
When all I can do is watch you leave
Cos we’ve shared the laughter and the pain and even shared the tears
You’re the only one who really knew me at all

So take a look at me now, oh there’s just an empty space
And there’s nothing left here to remind me,
Just the memory of your face
Ooh take a look at me now, well there’s just an empty space
And you coming back to me is against all odds and that’s what I’ve got to face

I wish I could just make you turn around,
Turn around and see me cry
There’s so much I need to say to you,
So many reasons why
You’re the only one who really knew me at all
So take a look at me now, well there’s just an empty space
And there’s nothing left here to remind me, just the memory of your face
Now take a look at me now, cos there’s just an empty space
But to wait for you, is all I can do and that’s what I ‘ve got to face
Take a good look at me now, cos I’ll still be standing here
And you coming back to me is against all odds
It’s the chance I’ve gotta take
.

2/ ANOTHER DAY IN PARADISE

http://www.youtube.com/watch?v=svR8YA-DXCg&feature=related
.

She calls out to the man on the street
sir, can you help me?
It’s cold and I’ve nowhere to sleep,
Is there somewhere you can tell me?

He walks on, doesn’t look back
He pretends he can’t hear her
Starts to whistle as he crosses the street
Seems embarrassed to be there

Oh think twice, it’s another day for
You and me in paradise
Oh think twice, it’s just another day for you,
You and me in paradise

She calls out to the man on the street
He can see she’s been crying
She’s got blisters on the soles of her feet
Can’t walk but she’s trying

Oh think twice…

Oh Lord, is there nothing more anybody can do?
Oh Lord, there must be something you can say

You can tell from the lines on her face
You can see that she’s been there
Probably been moved on from every place
cos she didn’t fit in there

Oh think twice…
.

3. TRUE COLORS

.

You with the sad eyes
Don’t be discouraged
Oh I realize
It’s hard to take courage
In a world full of people
You can lose sight of it all
And the darkness, inside you
Can make you feel so small

But I see your true colors
Shining through
I see your true colors
And that’s why I love you
So don’t be afraid to let them show
Your true colors
True colors are beautiful,
Like a rainbow

Show me a smile then,
Don’t be unhappy, cant remember
When I last saw you laughing
If this world makes you crazy
And you’ve taken all you can bear
You call me up
Because you know I’ll be there

And I’ll see your true colors
Shining through
I see your true colors
And that’s why I love you
So don’t be afraid to let them show
Your true colors
True colors are beautiful,
Like a rainbow

[intru part]

So sad eyes
Discouraged now
Realize

When this world makes you crazy
And you’ve taken all you can bear
You call me up
Because you know I’ll be there

And I’ll see your true colors
Shining through
I see your true colors
And that’s why I love you
So don’t be afraid to let them show
Your true colors
True colors, true colors

Cos there’s a shining through
I see your true colors
And that’s why I love you
So don’t be afraid to let them show
Your true colors, true colors
True colors are beautiful,
Beautiful, like a rainbow

Thân ái chúc các bạn một ngày mới vui tươi, hiệu quả

Lãng mạn giai điệu “Widmung”

SchuhmannChào các bạn,

Trong chuyên mục Nhạc Xanh hôm nay, mình xin được tiếp tục giới thiệu với các bạn đôi nét về nhà soạn nhạc Robert Schumann và một trong những nhạc phẩm đẹp nhất và lãng mạn nhất của ông – “Widmung” (dịch sang tiếng Anh là “Dedication”)

1) Tiểu sử (theo wikipedia): Robert Schumann, hay Robert Alexander Schumann (8/6/1810 – 29/7/1856) là một nhà soạn nhạc và phê bình âm nhạc nổi tiếng của Đức. Ông là một trong những nhà soạn nhạc lãng mạn lừng danh nhất thế kỷ 19. Đầu đời, Schumann theo đuổi ước mơ trở thành một nghệ sĩ violon và mong muốn này bắt nguồn từ sự động viên của thầy giáo ông là Friedrich Wieck, người đã khuyên Schumann rằng ông có thể trở thành nghệ sĩ violon bậc nhất châu Âu. Tuy nhiên, một chấn thương tay đã cản trở ước muốn này của Schumann và ông đã quyết định dồn sức lực cho việc soạn nhạc. Ông soạn nhạc cho piano và dàn nhạc, sáng tác các tác phẩm lieder, giao hưởng, opera, thánh ca và thính phòng.

WidmungNăm 1840, Schumann kết hôn với nghệ sĩ piano Clara Wieck, một nhân vật có tiếng trong thời kỳ âm nhạc lãng mạn của dòng piano. Trong hai năm cuối cuộc đời, sau một vụ tự sát bất thành, Schumann bị đưa vào một viện tâm thần trong những năm cuối cuộc đời.

2) Widmung: (dịch sang tiếng Anh là “Dedication”) là một trong những nhạc phẩm bất hủ của R. Schumann. Ông đã sáng tác bài này để làm quà cưới cho người vợ của mình, nàng Clara Wieck. Ông đã thể hiện được một cách sâu sắc cảm xúc, tình cảm nồng nàn và dâng hiến, sợ hãi và mong chờ, thất vọng và cam chịu, những hy vọng và ước mơ trong cuộc sống hôn nhân của mình trong tác phẩm này. Ông soạn bài nhạc này vào những ngày đầu năm 1840 và hoàn tất vào tháng 4/1840. Đến năm 1849, Franz Liszt – nhạc sĩ chơi piano kiêm nhà soạn nhạc người Hungari đã soạn lại bài này cho độc tấu piano.

SongofloveCuộc đời và sự nghiệp của Schumann cũng đã được dựng thành phim – “Song of Love” vào năm 1947, với diễn xuất của nữ diễn viên nổi tiếng Katharine Hepburn.

Sau đây là 2 video clip: 1) Video clip do nghệ sĩ piano Van Cliburn biểu diễn và 2) Video clip trích đoạn trong bộ phim “Song of Love”. Mời các bạn thưởng thức và chúc các bạn một ngày thật vui!

Loan Subaru

 

 

 

John Denver – Country Road

John Denver (31/12/ 1943 –12/10/ 1997) là một trong những nghệ sĩ tiếng tăm được yêu mến nhất thế giới. Denver nổi tiếng không chỉ như một ca sĩ -nhạc sĩ chuyên về nhạc đồng quê – nghệ sĩ nhạc rock, mà còn là diễn viên, nhà hoạt động môi trường và nhà từ thiện. Nhạc của John đã trải dài 4 thập niên kể từ album đầu tiên ra mắt vào năm 1969, tồn tại qua nhiều khuynh hướng và dòng nhạc, và đem lại nhiều giải thưởng âm nhạc cao và vinh dự cho người nghệ sĩ tài hoa này.

John Denver sinh ở Roswell, New Mexico, có tên khai sinh là Henry John Deutschendorf, Jr., là con của một sĩ quan không lực Mỹ thuộc gia đình gốc Đức, rất nghiêm khắc với con cái. Chính gia đình bên ngoại là những người Thiên chúa Giáo Ireland và Scotland đã khuyến khích và khơi dậy tình yêu âm nhạc nơi John với cây đàn ghi ta bà ngoại tặng năm ông 12 tuổi.

Từ năm 12 tuổi John đã học chơi đàn guitar và đến khi vào đại học đã chơi rất hay ở các câu lạc bộ địa phương.John-Denver-1
Vì nghề nghiệp của cha, gia đình thường di chuyển và sống ở nhiều nơi như Arizona, Alabama, Texas, John rất khó kết bạn và hòa hợp với các bạn đồng trang lứa. Sau này, chính âm nhạc, khả năng đàn hát đã giúp cậu bé sống nội tâm có được nhiều bạn hơn. Năm thứ ba ở trường Trung học Arlington Heights ở Forth Worth, Texas, John bỏ học, lái xe của cha lên California để theo đuổi sự nghiệp âm nhạc. Tuy nhiên khi bố bay đến đó, cậu vâng lời quay về học ở trường cũ và tốt nghiệp trung học. Năm 1963, chàng sinh viên 20 tuổi, rời bỏ giảng đường ngành Kiến trúc ở ngôi trường Đại học Texas Technological College một mình lên Los Angeles, California, trung tâm sôi động của các hoạt động âm nhạc.

Denver hát trong các câu lạc bộ nhạc Folk đầy khói thuốc dưới tầng hầm; đến năm 1965 tham gia ban nhạc folk Chad Mitchell Trio, sau đổi tên thành Mitchell Trio. Với vai trò ca sĩ chính của ban nhạc rất được mến mộ, John đã trau chuốt được tài ca hát và phát triển phong cách sáng tác độc đáo của riêng mình. Năm 1969, Denver từ bỏ ban nhạc và theo đuổi sự nghiệp hát solo, đồng thời ra mắt album đầu tay cho hảng RCA Records, trong đó có bài Leaving On A Jet Plane, được Peter, Paul, và Mary thu âm; bài hát này thành bài hát nổi tiếng xếp hạng 1 trên Billboard 100.

Không đầy 2 năm sau,John tiếp tục nổi danh như một ngôi sao hàng đầu của thập niên 70 trên bảng xếp hạng với những bài như “Take Me Home, Country Roads,” “Rocky Mountain High,” “Sunshine On My Shoulders,” “Annie’s Song,” “Back Home Again,” “Thank God I’m A Country Boy,” and “Calypso,
Những chuyến lưu diễn qua nhiều nước trên thế giới của John và mỗi album mới phát hành lại được nhiều fan say mê và nồng nhiệt đón mừng. Denver có 14 album vàng và 8 album bạch kim ở Mỹ và không ít album vàng, bạch kim ở nhiếu nước khác
Denver 3

Có hai album vàng được Denver thu âm vào năm 1970: “Whose Garden Was This?” và “Take Me To Tomorrow”, là cảm hứng sáng tác của ông trong khi lái xe giong ruỗi trên những nẻo đường Trung Tây của nước Mỹ. Đặc biệt, bài hát “Whose Garden Was This?” là bài đầu tiên mà ông gửi đi một thông điệp về môi trường và nhân ái trong loạt bài hát về môi trường của ông.

Các fan hưởng ứng ngay các thông điệp này trong các bài hát, các buổi trình diễn live của John, họ ra sức thúc đẩy và xúc tiến các hoạt động về môi trường, trái đất, hòa bình và từ thiện.

