Chào các bạn,

Mọi đôi mắt trên thế giới đang dồn về Nam Phi, không chỉ vì bóng đá, mà còn vì đó là một hiện tượng huynh đệ thân ái có lẽ là lớn nhất lịch sử Phi Châu và rất lớn cho thế giới. Đây là lần đầu tiên World Cup diễn ra tại Phi Châu, cơ hội lớn cho các nước Phi Châu hãnh diện và đoàn kết trong tình huynh đệ; và lần đầu tiên một quốc gia da đen làm chủ nhà, tỏ tình bình đẳng chủng tộc trên thế giới.
Continue reading Teamwork và Phản biện
Category Archives: Kỹ năng lãnh đạo
Huấn nhục
Chào các bạn,
Từ “huấn nhục” này đến từ các trường võ bị của miền Nam trước kia. Huấn nhục là dạy cho người ta chịu nhục. Các chương trình đào tạo sĩ quan đều có tuần huấn nhục. Trong tuần đó các khóa sinh đàn em sẽ được các huynh trưởng khóa đàn anh huấn nhục, tức là đì đàn em tới mức tối đa, và đàn em chỉ có việc vâng dạ và nghe lệnh. Mình chưa đi lính nên thuở đó chỉ nghe các chuyện kinh khủng từ các bạn kể lại; nghe cũng đủ đổ mồ hôi hột rồi!
Continue reading Huấn nhục
Cái gì là trọng tâm của quản lý ?
Chào các bạn,
Trong mấy thập niên qua, tư duy của người Việt ta, nói chung, rất khác nhau về quản lý chiến tranh và quản lý hòa bình.

Khi có chiến tranh ta tập trung vào chỉ một điểm “Con người Việt Nam quyết chiến, quyết thắng, sẵn sàng chết cho tổ quốc”. Ta nói đến Thánh Gióng, một đứa bé lên ba, xung trận, gẫy kiếm sắt thì nhổ tre đánh giặc. Ta nói đến Hai Bà Trưng, nhi nữ anh hùng, thà chết không hàng. Ta nói đến Hội Nghị Diên Hồng với các bô lão: “Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh? Hy sinh!” Đó là quản lý tập trung vào một điều duy nhất—cái tâm quyết thắng của con người.
Continue reading Cái gì là trọng tâm của quản lý ?
Bạn nhìn xa đến đâu, và rộng đến đâu?
Chào các bạn,
Nhìn xa là nhìn được vào tương lai, nhìn rộng là nhìn được toàn cảnh.
Bạn nhìn xa đến đâu, và rộng đến đâu?
• Nếu bạn biết được anh chàng mắt kiếng cù lần tối ngày ôm sách học, chẳng biết nhảy đầm hay tán gái, 15 năm nữa là boss của bạn, có lẽ là hôm nay bạn đã không lên mặt thầy đời chế giễu là anh ta cù lần.

Continue reading Bạn nhìn xa đến đâu, và rộng đến đâu?
Tĩnh lặng và Tư duy tích cực
Chào các bạn,
Khi nói đến tư duy tích cực, ấn tượng đầu tiên chúng ta thường có là tư duy tích cực rất ồn ào về cái tôi: Vận mệnh tôi trong tay tôi, muốn là được, tôi sẽ thành công, tôi sẽ thắng, tôi đáng quý, tôi có đủ tài năng…

Tư duy tích cực nhập môn thường hay có vẻ ồn ào như thế, vì đó là cách hay nhất và nhanh nhất để làm cho người ta mạnh ngay lên một tí. Những người chưa hề biết tích cực, lúc nào cũng thấy mình chẳng nghĩa lý gì, chẳng làm được gì, chẳng nên tích sự gì cả, và luôn luôn đổ thừa cho hoàn cảnh và người khác. Cách trưởng thành hay nhất cho họ là tập đứng thẳng lên, lấy lại tự tin và tự trọng cho mình, và quy trách nhiệm của đời mình vào chính mình.
Nhưng thực ra căn bản chính của tu duy tích cực là tĩnh lặng, chẳng ồn ào tí nào.