Những bài hát trữ tình, ca từ đẹp như một bài thơ, với những hình ảnh quen thuộc dung dị của quê nhà, mà rất nên thơ, êm ái, hữu tình và sâu lắng, đi vào lòng người nghe, khiến những người xa quê hương thấy lòng thổn thức:

” Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn” ( Chế Lan Viên )

Hãy lắng nghe những giai điệu của John Denver về :

Những ngọn núi, những hàng cây xưa, dòng sông quê hương, ánh trăng mờ ảo lung linh, tiếng mẹ gọi buổi sớm mai, kỷ niệm ùa về, lệ bỗng tràn lên khóe mắt, ta chợt nhớ rằng đang cách xa quê nghìn trùng, những nẻo đường quê thân yêu ơi hãy đưa ta về với quê nhà ( Take Me Home Country Road ).

Ông đã đoạt được nhiều giải thưởng như Country Music Asssociation Entertainer of the Year vào năm 1975; Emmy cho Best Variety or Musical Special năm 1977; Giải Bình Chọn của Nhân Dân 1977 và Đệ Nhất Thi Nhân bang Colorado 1977; giải thưởng Carl Sandburg năm 1983. Đặc biệt, John đã được giải thưởng Âm Nhạc danh giá Albert Schweitzer năm 1993, và vinh danh trong Bảo Tàng Âm Nhạc năm 1996.

Niềm đam mê xây dựng một cộng đồng quốc tế hiểu biết nhau ( Đông Tây) và âm nhạc không biên giới thúc đẩy ông làm một cánh én đầu tiên của mùa xuận, mở đường đến trình diễn ở những vùng đất từng là thù địch với đất nước của ông. Năm 1985, ông được Hội Nhạc Sĩ Liên Xô lúc bấy giờ mời sang biểu diễn, và đã làm xúc động người nghe toàn thế giới với bài hát ““Let Us Begin ” thu âm cùng một nghệ sĩ Nga (What Are We Making Weapons For?) . Ông còn trở lại với 2 chuyến lưu diễn ở nước này vào năm 1986, và 1987 để hoạt động từ thiện cho nạn nhân của thảm họa Chernobyl ), và đây cũng là những hoạt động trao đổi văn hóa đầu tiên trong bang giao 2 nước Mỹ Nga.

starland76a
Ông cũng là nghệ sĩ phương Tây đầu tiên sang Trung quốc trong chuyến lưu diễn nhiều thành phố. Ông ngạc nhiên bởi bài hát “ Country Roads” nổi tiếng của ông viết ở phương Tây rất được ưa chuộng bởi người dân nước này.

John cũng đã đóng góp tài năng vào nhiều hoạt động từ thiện và môi trường bền vững cho các dự án cứu trợ Đói Nghèo của World Hunger, nhiều lần sang Châu Phi trong thập niên 80, tận mắt chứng kiến những đau khổ của nạn nhân, và đề xuất các giải pháp với các lãnh đạo Châu Phi, cũng như các hoạt động gây quỹ cho UNICEF v.v và nhận rất nhiều giải thưởng vinh danh những người xuất sắc về hoạt động nhân đạo.

Ngày nay, hàng triệu người hâm mộ trên toàn thế giới, xưa và nay, vẫn tiếp tục say mê các ca khúc nhạc đồng quê cũa người nhạc sĩ –ca sĩ lớn – người không biết mệt mỏi trong những nỗ lực làm gần nhau hơn thế giới Đông -Tây, kêu gọi con người quên đi thù hận và xung đột màu da, chính trị và tôn giáo. Và trên hết tiếng hát, giai điệu và ca từ của âm nhạc John Denver về tình yêu quê hương, cuộc sống, thiên nhiên, lòng nhân ái, vẫn làm rung động tâm hồn người nghe và là nguồn cảm hứng mạnh mẽ của biết bao người trên thế giới.

Sau đây mời các bạn thưởng thức ba bài hát nổi tiếng do chính John Denver sáng tác và trình bày

1. TAKE ME HOME COUNTRY ROAD

http://www.youtube.com/watch?v=-eaaR1Ay5P0&feature=related

Almost heaven, West Virginia
Blue Ridge Mountains
Shenandoah River –
Life is old there
Older than the trees
Younger than the mountains
Growin like a breeze

Country roads, take me home
To the place I belong
West Virginia, mountain momma
Take me home, country roads

All my memories gathered round her
Miners lady, stranger to blue water
Dark and dusty, painted on the sky
Misty taste of moonshine
Teardrops in my eye

Country roads, take me home
To the place I belong
West Virginia, mountain momma
Take me home, country roads

I hear her voice
In the morning hour she calls me
The radio reminds me of my home far away
And driving down the road I get a feeling
That I should have been home yesterday, yesterday

Country roads, take me home
To the place I belong
West Virginia, mountain momma
Take me home, country roads

Country roads, take me home
To the place I belong
West Virginia, mountain momma
Take me home, country roads
Take me home, now country roads
Take me home, now country roads

2. SUNSHINE ON MY SHOULDERS

http://www.youtube.com/watch?v=eivZd4j5MBs&feature=related

Sunshine on my shoulders makes me happy
Sunshine in my eyes can make me cry
Sunshine on the water looks so lovely
Sunshine almost always makes me high

If I had a day that I could give you
I’d give to you a day just like today
If I had a song that I could sing for you
I’d sing a song to make you feel this way

Sunshine on my shoulders makes me happy
Sunshine in my eyes can make me cry
Sunshine on the water looks so lovely
Sunshine almost always makes me high

If I had a tale that I could tell you
I’d tell a tale sure to make you smile
If I had a wish that I could wish for you
I’d make a wish for sunshine all the while

Sunshine on my shoulders makes me happy
Sunshine in my eyes can make me cry
Sunshine on the water looks so lovely
Sunshine almost always makes me high
Sunshine almost all the time makes me high
Sunshine almost always

3. LEAVING ON A JET PLANE

All my bags are packed
I’m ready to go
I’m standing here outside your door
I hate to wake you up to say goodbye
But the dawn is breaking
It’s early morn
The taxi’s waiting
He’s blowin’g his horn
Already I’m so lonesome
I could die

So kiss me and smile for me
Tell me that you’ll wait for me
Hold me like you’ll never let me go
cause I’m leaving on a jet plane
Don’t know when I’ll be back again
Oh babe, I hate to go

Theres so many times I’ve let you down
So many times I’ve played around
I tell you now, they don’t mean a thing
Evry place I go, I’ll think of you
Evry song I sing, I’ll sing for you
When I come back, I’ll bring your wedding ring

So kiss me and smile for me
Tell me that you’ll wait for me
Hold me like you’ll never let me go
cause I’m leaving on a jet plane
Don’t know when I’ll be back again
Oh babe, I hate to go

Now the time has come to leave you
One more time
Let me kiss you
Then close your eyes
I’ll be on my way
Dream about the days to come
When I won’t have to leave alone
About the times, I won’t have to say

Oh, kiss me and smile for me
Tell me that you’ll wait for me
Hold me like you’ll never let me go
cause I’m leaving on a jet plane
Don’t know when I’ll be back again
Oh babe, I hate to go

But, I’m leavin on a jet plane
Don’t know when I’ll be back again
Oh babe, I hate to go

Như thường lệ, Nhạc Xanh hoan nghênh các bạn chia sẻ lời dịch các bài hát mình ưa thích.
Thân ái chúc các bạn một ngày vui, dào dạt tình yêu miền thôn quê, hồn quê và quê hương đất nước mình nhiều hơn với những giai điệu nhạc đồng quê

“Hoài niệm về thành Alhambra” — Francisco Tarrega

Chào các bạn,

Francisco_Tarrega_001Trong chuyên mục Nhạc Xanh lần trước, mình đã giới thiệu với các bạn một số nhạc phẩm được chơi bằng piano, violon, violoncell…Hôm nay, mình xin được tiếp tục giới thiệu với các bạn nhà soạn nhạc nổi tiếng cho đàn guitar Francisco Tarrega và nhạc phẩm lừng danh của ông – “Recuedos de la Alhambra” (Hoài niệm về thành Alhambra). Mình chắc rằng, những bạn nào chơi guitar cổ điển đều biết bài này vì nó rất nổi tiếng với kỹ thuật reo dây.

1) Tiểu sử (theo wikipedia):

Francisco de Asís Tárrega y Eixea, thường gọi tắt là Francisco Tárrega (18/11/1852 – 15/12/1909) là một nhà soạn nhạc nổi tiếng cho đàn guita người Tây Ban Nha. Ông được xem như là người đặt nền móng cho vị trí của cây đàn guitar là nhạc cụ dành cho độc tấu. Ngoài các bản nhạc do ông sáng tác cho đàn guitar, ông còn chuyển soạn một số tác phẩm của các nhà soạn nhạc khác sang trình tấu với đàn guitar. Francisco Tárrega đã đặt nền móng cho guitar cổ điển thế kỷ 20, đã đưa vào guitar cổ điển các kỹ thuật trước đây chưa từng có và vẫn được dùng đến ngày nay, chẳng hạn ông sử dụng cả ngón đeo nhẫn để gảy đàn trong khi trước đó người ta chỉ dùng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa. Kỹ thuật reo dây (tremolo) dành cho guitar cổ điển là phát minh của ông: dùng các ngón trỏ, giữa, đeo nhẫn gảy liên tục vào cùng một dây tạo nên cảm giác tiếng đàn ngân nga không dứt, một ví dụ điển hình cho kĩ thuật này chính là “Recuedos de la Alhambra” lừng danh.

alhambra2) Thành Alhambra và “Recuedos de la Alhambra”

Thành Alhambra (1238 – 1527) ở Tây Ban Nha là một di sản văn hoá thế giới, đã bị bỏ hoang cho tới cuối thế kỷ thứ 19. Trải qua bao biến động của lịch sử, cung điện Alhambra phần lớn vẫn giữ nguyên diện mạo thế kỷ 14 của mình, không có sự thay đổi nào đáng kể.

Cung điện Alhambra xây dựng trên đỉnh đồi nhìn xuống thành phố Granada. Tên cung điện lấy từ al-Qalat al Hamra, có nghĩa là “lâu đài đỏ”, vì màu gạch và đất lấy từ pháo đài trước kia. Điểm ấn tượng nhất của cung điện Alhambra là công trình trát vữa không xoa láng, trang trí bằng các mô típ thực vật và những câu đề khắc…Cung điện là nơi ở của các vị vua người Maure ở Grenade (thế kỷ XIII-XIV), rộng khoảng 4.000 m2, được tường kiên cố bao quanh với 13 tháp canh liên hoàn khiến nhìn từ bên ngoài vào, lâu đài có dáng dấp một pháo đài. Đây là một tập hợp kiến trúc gồm thành quách, dinh thự và các kiến trúc phụ cho gia nhân cùng nhiều khu vườn tráng lệ, lâu đài được đánh giá là tuyệt tác của đời sống dân sự, quân sự và nghệ thuật của Hồi giáo Bắc Phi. Có thể gọi Alhambra là một pháo đài lẫn dinh thự tiêu khiển. Đây là một cung điện mang quá nhiều sư tráng lệ trên nền mồ hôi nước mắt, sự đói khát và cả tính mạng những người dân Hồi giáo vương quốc Granada.

Recuedos de la AlhambraCung điện Alhambra được xây dựng để nhằm mục đích quảng bá nền văn hóa, sở thích và chấn chỉnh nền văn minh của Hồi giáo. Sự khẳng định đặc điểm này liên kết mật thiết với nền nhận thức yếu kém của riêng mình trên vương quốc Granada và có lẽ vì lí do này, cung điện Alhambra đã bị bao trùm một tâm trạng luyến tiếc quá khứ, không tưởng và thi vị. Chủ đề hồi tưởng quá khứ cũng có thể nhìn thấy rõ ràng trong kết cấu kiến trúc của cung điện, ngoài sự ám chỉ đặc biệt về đạo hồi, cung điện còn mang tư tưởng và nền văn hóa của Hy Lạp, La mã cổ đại, vì thế cung điện Alhambra còn mang chứa những kiến thức cực kỳ uyên bác về Hy-La cổ điển.

“Recuedos de la Alhambra” với tên dịch ra tiếng Việt là “Tưởng nhớ thành Alhambra”, được sáng tác vào năm 1896, ở Granada. Nét tuyệt vời của bài này là giai điệu tremolo, cùng với tiếng bass ban đầu rất trầm ấm, nhưng sau đó lại lên rất cao, bồng bềnh như miền sông núi nước non Alhambra.

Dưới đây là hai video clip: 1) Video clip do nghệ sĩ guitar Enno Voorhorst biểu diễn và 2) Video clip do ca sĩ Nana Mouskouri biểu diễn với những hình ảnh tuyệt đẹp của thành cổ Alhambra. Mời các bạn thưởng thức và chúc các bạn một ngày thật vui!

 Loan Subaru

 

The Sound of Music, Do-Re-Mi và Edelweiss

Nếu các bạn hỏi bất kỳ người nào yêu thích phim ca nhạc, hay ca khúc trong phim nước ngoài, trong đó có mình, về tên của 5 bộ phim ca nhạc hay nhất mọi thời đại, câu trả lời không thể thiếu The Sound of Music.

The Sound of Music (Giai Điệu Hạnh Phúc hay Tiếng Tơ Đồng) là một bộ phim ca nhạc năm 1965 của đạo diễn Robert Wise cùng các diễn viên Julie Andrews, và Christopher Plummer đóng vai chính. Bộ phim dựa trên vở nhạc kịch cùng tên của Broadway, trong đó có bài hát cùng tên do Richard Rodgers, Oscar Hammerstein II  viết, và dựa trên cuốn sách nhạc kịch của Howard Lindsay, Russel Crouse, kịch bản của Ernest Lehman.

Vở nhạc kịch này lấy ý tưởng từ quyển sách “ Câu Chuyện của Các Ca Sĩ Gia Đình Trapp “  của tác giả Maria von Trapp. Trong vở nhạc kịch này có nhiều bài hát nổi tiếng như  Edelweiss,  My Favorite Things,  Climb E’vry Mountain, Do-Re-Mi, Sixteen Going on Seventeen, cũng như bài hát cùng tên phim : The Sound of Music.

The Sound of Music

Phim được quay ở  Salzburg, Áo; Bavaria ở Nam Đức, và ở trường quay 20th Century Fox, California.  Bộ phim giành 5 giải Oscar cho phim hay nhất của năm 1965: Đạo diễn Hay Nhất, Kịch Bản Phim Hay Nhất, Nhạc Phim Hay Nhất,….   và là một trong những phim ca nhạc nổi tiếng nhất từng được  sản xuất. Album nhạc phim đã được đề cử giải Grammy của năm.  Giai điệu nhẹ nhàng, lời hát trong sáng. Chẳng có những triết lý sâu xa, chỉ là những gì gần gũi quanh ta, nhưng lại làm ta thêm yêu cuộc sống. Thư viện Quốc Hội Hoa Kỳ đã chọn The Sound of Music cho việc bảo tồn ở Kho Lưu Trữ Phim Quốc Gia Hoa Kỳ vào năm 2001.Phim này thu về được 1.022 tỉ đô la khiến nó được xếp thứ ba sau Cuốn Theo Chiều Gió và Chiến Tranh Các Vì  Sao ( Gone With The Wind, và Star Wars).

Truyện phim khá đơn giản, nhưng bộ phim lại làm rung động hàng nhiều triệu khán giả,  gợi  lên những cảm xúc cao đẹp với tình yêu thiên nhiên,  trẻ thơ, tình người, tình yêu đôi lứa, sự dũng cảm mưu trí trước kẻ thù, nhất là âm nhạc tuyệt vời. Maria, (do Julie Andrews đóng) một nữ tu yêu đời, chưa được ơn Thiên triệu,  yêu nhạc, thích ca hát, đến làm cô giáo cho 7 đứa con của gia đình Von Trapp.  Bằng tấm lòng yêu thương  và  tính cách chân thành giản dị, tài ca hát làm rung động lòng người, cô  gia sư trẻ đã  chinh phục đám trẻ  nghịch ngợm khó bảo.  Chúng chỉ  quen tuân phục tiếng còi  lệnh của cha, theo kỷ luật quân đội. Ông Georg nghiêm cấm cười đùa, nghiêm cấm âm nhạc, nghiêm cấm mọi  thứ  có thể gợi lại hình ảnh vợ mình. Maria đã thổi làn gió kỳ diệu của những giai điệu ngọt ngào vào 7 đứa bé, làm sống lại tâm hồn tưởng như đã chết của viên thuyền trưởng Georg. Và tình yêu như phép nhiệm màu đem lại  hạnh phúc cho họ. Cả gia đình sống bên nhau êm đềm, tươi vui, với thiên nhiên, với âm nhạc, giữa bao người dân bình dị.  Câu chuyện đẹp như cổ tích, nhưng cũng đầy chất kịch tính với  bối cảnh chiến tranh là Thế Chiến thứ  II và  quân Đức tràn vào Áo. Ông Georg bị buộc phải phục vụ cho Hải Quân Đức. Họ bàn tính cách bỏ trốn sang Thụy Sỹ. Cuộc đào thoát thành công ngoạn mục. Một kết cục có hậu làm khán giả yên lòng và mỉm cười với hạnh phúc của gia đình Von Trapp.

the sound of music 1

Giai Điệu Hạnh Phúc là bài hát chủ đề  do Julie Andrews hát với phần phụ hoạ điệp khúc của nhà Von Trapp trong bộ phim năm 1965.

Bài hát này được Viện Phim Mỹ  xếp thứ 10 trong danh sách  100 bài hát tuyệt vời nhất của mọi thời đại. Cảnh đầu tiên trong phim là cảnh đồng quê, núi non, thiên nhiên …, những hình ảnh tuyệt đẹp từ trái qua phải rồi lại dần đưa ta gặp Maria, cô gái yêu đời đứng giữa núi đồi và hát vang bài “The Hills Are Alive With the Sound of Music.” Bốn câu đầu của bài hát trong phim và trong album bắt đầu với :

The hills are alive with the sound of music
With songs they have sung for a thousand years.
The hills fill my heart with the sound of music
My heart wants to sing every song it hears.
My heart wants to beat like the wings

 

Những bài hát khác  trong phim đều rất hay. Hầu như mỗi cảnh đều có 1 bài hát. Ngoài bản nhạc chủ đề,  Nhạc Xanh xin mời các bạn thưởng thức  ba bài hát khác  thực dễ thương và rộn ràng khúc yêu đời. Bài My Favorite Things đã nhắc đến ở trên.

Bài Do-Re-Mi với 7 nốt nhạc đặc trưng bằng những hình ảnh ví von sinh động và dễ nhớ. Nhân một lần ông bố nghiêm khắc đi vắng, Maria dẫn đám trẻ đi picnic – điều kỳ diệu chúng chưa từng có theo khuôn khổ kỷ luật quân sự của người cha. Cô dạy bọn trẻ hát 7 note nhạc với bài hát tươi vui này.

Doe, a deer, a female deer, Ray, a drop of golden sun  

Me, a name I call myself, Far, a long, long way to run

Sew, a needle pulling thread, La, a note to follow So

Tea, a drink with jam and bread, that will bring us back to Do…

music 3

Và bài Edelweiss qua 2 giọng ca của Julia Andrews và John Denver.

 Edelweiss là hoa nhung tuyết,  được xem là hoa truyền thống tượng trưng cho nước Áo. (Austria’s national flower).

Đêm cuối cùng trên nước Áo, trước khi trốn sang Thụy Sỹ, gia đình Von Trapp trong 1 buổi liên hoan nhạc, có sự theo dõi, quản thúc của quân Đức, đã hát vang bài hát cho quê hương như một lời từ biệt này. Rồi mọi khán giả dự buổi biểu diễn cũng xúc cảm cùng hoà theo bài hát ngắn:

Edelweiss, Edelweiss
Every morning you greet me
Small and white, clean and bright
You look happy to meet me …..

Về  ngôi sao ca nhạc -diễn viên Julia Andrews, tên khai sinh là Julia Elizabeth Wells sinh ngày 1/10/1935 tại Walton-on-Thames, nước Anh, trong một gia đình kinh doanh giải trí. Julie Andrews đã nhận rất nhiều  giải thưởng lớn như  Quả Cầu Vàng, Emmy, Grammy, Oscar,  Giải Thưởng của Viện Hàn Lâm Anh cho Truyền Hình và Phim (British Academy of Film and Television Arts : giống như Oscar của Mỹ), Giải thưởng Sân Khấu Thế Giới….

Sự nghiệp ca hát của Julie Andrews bắt đầu ở tuổi 12 với chất giọng nữ cao ngọt ngào, trong trẻo đến lạ thường của cô. Năm 21 tuổi (1956), Julie trở thành ngôi sao trên sân khấu Broadway với vai diễn đầu tiên – Eliza Doolittle trong “Quý Bà Lịch Thiệp Của Tôi” (My Fair Lady). Tuy nhiên, cô chỉ  thực sự toả sáng khi vào vai Mary Poppins trong bộ phim ca nhạc cùng tên của Walt Disney (1964). Với phim này, Julie đã  được trao giải thưởng Oscar của Viện Hàn Lâm Điện Ảnh Mỹ – Nữ Diễn Viên Chính Xuất Sắc nhất.