Continue reading Tĩnh lặng và Tư duy tích cực
Mỗi ngày một việc thiện
Chào các bạn,
Tất cả mọi vị thầy của tất cả mọi môn học trên thế giới đều xác nhận với bạn là muốn nhuần nhuyễn môn học của họ, bạn phải luyện tập hàng ngày. “Thường xuyên” là yếu tố quan trọng nhất cho tinh tấn, dù đó là toán, hội họa, khiêu vũ, võ thuật, tư duy tích cực, thiền…

Một trong những cách giản dị và dễ nhất để luyện tập tư duy tích cực, thiền tâm, và tâm nhân ái là “Mỗi ngày một việc thiện.”
Thực ra chúng ta đã thường làm mỗi ngày hơn một việc thiện rồi. Ta chỉ không nghĩ đến mà thôi. “Mỗi ngày một việc thiện”, hoặc cho chính mình hoặc cho người khác, chẳng làm ta nặng gánh thêm tí nào, ngoại trừ nó nhắc ta ý thức đến điều ta làm mỗi ngày mà thôi.
Có rất nhiều việc thiện lớn nhỏ ta có thể làm mỗi ngày trong cuộc sống thường nhật:
1. Việc thiện cho mình:
• Nhịn hút một điếu thuốc lúc đang lên cơn thèm.
• Đang muốn nằm nướng, nhưng đứng dậy đi bơi.
• Đang lừ nhừ, làm một ly cà phê, mở của đứng uống cà phê nhìn mặt trời lên trên ngọn cây.
• Đi bộ một quãng sau khi ăn tối.
• Đang tức giận việc gì đó, mở nhạc nhẹ nghe và ngủ một giấc cho quên giận.
2. Việc thiện cho người khác:
• Nhường chỗ cho một phụ nữ trên xe bus.
• Đưa một cụ già qua đường.
• Cho một người ăn xin một tí tiền.
• Cho người hàng xóm mượn một đồ vật cần dùng.
• Tính mắng ai đó một câu, nhưng nuốt nước bọt rồi mỉm cười.
• Tính làm gì đó để đì ai đó cho hả giận, nhưng niệm (phật hay chúa) một câu rồi quyết định không làm.
• Nhặt một mảnh rác và bỏ vào thùng rác gần đó.
• Ai đó sửa soạn đánh nhau, nói vài lời can ngăn.
Đại loại là như thế. Việc thiện đầy dẫy quanh ta, chỉ cần mở mắt một tí thì thấy bao nhiêu là cơ hội để làm, mà lại chẳng tốn tí công sức gì của ta cả.
“Mỗi ngày một việc thiện” có ảnh hưởng rất lớn đối với chính ta và xã hội của ta. Việc thiện của ta có ảnh hưởng trực tiếp đến 3 nhóm người:
1. Người được ta giúp: Hoặc là họ nhận một điều thiện từ ta, hoặc là không nhận một điều ác từ ta, đó đều là điều tốt cho họ. Và họ sẽ nghĩ: “Ờ, thế giới này vẫn còn người tử tế.” Suy nghĩ như vậy là một năng lượng tích cực trong tâm của một người. Có cơ hội nó sẽ được nhân lên thành nhiều người.
2. Chính ta: Ý thức và hành động của “Mỗi ngày một việc thiện” là cách luyện tư duy tích cực và thiền rất hiệu quả. Có lẽ là ít có gì hiệu quả bằng, vì đây là luyện tập bằng hành động sống.
3. Những người nghe/thấy được việc thiện của ta: Như những người qua đường, nhìn thấy ta giúp một lão bà, họ sẽ nghĩ: “Ờ, thế giới này vẫn còn người tử tế”. Và năng lượng tích cực này trong họ sẽ được nhân lên khi có cơ hội.
Các bạn có thể thấy được sức mạnh của năng lượng tích cực này trên thế giới của ta nếu bạn chỉ làm một việc thiện một ngày, và cứ như thế cả đời không?
Mong các bạn nồng nhiệt tham dự vào “dự án cá nhân” này cho chính bạn, đồng thời chuyển message này đến bạn bè, mời gọi mọi người tham dự vào “dự án cá nhân” cho riêng họ; và như thế các “dự án cá nhân” của chúng ta đã là một “dự án xã hội”, cho thành phố, quốc gia, và thế giới chúng ta đang sống.