Một năm sau đó, trong  vai cô bảo mẫu – gia sư Mary,trong “Giai Điệu Hạnh Phúc” (The Sound of Music,  năm 1965) – một trong những bộ phim thành công nhất của mọi thời đại, Julie đã trở thành một ngôi sao thực thụ, một hiện tượng mới  của Hollywood.

“Giai Điệu Hạnh Phúc” đã phá kỷ lục về số người xem tại tất cả các rạp chiếu phim trên toàn thế giới. Đặc biệt,  một phụ nữ tại Cardiff, xứ Wales,  đã xem bộ phim 300 lần và được coi là fan hâm mộ lớn nhất của mọi thời đại. Bộ phim đã giúp Julie xuất hiện trên trang bìa tạp chí Life, đồng thời là nhân vật chính trong bài báo “Nữ Hoàng Mới của Hollywood”.

john-denver-7

Theo Wikipedia, John Denver  ( 31 / 12/  1943 – 12 /10 /1997  là một ca sĩ kiêm nhạc sĩ folk và  folk rock của  Mỹ được xem là  một trong những nhạc sĩ lớn nhất của thập niên 1970.  Ông thu và phát hành vào khoảng 300 bài hát, trong đó gần một nửa do ông biên soạn; vào năm 1977, ông được chọn là Đệ Nhất Thi Nhân (Poet Laureate) của tiểu bang Colorado. Các bài hát của Denver tràn đầy tình yêu tự nhiên. Những bài hát như  Take Me Home Country Road, Leaving On a Jet Plane, Calypso, Annie’s Song, Thank God I’m A Country Boy, và Rocky Mountain High  nổi tiếng khắp thế giới. ( Nhạc Xanh sẽ giới thiệu John Denver trong một bài khác)

Ngoài ra có một bài rất hay do Mary hát : My Favorite Things với ca từ  sáng đẹp chất giản dị, lạc quan .

Maria nói với bọn trẻ về những điều  yêu thích giản dị của mình: những hạt mưa đọng  trên những đoá hồng, những chiếc ria mèo con, những ấm đun nước bằng đồng sáng choang, … đàn ngỗng trời bay cao tít, và cô bảo chúng rằng:

Khi nào cảm thấy buồn, cô chỉ nhớ đến những điều ưa thích của mình.Thế là nỗi buồn tan biến.                                                                                                                                                   

My Favorite Things   
( Link 4)                                                                                                                               

Raindrops on roses and whiskers on kittens
Bright copper kettles and warm woolen mittens
Brown paper packages tied up with strings
These are a few of my favorite things

Cream colored ponies and crisp apple streudels
Doorbells and sleigh bells and schnitzel with noodles
Wild geese that fly with the moon on their wings
These are a few of my favorite things

Girls in white dresses with blue satin sashes
Snowflakes that stay on my nose and eyelashes
Silver white winters that melt into springs
These are a few of my favorite things

 LINKS :

1    THE SOUND OF MUSIC TOUR ( Một số địa điểm nơi đã quay bộ phim )


.

The hills are alive with the sound of music
With songs they have sung for a thousand years
The hills fill my heart with the sound of music
My heart wants to sing every song it hears
My heart wants to beat like the wings of the birds that rise from the lake to the trees
My heart wants to sigh like the chime that flies from a church on a breeze
To laugh like a brook as it trips and falls over stones on its way
To sing through the night like a lark who is learning to prey
I go to the hills when my heart is lonely
I know I will hear what I’ve heard before
My heart will be blessed with the sound of music
And I’ll sing once more.

2.   DO RE MI  ( Julie Andrews  và  các ca sĩ nhí nhà Von Trapp)

https://www.youtube.com/watch?v=xIjobdArtiA

 
Maria:
Let’s start at the very beginning
A very good place to start
When you read you begin with
Child (Gretyl): ABC
Maria: When you sing you begin with do re mi
Children:
Do re mi
Maria:
Do re mi
The first three notes just happen to be
Do re mi
Children:
Do re mi
Maria:
Do re mi fa so la ti
Oh let’s see if I can make it easier hmmm:
Doe- a deer, a female deer
Ray- a drop of golden sun
Me- a name I call myself
Far- a long long way to run
Sew- a needle pulling thread
La- a note to follow so
Tea- a drink with jam and bread
That will bring us back to do oh oh oh
Child: Do
Maria: A deer, a female deer
Children: Re
Maria: A drop of golden sun
Children: Mi
Maria: A name I call myself
Children: Fa
Maria: A long long way to run
All: So- a needle pulling thread
La
Maria:A note to follow so
Ti
Children: A drink with jam and bread
Maria: That will bring us back to do
Children:
Doe- a deer, a female deer
Ray- a drop of golden sun
Me- a name  I  call myself
Far- a long long way to run
All:
Sew- a needle pulling thread
La- a note to follow so
Tea- a drink with jam and bread
Maria:
That will bring us back to do
Do re mi fa so la te do so do
Now children do re mi fa so and so on
Are only the tools we use to build a song
Onces you have these notes in your head
You can sing a million different tones by mixing them up
Like this: so do la fa mi do re
Can you do that
Children: So do la fa mi do re
Maria:
So do la ti do re do
Children:
So do la ti do re do
Maria: Now put it all together
All: So do la fa mi do re, so do la ti do re do
Maria: Good
Child (Brigitta):
But it doesn’t mean anything
Maria: So we put in the words.
One word per every note.
Like this:
When you know the notes to sing
You can sing most anything
Together
All:
When you know the notes to sing
You can sing most anything
Maria: Doooooo
All: A deer, a female deer
Child: Reeee
All: A drop of golden sun
Child: Miiiii
All: A name I call myself
Maria:Faaaaa
All: A long long way to run
Maria: Soooo
All: A needle pulling thread
Child: Laaaa
All: A note to follow so
Child: Teeee
All:
A drink with jam and bread
That will bring us back to dooo
Do re mi fa so la ti do do ti la so fa mi re
Do mi mi
Mi so so
Re fa fa
La ti ti
Do mi mi)
Mi so so)
Re fa fa)
La ti ti)
Do mi mi)
Mi so so) When you know the
Re fa fa)
La ti ti)
Do mi mi)
Mi so so) notes to sing
Re fa fa)
La ti ti)
Do mi mi)
Mi so so) You can sing most
Re fa fa)
La ti ti)
All:
Anything things
Doe- a deer, a female deer
Ray- a drop of golden sun
Me- a name I call myself
Far- a long long way to run
Sew- a needle pulling thread
La- a note to follow so
Tea- a drink with jam and bread
That will bring us back to
So do la fa mi do re (Maria goes up scale DoReMeFa)
So do la fa (Maria SoLTiiiii) (la sooooo) (ti faaaa) (mi reeee) ti dooooo
So do

3. EDELWEISS  ( Julie Andrews và John Denver )

Edelweiss Edelweiss
Every morning you greet me
Small and white
Clean and bright
You look happy to meet me

Blossom of snow may you bloom and grow
Bloom and grow forever
Edelweiss Edelweiss
Bless my homeland forever

4. Nhiều bài hát  tổng hợp và cảnh trong phim

http://www.youtube.com/watch?v=qIHOJ2dq_UU&feature=related

Các  bạn có hứng thú  có thể dịch các bài  hát mình ưa thích sang lời Việt.

Thân ái chúc các bạn một ngày mới tươi hồng, rộn ràng những khúc nhạc xanh, trẻ trung, và một tuần  hiệu quả trong công việc và học tập.

 

Bài hát đếm số dễ thương

Chào các bạn,

Counting-songĐể thay đổi không khí, hôm nay mình xin được giới thiệu với các bạn một bài hát tiếng Nhật nho nhỏ gọi là “Bài hát đếm số”. Bài hát này được phát trong chương trình Minna no Uta (Everybody’s song) của đài NHK – Nhật lần đầu tiên vào ngày 1/10/2008 và được rất nhiều người ưa chuộng. Bài hát này rất đơn giản các bạn à, chỉ cần đếm dần các con số, bắt đầu từ 1 là đã có một bài hát thật dễ thương. Bài hát này do chính nữ ca sĩ khá nổi tiếng Ikeda Ayako sáng tác và biểu diễn.

Sau đây là đoạn video clip và phần lươc dịch nội dung của bài hát. Mời các bạn thưởng thức và chúc các bạn một ngày thật vui tươi!

Một Hai Ba Bốn Năm Sáu Bảy
Chỉ cần đếm số là thành một bài ca
Một Hai Ba Bốn Năm Sáu Bảy
Giọng hát bạn thành một bài ca

Các con số ở khắp nới trên thế giới 
Nếu cùng hát chung với nhau thì thật hay nhỉ.
Cách đếm số ở đất nước bạn
Nếu hát lên thì, hãy nhìn kia, những gương mặt tươi cười

(Cách đếm số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 của các quốc gia như Trung Quốc, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, Châu Phi)

Tràn ngập trên thế giới
Tương lai trong tay ta
Như cầu vòng bảy sắc
Ta vượt qua bảy đại dương 

Bài hát đếm số vang vọng lên bầu trời cao
Trong đêm sao, vào buổi sáng ngập nắng
Như bạn bè và như gia đình
Chúng ta cùng hát, và nắm tay nhau.

Không hề có khoảng cách
Chúng ta gắn kết với nhau trên trái đất này.

Loan Subaru

USA for Africa và We Are The World

Nhạc Xanh tiếp tục mời các bạn thưởng thức một bản nhạc thuộc dòng nhạc pop rock lừng danh thế giới, còn được mệnh danh là quốc tế ca thời hiện đại, hay bản thánh ca của thế kỷ 20: “We Are The World” (Chúng ta là thế giới), một ca khúc giàu tính nhân văn và đại đồng.
We-are-the-World.1

We Are The World cùng với Heal The World, và Earth Song là 3 ca khúc hay nhất về thế giới, hòa bình và nhân đạo.

Sự thực là đã hơn 24 năm qua từ ngày ca khúc ra đời, bài hát này vẫn còn nguyên giá trị cao đẹp vì ý nghĩa và mục đích ra đời của nó, tiếp tục vượt thời gian và không gian, đi vào trái tim của những người nhân ái, yêu hoà bình, chứ không chỉ là người yêu nhạc.

Mọi sự khởi đầu từ tháng 11 năm 1984, ca sĩ rock Bob Geldof, người Ireland, đáp lại một bản tin về trẻ em châu Phi bị chết đói, đã sang Ethiopia theo sự ủy nhiệm của Ủy Hội vì châu Phi (Commission for Africa). Bất ngờ và xúc động trước sự nghèo khó cùng cực và cuộc chiến sắc tộc đẫm máu ở xứ sở này, khi trở về, Geldof đã viết bài hát “ Do They Know It’s Christmas?” và vận động các ngôi sao nhạc Rock khác ghi âm và phát hành đĩa đơn này với số tiền cuối cùng thu được là hơn 8 triệu đô la để cứu trợ cho nạn nhân của nạn đói ở châu Phi và Ethiopia.

Sau đó ngày 13/7/ 1985 Geldof khởi xướng và tổ chức đồng thời 2 chương trình âm nhạc qui mô lớn có tên Live Aid ở sân vận động Wembley tại London và sân vận động John F. Kennedy ở Philadelphia, với sự tham gia của các ca sĩ lừng danh như Sting, Elton John, Eric Clapton, Bob Dylan, Madonna, Paul McCartney, Phil Collins, Tina Turner, Sade, Neil Young, Paul Young, Bryan Adams, v.v, và các ban nhạc tiếng tăm như U2, Who, Queen, Dire Straits, Heartbreakers, The Pretenders, … Chương trình từ thiện này được truyền trực tiếp qua truyền thanh và truyền hình với 9 vệ tinh nhân tạo cho khoảng hơn 1 tỉ khán giả hơn 100 nước. Tổng số tiền thu được để cứu trợ nạn đói là hơn 150 triệu đô la.

Tại chương trình này, ngoài bài hát nói trên của Bob Geldof, We Are the World là một sự kiện lớn gây chấn động cả thế giới vì sự truyền cảm và tác động sâu sắc của ca khúc.
Được sáng tác bởi Michael Jackson và Lionel Richie, 2 ca sĩ-nhạc sĩ đỉnh cao âm nhạc, ca khúc này do Quincy Jones chỉ đạo và sản xuất; sau đó nó được thu âm vào ngày 28-1-1985 bởi một nhóm các ngôi sao nhạc pop nổi danh thời bấy giờ, được mệnh danh là USA for Africa ( United Support of Artists for Africa) – nhóm những Nghệ Sĩ Ủng Hộ Châu Phi.
SP_USA_for_Africa_Front
Harold Belafonte ( sinh năm 1927), một ca sĩ Mỹ da đen, đã khởi xướng ý tưởng cho bài hát này, lấy cảm hứng từ ý tưởng của sự kiện âm nhạc từ thiện ở Châu Âu của Bob Geldof. Xuất thân nghèo khó, Belafonte hăng say tham gia hoạt động xã hội và từ thiện với UNICEF, và thành lập “USA for Africa”. Hơn 40 nghệ sĩ kiệt xuất của nhiều thế hệ ca sĩ Mỹ như Bruce Springsteen, Michael Jackson, Ray Charles, Stevie Wonder, Bob Dylan, Diana Ross, Tina Turner, Billy Joel… đã hợp lực thu thanh bài hát vĩ đại này đúng vào đêm trao Giải thưởng Âm nhạc Nước Mỹ (American Music Awards), 28-1-1985.
We are the world 4doc

Đĩa đơn có bài hát We Are The World lập tức nhảy lên vị trí 1 trong 4 tuần từ 17/ 4/ 1985 trên Billboard 100 ở Mỹ và cũng đứng đầu bảng xếp hạng ở Vương quốc Anh và ở vị trí đỉnh cao ở hấu hết các nước trên thế giới. Đĩa này sau đó bán được hơn 7 triệu bản, đoạt 4 giải Grammy năm 1986: “Ca Khúc của Năm”, “Bản Thu Âm của Năm”, “Trình Diễn Pop Xuất Sắc Nhất dành cho Tốp ca”, và giải thưởng “Video Âm Nhạc Hay Nhất, Thể Loại Clip Ngắn”. Số tiền thu được từ CD We Are The World, 63 triệu đô la Mỹ đã sung vào quỹ từ thiện cứu trợ đói nghèo ở châu Phi.

We Are the World đã được các ca sĩ và ban nhạc khác trình bày lại nhiều lần, với sự chỉnh sửa về lời và tên gọi để phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. Năm 1986, ca sĩ Nina Hagen đã hát lại một bản duy nhất bằng tiếng Đức – Wir sind die Welt – trong chương trình truyền hình Đức kỉ niệm 40 năm ngày thành lập Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc UNICEF. Cũng có một số người chỉ trích USA for Africa là nhằm vào mục đích quảng bá hình ảnh hơn là mục đích từ thiện, nhưng ngoài số tiền hơn 60 triệu đô la vì nạn đói châu Phi, bài hát này đến tận thế kỷ 21 vẫn còn giá trị biểu cảm và thẩm mỹ âm nhạc lớn, và tiếp tục làm lay động xúc cảm cao đẹp và khát vọng hòa bình của con người bất kể chủng tôc, màu da và tôn giáo. Khi nào trên thế giới này, những hiểm họa như nạn đói, bệnh tật, thiên tai, nghèo đói và chiến tranh vẫn là những mối đe dọa đến sự bình yên và hạnh phúc của con người thì những bài hát như We Are The World vẫn còn sức sống mãnh liệt.
weworld

Ngoài ra có thể nói thành công của bài hát đỉnh cao này còn bởi giai điệu tuyệt vời và ca từ sáng đẹp như :
There comes a time when we heed a certain call
When the world must come together as one
There are people dying
Oh, and it”s time to lend a hand to life
The greatest gift of all
Đã đến lúc chúng ta để ý đến một lời kêu gọi
Khi cả thế giới cần phải sát cánh bên nhau như một
Ngoài kia, những người đang chết dần mòn
Đã đến lúc chìa bàn tay giúp đỡ
Đó là một món quà tuyệt vời hơn tất cả

We can’t go on pretending day by day
That someone, somehow will soon make a change
We’ re all a part of God’s great big family
And the truth
You know love is all we need

Chúng ta không thể tiếp tuc giả vờ ngày lại ngày
Rằng một ai đó bằng cách nào đó sẽ thay đổi
Chúng ta đều là thành viên trong đại gia đình của Chúa / Thượng đế
Và sự thực là
Bạn cũng biết tình yêu là tất cả những gì chúng ta cần.

Ca khúc này với phần trình bày solo bởi giọng ca của các nghệ sĩ tài danh hàng đầu, dù hát đơn hay hát đôi trong một hai phút, chất giọng độc đáo của họ làm xúc động lòng người, chẳng hạn Lionel Richie, Stevie Wonder, Paul Simon, Kenny Rogers, Tina Turner, Billy Joel,Michael Jackson, Diana Ross, Willie Nelson , Al Jurreau và Dionne Warwick mà các bạn đã nghe qua Dionne Warwick & Friends và That’s What Friends Are For trong chuyên mục Nhạc Xanh (26/5/2009) . Sau đó họ hòa chung giọng hát với cả nhóm cùng hát đoạn điệp khúc 3 lần.

Links :
1. We Are The World- USA for Africa ( + with lyrics)

2. We Are The World – Live From Pavarotti & Friends

3. We Are The World – Michael Jackson

Sau đây là ca từ của bài hát kèm tên của ca sĩ trình bày theo bản 1985 ( USA for Africa)

There comes a time when we heed a certain call (Lionel Richie)
When the world must come together as one (Lionel Richie & Stevie Wonder)
There are people dying (Stevie Wonder)
Oh, and it’s time to lend a hand to life (Paul Simon)
The greatest gift of all (Paul Simon/Kenny Rogers)
We can’t go on pretending day by day (Kenny Rogers)
That someone, somehow will soon make a change (James Ingram)
We’ re all a part of God’s great big family (Tina Turner)
And the truth (Billy Joel)
You know love is all we need (Tina Turner/Billy Joel)
( CHORUS )
We are the world, we are the children
We are the ones who make a brighter day so let’s start giving (Michael Jackson)
There’s a choice we’re making we’re saving our own lives (Diana Ross)
It’s true we’ll make a better day just you and me (Michael Jackson/Diana Ross)
Well, send’em you your heart so they know that someone cares (Dionne Warwick)
And their lives will be stronger and free (Dionne Warwick/Willie Nelson)
As God has shown us by turning stone to bread (Willie Nelson)
And so we all must lend a helping hand (Al Jurreau)
( REPEAT CHORUS )
We are the world, we are the children (Bruce Springsteen)
We are the ones who make a brighter day so let’s start giving (Kenny Logins)
There’s a choice we’re making we’re saving our own lives (Steve Perry)
It’s true we’ll make a better day just you and me (Daryl Hall)
When you’re down and out there seems no hope at all (Michael Jackson)
But if you just believe there’s no way we can fall (Huey Lewis)
Well, well, well, let’s realize that a change can only come (Cyndi Lauper)
When we (Kim Carnes)
stand together as one (Kim Carnes/Cyndi Lauper/Huey Lewis)
(REPEAT CHORUS AND FADE )
(giọng phụ họa ứng khẩu : Bob Dylan, Ray Charles, Stevie Wonder, Bruce Springsteen, James Ingram)

Phần điệp khúc xin dành cho các bạn tự dịch.
Thân ái chúc các bạn một ngày vui và hạnh phúc cuối tuần.

Charles-Camille Saint-Saëns và giai điệu “Thiên Nga”

Saint-SaënsChào các bạn,

Trong chuyên mục Nhạc xanh ngày hôm nay, mình xin được giới thiệu về nhà soạn nhạc nổi tiếng người Pháp Charles-Camille Saint-Saëns và nhạc phẩm “Thiên Nga”. Điều thú vị là người nhạc sĩ thiên tài này đã từng đến và sống ở Việt Nam.

Charles-Camille Saint-Saëns (9/10/1835 – 16/12/1921) là một nhà soạn nhạc, nghệ sĩ organ, nghệ sị dương cầm người Pháp rất nổi tiếng với các tác phẩm như “The Carnival of the Animals”, “Danse Macabre”, “Samson and Delilah”, “Havanaise”. Ông còn là nhà du hành lớn, từng đi đến Nga, các nước Châu Âu, Châu Mỹ, Cuba, Myanma, Đông Dương…

Tác phẩm của ông gồm 13 vở Opéra, 10 bản Concerto (trong đó có 5 bản viết cho piano), 3 bản giao hưởng, thánh ca và rất nhiều bài hát, trích đoạn piano. Ông được đánh giá là thần đồng âm nhạc bẩm sinh, có địa vị chói sáng trong nền âm nhạc Pháp và cả châu Âu.