Chẳng có gì lớn lao. Nhưng ta chẳng nên quên là “Tiếng động của một cái khảy móng tay có thể rung động đến vô lượng thế giới.”
Các bạn thỉnh thoảng hãy đến ghi vào phản hồi của bài này một việc thiện nhỏ bạn đã làm, để chia sẻ ý tưởng với các bạn khác. Đây là sống. Đây không phải là phong trào kéo dài một vài tháng. Đây là dự án sống cả đời. Và bạn đã thường làm rồi, chẳng có gì mới, chỉ là suy nghĩ có hệ thống hơn. Thế thôi.
Chúc các bạn một ngày vui. Đừng quên chuyển message này đi. Chúng ta đã có một link thường trực trên ĐCN về “Mỗi Ngày Một Việc Thiện”.
Mến,
Hoành
Người trông cậy được
Chào các bạn,
Từ quan trọng nhất khi định điểm một người để tuyển họ vào việc nào đó là “trông cậy được” (reliable). Tất cả mọi nhận xét về đức tính và vốn liếng của người đó—thông mình, hoạt bát, kinh nghiệm…– rốt cuộc quy về một chữ “reliable.” Reliable thì tuyển, không reliable thì không tuyển.

Trong mọi liên hệ khác ở đời cũng chỉ một từ reliable—thương mãi, kinh tế, chính trị, chủ thợ, vợ chồng, bạn trai bạn gái, teamwork, v.v… Một người mà ta có thể sống chung hay làm việc chung thường xuyên là một người có thể trông cậy được. Hắn có thể đẹp trai hay xấu trai, kiêu căng hay khiêm tốn, thông minh hay khù khờ, nhưng nếu trông cậy được là được.
Trông cậy được (reliable, reliability) tối thiều được thành hình nhờ các tính chất sau:
1. Thành thật: Nếu bác không thành thật thì Diêm Vương gặp bác cũng phải chạy, nói chi người.
2. Lời nói chắc chắn: Nói 3 giờ có mặt thì động đất cũng có mặt lúc 3 giờ. Nói là sẽ làm việc gì thì sẽ làm việc đó. Việc gì chưa biết thì nói chưa biết, biết mơ hồ thì nói biết mơ hồ.
Dĩ nhiên là người nói chắc chắn cũng là người thành thật, nhưng đôi khi có người thành thật nhưng lại ăn nói không chắc chắn. Ví dụ: Hắn nói có mặt 3 giờ, thì thế nào hắn cũng có mặt, nhưng có thể là 4, 5 giờ. Tên này rât lỏng lẻo về thời gian.
3. Trung thành: Đã là bạn thì luôn là bạn, không vì bất đồng y’ kiến về việc gì đó mà đổi bạn thành thù, hay vì cả hai mê một cô hoặc giành một chức vị mà không chơi với nhau được nữa, hay bực nhau chuyện gì đó rồi đổi bạn thành thù.

Trung thành không có nghĩa là luôn luôn đồng ý. Trung thành là luôn luôn giữ vững liên hệ nền tảng, dù có bất đồng ý về chuyện gì đó.
Trung thành là không bỏ chạy khi đụng chuyện—khi bạn lên thì là bạn, khi bạn bị đời chối bỏ và ngyền rủa thì ta bỏ bạn. Thế thì ruồi chạy theo mật chứ bạn bè gì. Bạn có nghĩa là: Khi cả thế giới bỏ bạn, bạn có thể đến tựa vào vai mình.
Vợ chồng, thầy trò … cũng vậy.
4. Hiểu ý nhau: Người reliable nghe rất kỹ và luôn cố để hiểu đúng ý người kia và làm đúng ý. Rất ít khi có chuyện “Ồ, em tưởng thế này.”
Người reliable chẳng cần nói nhiều. Nói một từ với nhau là đã hiểu trọn ý.
Nhưng làm sao thực hiện được nghệ thuật hiểu nhau này? Thưa, lắng nghe với sự nhậy cảm của cả con tim và khối óc.
4. Không có ngạc nhiên: Một người reliable không bao giờ làm người kia ngạc nhiên. “Ủa, sao anh làm kỳ vậy?” “Trời, tui đâu có ngờ anh làm việc này.”
Người thường đưa cho bạn ngạc nhiên là không reliable.
Người reliable, nếu có việc gì không rõ thì luôn luôn hỏi lại. Muốn làm gì cũng nói chuyện qua với nhau trước.
Nói chung, người reliable là người nếu làm việc chung với bạn, buôn bán chung với bạn, ngủ chung với bạn, thì bạn luôn cảm thấy an tâm, thấy được thêm đồng minh, thêm sức mạnh; có thể đi chơi xa, để công việc lại cho người này chăm sóc mà không mảy may lo lắng.
5. Không dễ tin việc nhảm. Người reliable là người nếu có người nói xấu với họ về bạn, bạn biết là họ sẽ không tin, vì họ hiểu bạn.
Nếu có người nói xấu bạn mà họ tin ngay thì họ không reliable.
6. Tha thứ: Người reliable dù biết bạn sai cũng không thay đồi tình cảm với bạn, sẽ tha thứ cho bạn, và sẽ vẫn thương yêu bạn.
Nếu đọc đến đây mà bạn vẫn chưa hiểu reliable là thế nào thì theo công thức này: Người reliable nhất với bạn mà bạn đã biết là mẹ bạn. Hãy theo đó mà sống reliable với mọi người.
Chúc các bạn một ngày vui.
Mến,
Hoành
© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Ba điều căn bản cho ta và cho đất nước
Chào các bạn,
Đề tài này là ba điều căn bản cho chính bản thân mỗi người chúng ta, và cũng cho đất nước của ta—cho ta và cho đất nước ta cùng một lúc. Sở dĩ thế vì thường là điều gì tốt cho ta thì cũng tốt cho đất nước–đất nước chỉ là các cá nhân chúng ta tụ lại mà thành.

Nhưng tại sao chúng ta muốn nói đến “ta” và “đất nước” như cặp bài trùng? Thưa, vì đó là một điều tương đối hiển nhiên nhất để sống với cái “ta” không vị kỷ. Ta mà chỉ là “tôi” thì rất vị kỷ. Ta cho “cô hàng xóm” bên cạnh, cũng rất vị kỷ. Ta cho “gia đình” của ta, thì ít vị kỷ một tí hơn “tôi”, nhưng vẫn còn rất vị kỷ.
Ra khỏi gia đình mới bắt đầu hết vị kỷ–làng xóm, thành phố, đất nước. Cho các tập thể ngoài gia đình, “dân tộc” hay “đất nước” thường được sử dụng nhiều nhất để nói đến cái tâm phục vụ, cái tâm vị tha của con người. Nếu ta nói “nhân loại” thì càng tốt hơn cả “đất nước.” Nhưng “nhân loại” thường quá rộng và quá trửu tượng cho những người trung bình để họ có thể nắm được ý tưởng, trong khi “đất nước” thì rất rõ ràng cho đa số người trên thế giới, nên ở đây ta dùng “đất nước.”
Cho cả ta và đất nước, có ba điều cản bản mỗi chúng ta cần thành thục:
1. Tính sáng tạo: Nếu không sáng tạo thì năm nay đang ngủ trong hốc đá như người ở động đá (caveman), một ngàn năm nữa con cháu vẫn ngủ trong hốc đá.
Tính sáng tạo đòi hỏi ta đặt câu hỏi thường xuyên: Tại sao không ngủ ngoài trời? Tại sao không làm cách nào để ngủ gần bờ biển thay vì trên núi? Tại sao ta không ngủ bất cứ nơi nào ta đang đứng ban đêm? Làm sao để thực hiện được các ý định đó? Tại sao cha ông ta làm điều này? Tại sao ta nên làm theo? Tại sao ta nên làm khác đi?…
Phân tích (hỏi) và phê phán là điều kiện tiên quyết để sáng tạo. Không hỏi và phê phán—chỉ biết gọi dạ bảo vâng ăn ngủ–thì không thể có sáng tạo.