SwanTháng 3 năm 1895, ông đến Côn Đảo – Việt Nam và được Chúa đảo Louis Jacquet dành ngôi biệt thự nằm biệt lập phía bên ngoài nhà Chúa đảo (nay là Bảo tàng Côn Đảo), mặt trông ra biển, đối diện với cầu tàu 914 – một vị trí hết sức thơ mộng…để ông lưu trú trong suốt 1 tháng. Chính trong căn nhà này ông đã hoàn tất 3 chương cuối của vở nhạc kịch bất hủ Brunehilda… Ngày nay, ngôi nhà trở thành Di tích Nhà Công Quán với Phòng Trưng Bày Lưu Niệm Nhạc Sĩ Camille Saint Saens với rất nhiều hình ảnh, tài liệu về người nhạc sĩ tài hoa. Bức tượng bán thân của ông được đặt trang trọng giữa nhà, còn trên vách là dòng chữ trích từ bức thư ông gửi cho Chúa đảo trước khi từ biệt: “Ở đâu cái đẹp được tôn trọng thì ở đó tội ác bị đẩy lùi, ở đó chẳng cần đến luật pháp” (trích thư gửi Chúa đảo Louis Jacquet tháng 4/1895).

The SwanSau đây, xin mời các bạn thưởng thức nhạc phẩm “Thiên Nga”, do nghệ sĩ violoncell Tanja Derwahl biểu diễn. Đây là một nhạc phẩm thuộc chương thứ 13, và nổi tiếng nhất trong tập nhạc 14 chương “The Carnival of The Animals” của ông. Bản nhạc được viết cho độc tấu Violoncell cùng với 2 cây piano. Giai điệu mượt mà, tuyệt đẹp của bản nhạc này được ví như con thiên nga đang lướt nhẹ nhàng và duyên dáng trên mặt hồ.

Loan Subaru

 

Dionne Warwick & Friends và That’s What Friends Are For

that'swhatfriendsarefor
Nhạc Xanh xin mời các bạn thưởng thức hai bản nhạc. Bài hát thứ nhất “That’s What Friends Are For” và bài thứ hai :”I Just Called to Say I Love You.”

Bài hát “That’s What Friends Are For” do Burt Bacharach và Carole Bayer Sager viết; Rob Stewart đã hát như bài hát chủ đề kết thúc bộ phim hài Night Shift vào năm 1982. Ba năm sau bài hát trở thành nổi tiếng khi được Dionne Warwick và những người bạn gồm Stevie Wonder, Gladys Knight, và Elton John trình bày lại để gây quỹ từ thiện ở Anh và Mỹ.

“That’s What Friends Are For” được thu âm để lấy tiền quyên góp cho Tổ Chức Nghiên Cứu Bệnh AIDS ở Mỹ ( American Foundation for AIDs Research) và thu được hơn 3 triệu đô la cho mục đích này. Bản nhạc này đứng ở vị trí số 1 suốt 4 tuần tháng 1/ 1986 trong bảng xếp hạng Billboard, và được Billboard chọn là đĩa đơn hay nhất của năm 1986. Sau đó nhóm nghệ sĩ này đoạt được giải Grammy dành cho “Nhóm Trình Diễn Nhạc Pop Hay Nhất “ và đoạt giài “ Bài Hát Của Năm “ vào năm 1986.

Bài hát này sau đó còn trở thành chủ đề cho một đêm nhạc từ thiện lớn lấy tên của bài hát tại thành phố New York nhằm quyên góp cho nạn nhân AIDS. Một tháng sau đêm nhạc được phát trên kênh truyền hình CBS với “That’s What Friends Are For” là bài hát kết thúc chương trình nhạc 2 giờ có sự tham gia của Warwick và tất cả nghệ sĩ khách mời danh tiếng. Đêm nhạc đã thu thêm được hơn 2,5 triệu đô la nữa cho các hoạt động cứu trợ nạn nhân AIDS.

“That’s What Friends Are For” được xếp hạng 51 trong danh sách Billboard cho Những Bản Nhạc Hay Nhất của Mọi Thời Đại.

Xin giới thiệu với các bạn đôi nét về 2 tài năng đã hát bài này : nữ danh ca Dionne Warwick và ca sĩ huyền thoại Stevie Wonder.

Dionne_That's_What_Friends_are_for_group_shot

Dionne Warwick sinh ngày 12/12 / 1940, tại East Orange, New Jersey, Mỹ. Bà là ca sĩ, diễn viên, nhà hoạt động phong trào rất nổi tiếng. Bà là Đại sứ Toàn cầu của Liên Hiệp Quốc cho Tổ Chức Lương Nông ( Food and Agriculture Organization), từng là Đại Sứ của Mỹ về Y tế và Nhân đạo. Theo tạp chí Billboard, Dionne Warwick là một tài năng âm nhạc, xếp thứ hai trong danh sách Billboard Hot 100 ( chỉ sau Aretha Franklin ) với 56 CD đạt đỉnh cao trong tổng số 100 của kỹ nguyên nhạc rock 1955-1999. Warwick cũng được xếp thứ 20 trong tổng số 200 ca sĩ hát nhạc Pop nổi tiếng được hâm mộ nhất.

Warwick bắt đầu hát solo từ năm lên 6 trong hát lễ nhà thờ, sau đó trong ban nhạc Drinkard Singers, và trong ban nhạc gia đình với người cô, em gái, và em trai của bà. Bà ra mắt lần đầu trên TV vào cuối thập niên 1950 ở đài truyền hình New Jersey và New York. Tốt nghiệp trung học East Orange năm 1959, bà được trao một học bổng đại học về âm nhạc ở Hatford, Connecticut, cũng tại trường đại học này bà được cấp bằng Tiến sĩ về Giáo dục Âm nhạc.

dionne-warwick

Bài thứ hai là bài hát được trao giải Oscar 1984. Bài hát Hay Nhất trong phim The Woman In Red với giọng ca huyền thoại của ca sĩ khiếm thị người Mỹ gốc Phi Steve Wonder.

Steve Wonder tên khai sinh là Steveland Hardaway Judkins, sinh ngày 13/5/ 1950, tại Saginaw, Michigan. Về sau ông đổi tên là Steveland Hardaway Morris. Ông viết nhạc, biểu diễn nhiều loại nhạc cụ, nhà sản xuất các chương trình ghi âm, và là một tài năng xuất chúng về nhạc pop trong nửa cuối thế kỷ 20.

Wonder có hơn 20 đĩa xếp hạng top 10 của Mỹ, đoạt 26 giải Grammy, ( là nghệ sĩ hát solo đoạt nhiều giải nhất trong lịch sử của giải này ), với 1 giải Thành Tựu Trọn Đời, Giải cho Bài Hát Hay Nhất, và được vinh danh trong Bảo tàng Âm Nhạc với dòng nhạc Rock and Roll và với tư cách nhạc sĩ. Một điều đặc biệt về Stevie Wonder là ông bị mù bẩm sinh, đến năm 11 tuổi bắt đầu hát nhạc ở góc phố rồi ký hợp đồng với Motortown Record, và tiếp tục biểu diễn và thu âm cho hãng này. Năm 12 tuổi, cậu bé Steveland Morris đã gây ấn tượng mạnh trong lòng khán giả khi xuất hiện trong chương trình American Bandstand.

Tuy bị khiếm thị, nhưng người nghệ sĩ tài hoa này đã tự học và có thể biểu diễn điêu luyện nhiều loại nhạc cụ như piano, harmonica, trống, guitar bass, đàn organ, trống nhỏ vỗ bằng tay, đàn clavinet, vv… Khi còn thơ ấu, Stevie Wonder nổi tiếng về tài chơi harmonica, nhưng sau này ông lừng danh với tài chơi piano và với giọng ca vàng được mệnh danh là huyền thoại nhạc pop của Mỹ.
stevie_wonder

Nhiều bài hát của Stevie Wonder trở thành top hit như “I Just Called to Say I Love You” đã đoạt giải Oscar 1984 cho bài hát hay nhất trong phim The Woman in Red. Từ bài hát Blowin’ in the Wind của Bob Dylan được ông trình bày lại, hay các sáng tác của chính mình như You Are the Sunshine of My Life, My Cherie Amour, Signed, Superstition, Higher Ground, L:iving For The City, Sesame Street, hay các bản ballad như Golden Lady và All In Love Is Fair đều giản dị nhưng rất được ưa chuộng và thành top hits. Album Innervisions năm 1973 của ông đạt được 3 giải Grammy, và thành album của năm.

Với 10 bản nhạc pop xếp hạng 1 và 20 bài R & B hạng 1 ( Rhythm and Blues), với tổng số album bán được trên 100 triệu bản, Stevie Wonder được xếp hạng như nghệ sĩ da màu thứ hai đoạt giải Oscar về Bài Hát Hay Nhất, và ở vị trí 11 trên tổng số nhạc sĩ lừng danh trên bảng tổng sắp của Anh (britishhitsongwriters.com).

Vốn là một nghệ sĩ rất được Obama yêu thích, Wonder đã biểu diễn vào ngày 18/1/ 2009 trong lễ nhậm chức của Tổng thống Barack Obama tại đài tưởng niệm Abraham Lincoln. Ông đã hát 2 bài, “Brand New Day, và bài hát mới “All About The Love Again,” và cùng các ca sĩ khác bài Signed, Sealed, and Delivered .

stevie_wonder_gal_obama

Gần đây nhất, ngày 23/2/ 2009, Stevie Wonder được trao giải thưởng Gershwin Prize của Thư viện Quốc hội Mỹ ( người thứ hai được trao giải này ) vì những bài hát của ông rất được hâm mộ trong lòng những người yêu nhạc toàn thế giới. Giải thưởng này nhằm vinh danh những nghệ sĩ có tác phẩm vượt biên giới âm nhạc để tạo nên sự hiểu biết giữa con người với nhau.

Bài 1 That’s What Friends Are For

Link1 : Dionne Warwick, Stevie Wonder, Luther Vandross & Whitney Houston
.


.

Link 2 : Stevie Wonder & Dionne Warwick
.

http://www.youtube.com/watch?v=XAt3lJIDZ9Q

Verse 1

And I
Never thought I’d feel this way
And as far as I’m concerned I’m glad I got the chance to say
That I do believe I love you

And if I should ever go away
Well then close your eyes and try to feel the way we do today
And than if you can’t remember…..