2. Tính hành động: Hỏi 100 năm cũng chẳng được gì nếu ta không hành động. Hành động là… hành động. Nếu khu xóm ta nhiều rác quá, ngưng xả rác và bắt đầu nhặt rác, ít nhất là quãng ngay trước nhà mình.
Việc này không cần suy tính, chiến lược chiến thuật, vận động tuyên truyền. Cứ làm đi, ngay lúc này, làm được việc gì có thể làm lúc này. Hành động làm cho thế giới thay đổi. Hành động là sáng tạo ra điều mới, là biến tư tưởng sáng tạo thành hiện thực sáng tạo.
3. Kỹ năng làm việc nhóm (teamwork)
Đây là kỹ năng yếu nhất của người Việt. Nếu bỏ tất cả mọi sự và kể đến chỉ một điểm yếu của người Việt mà ta cho là đầu mối của tất cả mọi nghèo đói của dân ta, thì ta có thể nói đến “teamwork.”
Và vấn đề teamwork chúng ta đã có cơ hội nghiên cứu nó 35 năm liền trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Đây là một môi trường lý tưởng để nghiên cứu vấn đề rất rộng lớn này. Ở trong nước thì xưa nay vẫn không được tự do ăn nói và tổ chức như ở nước ngoài, cho nên nghiên cứu về teamwork không được tốt.
Ở nước ngoài, người Việt chúng ta có tự do muốn nói gì thì nói, muốn viết gì thì viết, muốn thành lập hội hè bè nhóm gì đó thì tha hồ. Và hậu quả 35 năm liền cho thấy, chúng ta chưởi bới nhau, đì nhau, hạch sách nhau, sát phạt nhau… thường xuyên, hàng ngày, đủ mọi cách… dù cho mọi người than phiền chán nản, dù cho mọi cố gắng để “đoàn kết”, dù cho người “trí thức” hay “chân tu” nhúng tay vào … dù cho… dù cho… Nếu tụ 10 người Việt ngồi lại làm việc, rất có khả năng lớn là trong một thời gian rất ngắn, 10 người này sẽ chia thành ba nhóm thanh toán nhau… tìm cách đì nhau… Dù cho ai có giải thích khuyên lơn thế nào cũng vô ích. Câu chuyện “teamwork” của người Việt ngày nay vẫn còn nóng hổi với các spam mail mà các bạn nhận hàng ngày, và nếu các bạn đã từng bỏ vài giây liếc qua các spam mail là thấy ngay các đấu đá. Chẳng có gi đáng ngạc nhiên.

Điều quan trọng là, mọi người trong cuộc đều có lý đo để tin rằng họ hành động kiểu trẻ con và bệnh hoạn như vậy là đúng—vì hắn gian đối, vì hắn tự kiêu, vì hắn không biết teamwork, vì hắn quá cực đoan, vì hắn quá bảo thủ, vì hắn chẳng hiểu gì, vì hắn… vì hắn…
Các “vì hắn…” này luôn luôn đúng, thế mới chết. Ít nhất là đúng với người nói ra từ “vì hắn.” Và nếu bạn nghĩ là người đó nói sai, thì bạn chẳng hiểu gì hết. Không thể giả thiết là mọi người nói sai hết như vậy.
Thông thường là, người nói “vì hắn…” có một vài căn bản nào đó trên thực tế để quyết đoán điều “vì hắn…” này. Và chính vì vậy mà người nói “vì hắn” thường nói đúng một phần nào đó, dù chưa chắc đúng 100%; ít ra là thế trong đầu họ. Và vì vậy, người đó thực sự có vấn đề “với hắn” và “với cả team.”
Và chính vì “vì hắn” thường có căn bản chủ quan “đúng” như thế, cho nên người Việt chúng ta có vấn đề teamwork rất lớn, không thể giải quyết được.
Nếu so sánh tác phong teamwork của người Việt và người Mỹ (là nhóm dân mình có kinh nghiệm quan sát rất kỹ), thì người Mỹ cũng có hàng triệu cái “vì hắn…” chẳng khác ta một tí nào. Điểm khác biệt duy nhất là ta dùng “vì hắn” để đập vỡ team, thì người Mỹ tự động gạt tất cả các “vì hắn…” ra khỏi đầu khi ngồi vào team.
Khi ngồi vào team người Mỹ có một thái độ duy nhất: Cả team phải làm việc với nhau thế nào để làm lủng lưới địch thủ. Tất cả mọi tư tưởng khác về đồng đội sẽ tự động bị gạt ra ngoài suy tưởng—tên này hay tranh công, tên này hay giữ bóng trong chân hắn, tên này hay ba hoa, tên này hay kiêu căng… Tất cả các định giá này vẫn có đó, nhưng không ai nghĩ đến nó khi làm việc cho team. Nếu cần thì nhắc một câu “Cậu đừng giữ bóng trong chân lâu quá” hay “cậu đừng ham tranh công nhiều thế, có hại”—nhưng dù là gì, thì tất cả đều không ảnh hưởng đến mục tiêu duy nhất trong các nhóm viên là “làm việc chung để thắng.”
Trong một nhóm chỉ có một tư tưởng là đúng: “Làm việc chung để thắng.” Tất cả các chuyện khác–vì hắn… vì mày… vì anh…–không bao giờ được cho phép ảnh hưởng gì cả trong một team Mỹ. Một người có thể mắng người kia việc gì đó—stupid, tham lam, v.v…–và những lời mắng như vậy, đù đúng hay sai, thường bị gạt ra ngoài đầu ngay lập tức. (Nếu ấm ức, thì thắng xong có thể ra ngoài uống cà phê hỏi lại cho rõ. Nhưng khi đang làm việc team thì chẳng ai thắc mắc. Nếu có người thắc mắc, họ sẽ nhận được những cái nhìn ngạc nhiên tròn xoe. “Sao lại nói chuyện đó lúc này?”).
Đây là văn hóa sống, văn hóa team, ta không thể nói “Tại sao họ không giải quyết xong các ‘vì hắn’ trước khi ngồi vào team?” Câu trả lời là “không thể”, vì ta luôn luôn có hàng chục “vì hắn” cho mỗi người—và “không cần”, vì ta đã gạt bỏ hết mọi “vì hắn” như là không quan trọng khi ta làm việc nhóm. Hắn có kiêu căng hay lười biếng hay thích tranh công cũng chẳng ai quan tâm, miễn hắn chuyền bóng tốt cho anh em là được.
Chúng ta đã may mắn có 35 năm kinh nghiệm và quan sát để biết được vấn đề teamwork của chúng ta nằm ở đâu, mạnh đến thế nào, và thế nào để giải quyết. Và chúng ta phải giải quyết nó, nếu ta muốn đất nước ta ra khỏi cái nghèo hèn truyền kiếp.
Và cách giải quyết rất giản dị: “Khi ngồi vào team chỉ có một qui luật là đúng: Làm việc chung để thắng.” Tất cả mọi “tại vì… vì hắn… vì anh…” đều phải đặt bên ngoài đầu, và đều phải xem là sai khi nó chúng còn ở trong đầu.
Qui luật giản dị. Nhưng việc quan sát teamwork của chúng ta trong 35 năm qua cho biết đây là vấn đề khó khăn hàng đầu cho người Việt, không gì khó hơn. Chỉ vì ta… không làm thế được.
Nhưng dù được hay không thì vấn đề vẫn rất giản dị: Tương lai của mỗi người chúng ta và của đất nước nằm trong tay teamwork này.
Chúc các bạn một ngày vui.
Mến,
Hoành
Bài liên hệ: Làm việc nhóm: Bách chiến bách thắng, Teamwork: thăm lại.
© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Suy nghĩ trong một khung cảnh cụ thể
Chào các bạn,
Suy nghĩ trong một khung cảnh cụ thể (thinking within a context) là một kỹ năng phân tích (analytical thinking) mà chỉ một ít người thuần thục, một số nhỏ khác thì làng nhàng, và rất đông có vẻ như không hề biết đến. Nhưng đây là kỹ năng quan trọng nhất cho suy tư chính xác và sắn bén. Suy tư trong một khung cảnh cụ thể không những giúp ta thấy vấn đề chính xác và rõ ràng, mà còn giữ tâm trí kỹ luật trong vấn đề đang được khảo sát, không bị “scattered brain” (bộ óc rời rã, chạy lung tung từ quả cam, đến bom nguyên tử, đến Thái Bình Dương, đến sa mạc Sahara… chẳng đâu vào đâu cả).