Chorus
Keep smilin’
Keep shinin’

Knowin’ you can always count on me
for sure
that’s what friends are for

In good times
And bad times
I’ll be on your side forever more
That’s what friends are for

Verse 2

Well you came and open me
And now there’s so much more I see
And so by the way I thank you….

Ohhh and then
For the times when we’re apart
Well just close your eyes and know
These words are coming from my heart
And then if you can’t remember….Ohhhhh
(Repeat chorus 3x)

Bài 2 I Just Called To Say I Love You ( Stevie Wonder )
.

http://www.youtube.com/watch?v=wz1Ywm9KRT4
.

No new year’s day
To celebrate
No chocolate covered candy hearts to give away
No first of spring
No song to sing
In fact here’s just another ordinary day
No April rain
No flowers bloom
No wedding Saturday within the month of June
But what it is
Is something true
Made up of these three words that I must say to you

I just called to say I love you
I just called to say how much I care
I just called to say I love you
And I mean it from the bottom of my heart

No summer’s high
No warm July
No harvest moon to light one tender August night
No autumn breeze
No falling leaves
No even time for birds to fly to southern skies
No Libra sun
No Halloween
No giving thanks to all the Christmas joy you bring
But what it is
Though old so new
To fill your heart like no three words could ever do.

I just called to say I love you
I just called to say how much I care
I just called to say I love you
And I mean it from the bottom of my heart.

I just called to say I love you
I just called to say how much I care
I just called to say I love you
And I mean it from the bottom of my heart
Of my heart
Of my heart

Các bạn có thể tùy ý post lời dịch cho bài nào trong hai bài trên đều xin hoan nghênh và tán thưởng
Thân ái chúc các bạn một ngày mới tươi hồng và một tuần làm việc vui hiệu quả

Khúc nhạc chiều lãng mạn “Serenata”

Enrico-Toselli

Chào các bạn,

Lại bắt đầu 1 tuần mới rồi nhỉ? Đối với mình, ngày đầu tuần bao giờ cũng là ngày bận rộn với một loạt meeting và khá nhiều việc để xử lý. Không biết các bạn thì thế nào nhỉ? Chắc cũng không phải ngoại lệ? Thôi thì, để tâm trạng ngày đầu tuần sảng khoái, trước khi bắt tay vào công việc, xin được giới thiệu với các bạn bản “Serenata” trữ tình và lãng mạn của nhà soạn nhạc người Ý Erico Toselli! 🙂

Enrico Toselli (13/3/1883 – 15/1/1926) là nghệ sĩ dương cầm, nhà soạn nhạc nổi tiếng người Ý. Ngay từ lúc trẻ, ông đã bắt đầu sự nghiệp sáng chói của mình như là một nghệ sĩ piano cho các buổi hòa nhạc ở Ý, Châu Âu và Bắc Mỹ với danh tiếng lẫy lừng. Ông đã sáng tạc rất nhiều bài hát, cùng với hai vở nhạc kịch nổi tiếng (La cattiva Francesca – 1912 và La principessa bizzarra – 1913). Một trong những bản nhạc nổi tiếng nhất của ông là bản “Serenata” mà mình sẽ giới thiệu trong chuyên mục Nhạc Xanh ngày hôm nay.

Serenata“Serenade” (hay còn gọi là “Serenata”), nghĩa là khúc ban chiều – nhạc theo phong cách lãng mạn. Bản Serenade thường chơi vào buổi chiều tà, ở ngoài trời, và ngay dưới cửa sổ (chắc là dưới cửa sổ nhà người yêu 😀 :-D). Cho đến bây giờ, có hai bài viết theo thể Serenade nổi tiếng nhất mà chưa có bài nào vượt qua được hai bài bất hủ này. Đó là “Serenade” của Schubert và “Serenata” của Enrico Toselli.

Video clip dưới đây là bản Serenata của Enrico Toselli, do nghệ sĩ vĩ cầm kiêm nhạc trưởng nổi tiếng người Hà Lan Andre Rieu trình bày. Mời các bạn thưởng thức giai điệu mượt mà, trữ tình và lãng mạn của nhạc phẩm này. 

Chúc các bạn một tuần làm việc hiệu quả và vui vẻ! 🙂 🙂

Loan Subaru

Cái cưa gỗ – một loại nhạc cụ thật độc đáo

Nhạc cưa
Nhạc cưa

Các bạn có biết là cái cưa cũng có thể được sử dụng như một nhạc cụ không? Trên thực tế, người ta không thể tưởng tượng được cái cưa gỗ cũng có thể phát ra âm thanh hay như vậy. Âm thanh phát ra từ nhạc nhạc cưa nhẹ nhàng và cao vút, rất giống với Theremin (một trong những nhạc cụ hoàn toàn bằng điện tử, bao gồm 2 máy dao động tần số radio và 2 antenna kim loại).

Nhạc cưa đã xuất hiện hơn một thế kỷ. Có những cây cưa được làm từ loại thép bình thường cho đến những cây cưa tinh xảo được phủ vàng, trị giá hàng trăm đô-la.

ZingzaagKhi chơi nhạc cưa, thông thường, nhạc công ngồi trên ghế, kẹp cây cưa vào giữa hai chân và điều khiển bằng tay. Việc bẻ cong lưỡi cưa theo hình chữ S và kéo dọc sống lưng của lưỡi cưa, phần hình vòng cung chữ S nhằm tạo ra âm thanh. Có thể điều chỉnh cao độ bằng cách điều chỉnh vùng hình chữ S. Ngoài ra, để tạo âm thanh ngân nga, réo rắt, nhạc công có thể rung chân hoặc lắc cánh tay giữ chóp của lưỡi cưa.

Sau đây, xin giới thiệu với các bạn 1 video clip của một nhạc công nhạc cưa Nhật Bản – anh Hajime Sakita. Anh được xem là một trong những nhạc công nhạc cưa hàng đầu ở Nhật bản, từng giành được giải nhất trong liên hoan nhạc cưa Santa Cruz (Mỹ) vào năm 1997, giải nhì vào năm 2005, và lưu diễn khá nhiều nơi trên thế giới như: Cộng Hòa Sec, Hàn Quốc, Ý…Bản nhạc anh chơi trong video clip có tên là “VIOLA”. Mời các bạn thưởng thức giai điệu mượt mà, du dương và bay bổng của nhạc cưa này!

 

Huyền Thoại Âm Nhạc Sinatra và My Way

franksinatra
Nhạc Xanh hôm nay xin mời các bạn nghe bản nhạc My Way. Bản nhạc này do Paul Anka viết lại lời  từ ca khúc Pháp Comme d’habitude của Claude François và Jacques Revaux. My Way đã  trở thành một trong những bản nhạc bất hủ nhờ  giọng ca của Frank Sinatra năm 1969. Quả thực, đây là ca khúc gắn chặt với tên tuổi Frank Sinatra nhất, hơn bất kỳ ca khúc nào trong suốt 70 năm trong sự nghiệp âm nhạc của Sinatra. Cũng có nhiều nghệ sĩ khác đã trình bày bài hát này như Andy Williams, Paul Anka,  Elvis Presley, nhưng hầu như người ta chỉ nhớ tới My Way qua tiếng hát của Frank Sinatra, cũng hệt như nhạc Trịnh Công Sơn với giọng ca có một không hai của Khánh Ly. Ngoài ra, các bạn cũng có thể nghe thêm  giọng ca của ông hoàng  nhạc pop Elvis Presley hát live trong cuộc trình diễn cuối cùng tháng 6/1977. Nhạc Xanh sẽ tiếp tục giới thiệu vua nhạc pop này trong một bài khác.

Ca từ của bài My Way nói về câu chuyện của một người đã cận kề với sự ra đi,  sẵn sàng cho cái chết. Hồi tưởng lại đời mình, ông ta không chút nuối tiếc về việc mình đã sống như thế nào, bởi cho đến cuối đời ông đã làm tất cả theo cách của mình. Trước khi các bạn trải hồn mình theo giai điệu bài hát với chất giọng hoàn hảo của Sinatra, xin các bạn hãy lướt qua đôi dòng về tiểu sử với những thành tựu thực đồ sộ của người ca sĩ huyền thoại này. Và xin nhắc nhỏ, các bạn chớ quên dành ít thời gian dịch lời bài hát tuyệt vời này nhé.

Frank Sinatrađược coi là một trong số ít nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc đại chúng (popular music) xuất sắc nhất thế giới, người đã tạo được nhiều chuẩn mực và ảnh hưởng trong âm nhạc và điện ảnh của Mỹ. Không chỉ là một ca sĩ lừng danh, Frank Sinatra còn làm nên tên tuổi trong các lĩnh vực soạn nhạc, diễn viên, đạo diễn, nhà sản xuất với hàng chục giải thưởng nghệ thuật khác nhau. Tại Mỹ, người ta đã xếp ông vào danh sách những nghệ sĩ có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20, ngang hàng với Beatles, Elvis Presley hay Louis Amstrong.

franksinatra3

Francis Albert “Frank” Sinatra , sinh ngày 12/12/ 1915 tại Hoboken, bang New Jersey ; mất ngày 14/5/1998). Là con một trong gia đình có cha mẹ là người Ý nhập cư. Cha ông làm việc trong Đội Cứu Hỏa Hoboken. Sinatra học chưa hết bậc Trung học, đã sớm rời bỏ trường học theo nghiệp ca hát. Thực ra, đầu những năm 1930, Sinatra có một thời gian đi làm công việc giao báo, rồi thợ tán đinh. Chính vào giai đoạn này, Sinatra bắt đầu sự nghiệp ca hát. Được mẹ thuyết phục, năm 1935 ông gia nhập ban nhạc địa phương The Three Flashes; ban này sau đó đổi tên thành The Hoboken Four. Họ đoạt được giải nhất trong chương trình ca nhạc Major Bowes Amateur Hour trên sóng vô tuyến (radio ) phát trên NBC và CBS-, và hợp đồng 6 tháng hát trên sân khấu và radio toàn nước Mỹ. 1 năm sau đó, Frank chuyển sang ban nhạc của tay trumpet lừng danh Tommy Dorsey và có ngay ca khúc chiếm vị trí quán quân bảng xếp hạng – I’ll Never Smile Again.

Sau hơn 23 ca khúc ghi âm cùng nhiều ban nhạc lọt vào Top Ten Bill Board, Frank Sinatra quyết định tách ra hát solo và ký hợp đồng với hãng ghi âm Columbia Record. Kể từ đó, tên tuổi của ông  lên vùn vụt với rất nhiều ca khúc đỉnh cao, như White Christmas, Sartuday Night (Is The Lonelinest Night of the Week), People Will Say We’re In Love, Dream, I Should Care, If I Love You, You’ll Never Walk Alone. Có nhiều bài hát pop được cho là kinh điển của Sinatra như It Might As Well Be Spring,  Fly Me To The Moon, More, I Can’t Stop Loving You, The Best Is Yet To Come, Girl from Ipanema, Stranger in the Night.