Dùng một tai nạn đụng xe giản dị làm thí dụ. Xe vận tải cán chết một nữ sinh đi xe đạp. Khách bàng quan thẩm bình:
1. “Mấy thằng tài xế xe vận tải chạy ẩu lắm.” Đây là “suy nghĩ theo nhãn hiệu” (labelism), chẳng ăn nhập gì tới khung cảnh cụ thể hiện tại. Đại đa số người trên thế giới suy nghĩ kiểu này. Đại đa số dân Việt, kể cả “trí thức” Việt, suy nghĩ kiểu này.
Cứ đọc các tài liệu có mùi chính trị do dân Việt ta, kể cả người “trí thức”, chuyển đến inbox của bạn hàng ngày thì biết ngay. Các thông tin mạ lị Trung quốc vừa vô lý vừa dốt, các thông tin chống nhà nước vừa giả vừa dốt… cứ được các “trí thức” chuyền tay nhau hàng ngày, không cả chớp mắt trước khi ấn nút forward. (Mình không nói về các thông tin chính xác và hợp lý về các vấn đề này. Hiện tại ta đang nói đến thông tin rác mà thôi. Và lấy thí dụ liên hệ đến chính trị vì nó nhiều nhất và rõ nhất mỗi ngày, dễ thấy nhất. Thật ra ta có đủ loại rác, chứ không chỉ là rác chính trị.).
2. “Lái xe lớn tới chỗ đông người thì phải cẩn thận chớ!” Câu này bắt đầu sờ nhẹ đến khung cảnh một tí, nhưng chẳng ăn nhập gì vào chi tiết của vụ việc cả.
3. “Trời, con người ta còn nhỏ đẹp như vầy mà nó giết!” Chẳng ăn nhập đâu vào đâu hết.
4. “Tuần trước ở Ngã Bãy cũng một thằng tài xế vận tải y chang loại vận tải này cán chết một ông già đi xe ôm!” Chẳng ăn nhập gì tới chuyện này hết.
5. “Thằng tài xế có lỗi 100%. Tui thấy nó quỳ xuống bên cạnh con nhỏ lảm nhảm ‘Cho anh xin lỗi, cho anh xin lỗi.’”
Nói như vậy là “lấy câu này ra khỏi khung cảnh cụ thể” (taking the statement out of context). “Cho anh xin lỗi” chưa chắc vì người ta có lỗi, mà có thể chỉ vì người ta buồn.
Suy nghĩ trong khung cảnh cụ thể là phải biết xe vận tải đang đi thế nào, từ hướng nào về hướng nào, vận tốc bao nhiêu, có vượt đèn đỏ không, tài xế có say không… một lô câu hỏi tương tự cũng có cho người xe đạp… rồi hai xe làm sao mà va nhau, phản ứng của tài xế lúc đó thế nào… sau tai nạn anh ta làm gì, nói gì…. Tất cả những chi tiết của khung cảnh cụ thể phải được nắm vững, rồi các câu nói như câu xin lỗi của người tài xế, phải được hiểu trong khung cảnh đó, mới có thể đến kết luận cuối cùng là ai phải ai trái ra sao.

Vấn đề chỉ giản dị thế thôi, nhưng ít ra là 80 phần trăm số người trên thế giới không nắm được. Đọc các tranh luận trên Internet hay báo chí thì thấy, một người viết về một vấn đề, người kia tranh cãi bằng cách lấy một câu nói ra khỏi bài, để diễn giải nó “bên ngoài khung cảnh” (hoặc “bên ngoài ngữ cảnh” vì đây là từ ngữ), cho nên ông nói gà bà hiểu vịt, tất cả mọi bàn luận đều chết cứng và trở thành hỗn độn ngay lập tức. Và đương nhiên những người tranh luận thường xuyên trên Internet, đa số là “trí thức”.