Khởi đầu sự nghiệp âm nhạc trong thời kỳ nhạc swing cùng với Henry James, và Tommy Dorsey, Sinatra nổi lên như một ca sĩ hát solo rất thành công, từ đầu đến giữa thập niên 1940, và thành thần tượng của rất nhiều cô gái trẻ trong độ tuổi teen . Ông được tặng danh hiệu The Voice, bởi giọng hát rất đặc biệt, được cho là hoàn hảo: thể hiện được nhiều sắc thái khác nhau, khi thì ngọt ngào say đắm, lúc thì lại ai oán, lạnh lùng. Frank Sinatra cũng có kỹ thuật hát độc đáo, một thủ thuật từ những tay chơi kèn trumpet giúp kéo dài trường độ của một nốt nhạc tới mức kỷ lục (vào thời điểm đó). Ngoài ra, nhạc pop của Sinatra rất đậm đà chất jazz, từ kiểu nhả chữ với chất giọng nam trung có thể được đẩy lên thành nam cao tới kiểu nhạc đệm của ban nhạc, nên ông chinh phục được cả người yêu nhạc pop lẫn nhạc jazz nhờ chất giọng, kỹ thuật hoàn hảo, và đặc biệt là xúc cảm âm nhạc tha thiết dâng trào.

franksinatra2

Đầu thập niên 50, sự nghiệp của ông chửng lại, nhưng lại được phục hồi sau khi ông đoạt giải Oscar dành cho Diễn viên Phụ Xuất Sắc trong phim From Here to Eternity vào năm 1954. Ông đã ký hợp đồng với hãng Đĩa Capitol và có nhiều album được giới phê bình ca ngợi như In the Wee Small Hours, Songs for Swingin’ Lovers, Come Fly with Me, Only the Lonely Nice ‘n’ Easy. Sau khi ngưng hợp tác vơi Capitol, Sinatra lại tiếp tục gặt hái thành công với nhiều album mới như Ring-A-Ding-Ding, Sinatra at the Sands and Francis Albert Sinatra & Antonio Carlos Jobim. Ông đi lưu diễn nhiều nơi trên thế giới, là sáng lập viên của nhóm Rat Pack (qui tụ giới nghệ sĩ ở đỉnh cao danh vọng như Humprey Bogart, Dean Martin, và kết thân với những người nổi danh, trong số đó có tổng thống Mỹ John F. Kennedy. Phim truyền hình Frank Sinatra: Chân Dung và Âm Nhạc mà ông đóng vai đoạt giải Emmy. ( Giống như giải Oscar hay còn gọi giải thưởng điện ảnh của viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ dành cho phim, giải Grammy cho âm nhạc, giải Emmy là giải cho phim truyền hình thiên về giải trí). Ông lại ghi thêm vào danh sách dài của mình những ca khúc top hit như Strangers in the Night, My Way, và rất nhiều bài là top trong bảng xếp hạng Billboard.

Sinatra đã được 4 giải Oscar cho cả vai trò diễn viên, soạn nhạc và trình bày, 2 giải Emmy (Giải thưởng truyền hình Mỹ), 3 giải Quả cầu vàng, và nhiều giải thưởng cao quí khác như Kennedy Center Honors, năm 1983 ( cho những nghệ sĩ trọn đời cống hiến cho nền văn hóa Mỹ), giải Presidential,  Medal of Freedom từ Tổng thống Reagan năm 1985 và Congressional Gold Medal năm 1997.  Trong lĩnh vực âm nhạc,   nhân vật huyền thoại này đã nhận 13 giải Gramm, trong đó bao gồm giải Grammy Thành Tựu Trọn Đời (1965), có tới 209 ca khúc và 55 album lọt vào bảng xếp hạng Bill Board, rất nhiều trong số đó  ở vị trí quán quân.

Với sự thay đổi thị hiếu của người nghe trong dòng nhạc pop, ông mất dần số người ưa chuộng cùng với doanh thu từ nhạc và phim giảm đáng kể, Sinatra ngưng tất cả vào năm 1971. Thế nhưng niềm đam mê ca hát của ông chưa tắt, năm 1973 ông lại  xuất hiện, thu âm thêm nhiều album, có thêm một bài hát thành công vang dội nữa vào năm 1977 : Bài hát chủ đề cho bộ phim New York, New York. Ông tiếp tục đi lưu diễn trên đất Mỹ và trên thế giới cho đến 2 năm trước khi ông mất vào năm 1998,  sau một cơn đau tim ở tuổi 82.

LINKS

1. My Way ( Frank Sinatra )

2. My Way  ( Luciano Pavarotti and Frank Sinatra )

http://www.youtube.com/watch?v=jf_kgDdcX7k&feature=related

3. My Way ( Elvis Presley ; live in the last concert of June 21 , 1977 )


My Way
(words and music by François, Revaux Thibault, Anka)

And now, the end is near;
And so I face the final curtain.
My friend, Ill say it clear,
Ill state my case, of which Im certain.

I’ve lived a life thats full.
I’ve traveled each and evry highway;
And more, much more than this,
I did it my way.

Regrets, Ive had a few;
But then again, too few to mention.
I did what I had to do
And saw it through without exemption.

I planned each charted course;
Each careful step along the byway,
But more, much more than this,
I did it my way.

Yes, there were times, Im sure you knew
When I bit off more than I could chew.
But through it all, when there was doubt,
I ate it up and spit it out.
I faced it all and I stood tall;
And did it my way.

I’ve loved, I’ve laughed and cried.
I’ve had my fill; my share of losing.
And now, as tears subside,
I find it all so amusing.

To think I did all that;
And may I say – not in a shy way,
No, oh no not me,
I did it my way.

For what is a man, what has he got?
If not himself, then he has naught.
To say the things he truly feels;
And not the words of one who kneels.
The record shows I took the blows –
And did it my way!

Thân ái chúc các bạn một ngày mới tươi hồng,  bắt đầu một tuần học tập và làm việc hiệu quả.

Hùng tráng nhạc chủ đề phim “Người cuối cùng của bộ lạc Mohican”

LastOfTheMohicans(1920)Phim “Người cuối cùng của bộ lạc Mohican” được dàn dựng dựa trên tiểu thuyết cùng tên. Đây là một cuốn tiểu thuyết rất nổi tiếng của nhà văn Jamese Fenimore Cooper (1789 – 1851) – nhà văn viết tiểu thuyết đầu tiên của nền văn học Mỹ đa sắc màu. 

Tiểu thuyết “Người cuối cùng của bộ tộc Mohican”, xuất bản năm 1826, trên khung nền của một cuộc chiến tranh giành đất đai giữa hai đế quốc thực dân Anh và Pháp mà nhân vật chính ủng hộ quân Anh chống lại quân Pháp. Cuốn truyện phác họa khung cảnh thiên nhiên hùng tráng của miền đất mới với những chủ nhân thực sự của nó là những người Mohican da đỏ tính cách dữ dội nhưng chất phác, trung thực và trọng nhân phẩm, hoàn toàn cách biệt với sự sa đọa của xã hội văn minh. Những người Mohican vẫn là biểu tượng cho lòng kiên trì, can đảm chiến đấu. Cho đến con người cuối cùng, giọt máu cuối cùng, họ vẫn chiến đấu để bảo vệ cho bộ tộc của mình.

Có rất nhiều bộ phim được dàn dựng dựa trên tiểu thuyết này, ví dụ: năm 1920 – diễn viên chính Wallace Beery, năm 1932 – diễn viên chính Harry Carey, năm 1936 – diễn viên chính Randolph Scott, năm 1992 – diễn viên chính Daniel Day-Lewis. Tuy nhiên, Thư viện Quốc Hội Mỹ đánh giá bộ phim sản xuất vào năm 1920 là ấn tượng nhất và hiện được bảo quản tại US National Film Registry. 

Indiogenes
Indiogenes

Dưới đây là video clip nhạc chủ đề của phim “Người cuối cùng của bộ lạc Mohican”. Bản nhạc này có tên là “The Gael”, do nhà soạn nhạc nổi tiếng người Scotland – Dougie MacLean sáng tác vào năm 1990, trong album “The Search”. Năm 1992, Trevor Jones đã sử dụng bài này làm nhạc chủ đề của phim “Người cuối cùng của bộ lạc Mohican”.

Cảm nhận đầu tiên của mình là bản nhac này là quá tuyệt vời, thật đẹp và thật hùng tráng. Một sự kết hợp hài hòa giữa âm nhạc hiện đại và âm nhạc huyền bí, cổ xưa của những bộ lạc, thổ dân da đỏ (đặc biệt là những tiếng sáo phát ra từ cây sáo của thổ dân Mỹ). Mời các bạn thưởng thức!

 

 

Na Uy thắng giải Eurovision 2009

rybak

Na Uy đã thắng giải Eurovision tổ chức tại Moscow năm nay với mức điểm ấn tượng 387. Đây là giải bản nhạc hay nhất Âu châu hàng năm, với sự tham dự của 25 quốc gia. Iceland về nhì với 218 điểm và Azerbaijan về ba với 207. Eurovision là chương trình TV rất được yêu chuộng ở Âu châu.

Alexander Rybak của Na Uy sinh tại Minsk (Belarus) ngày 13 tháng 5 năm 1986. Và lớn lên ở Nesodden, ngay bên ngoài thủ đô Oslo của Na Uy. Anh đã chơi violon từ lúc lên 5, tự viết nhạc và tự trình diễn violon và hát. Năm 2006 anh thắng giải tài năng Kjempesjansen ở Na Uy với bản nhạc chính anh viết. Anh đã trình diễn như là người chơi violon trong nhạc kịch Người Đàn Violon Trên Nóc Nhà (Fiddler On The Roof) tại Oslo Nye Theatre (2007), và đang tham dự cuốn phim Yohan – Child Wanderer, dự định phát hành tháng 9 này.

Mời các bạn thưởng thức video ba bản nhạc thắng ba giải Eurovision cao nhất năm nay.

Hạng nhất: Norway, nghệ sĩ: Alexander Rybak
.

.

Hạng hai: Iceland, nghệ sĩ: Yohanna
.

.

Hạng ba: Azerbaijan, nghệ sĩ: AySel & Arash