Ta phải dùng từ “trí thức” trong ngoặc ở đây, không phải là châm biếm, mà là nhắc nhở rằng “Đã là trí thức thì ta cần học cách suy nghĩ nói năng chính xác một tí. Nếu các kỹ năng suy tư căn bản mà ta còn không nắm vững được, thì làm sao có thể là trí thức được? Võ sư mà không biết đấm, sao gọi là võ sư?”
Nếu chúng ta tập giữ kỹ luật suy nghĩ trong khung cảnh thực tế thì đương nhiên là ta sẽ:
1. Nhìn mỗi vấn đề rất rõ ràng (không bị thành kiến chi phối),
2. Không suy tư theo kiểu nhãn hiệu “Công giáo là tồi, Phật giáo là dốt, Trung quốc là tồi, Đảng ta là đúng, phản động là sai, Hàn thì tốt, Nhật thì kiêu….” Suy tư theo kiểu nhãn hiệu thì không cần phải đi học. Cứ lấy một câu như câu trong ngoặc kép trên, cho mấy đứa con nít học thuộc lòng, chúng nó sẽ áp dụng tư duy nhãn hiệu không thua gì các tiến sĩ mà tư duy kiểu nhãn hiệu. (Đó là tại sao trẻ em là thành phần chủ lực trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa của Mao Trạch Đông, và Cách Mạng Đỏ của Polpot và Khmer Rouge. Các đại đồ tể của thế giới thích mọi người tư duy theo kiểu nhãn hiệu).
3. Không có nhãn hiệu cho chính mình. Ví dụ: Hôm qua anh nói nhà nước quản lý thành công tốt, hôm nay anh chê nhà nước quản lý tồi, vậy anh chống nhà nước hay ủng hộ nhà nước? Anh ba phải hay bốn phải?
À…à… hôm qua tôi nói chuyện nhà nước giữ được kinh tế phát triển với tỉ số cao liên tục trong hơn một thập niên, đó là quản lý tốt. Hôm nay tôi nói nhà nước không làm giảm tham nhũng “một cách thấy được” trong hơn một thập niên, đó là quản lý tồi. Tôi chẳng chống nhà nước, chẳng ủng hộ nhà nước. Tùy chuyện mà nói tốt hay xấu, đúng hay sai, mà thôi. Và như vậy thì chắc là “trăm nghìn phải” chứ chẳng là ba bốn phải.
Các bạn ạ, suy tư trong một khung cảnh cụ thể (thinking within the context) là một trong những kỹ năng quan trọng nhất, nếu không là kỹ năng duy nhất, của tư duy phân tích (analytical thinking). Và dân Annamít ta cực kỳ, cực kỳ, cực kỳ yếu môn này. Cũng chính vì đó mà kỹ năng phân tích của sinh viên và trí thức Việt rất yếu. Điều này hệ trọng đến tương lai đất nước. Trí thức mà yếu khả năng tư duy thì lấy ai hướng dẫn nước nhà?
Chúc các bạn một ngày vui.
Mến,
Hoành
Bài liên hệ: Chủ nghĩa nhãn hiệu, “Thuộc về” nhóm nào?
© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Dạy và Học
Chào các bạn,
Bài này nghe có vẻ như dành cho các bạn làm giáo chức, nhưng thực ra thì tất cả chúng ta ai cũng làm thầy và cũng làm trò. Dù ta là ai, ta cũng phải huấn luyện ai đó—con cái, em út, thuộc cấp, đồng nghiệp—và ta cũng phải học từ ai đó—cấp chỉ huy, huấn luyện viên chuyên môn, sư phụ, sư mẫu. Cả cuộc đời là dạy và học cùng một lúc, dù muốn dù không, dù ta có thấy điều đó hay không.
Học thế nào
Học thì dễ thấy hơn. Ai trong chúng ta cũng đã thấy “càng học càng thấy bể học càng mênh mông và cái biết của mình càng nhỏ”, cho nên chúng ta ham sách, ham Internet, ham thảo luận, ham học… Học không chỉ là vì đam mê có thêm kiến thức, mà còn là vì nỗi sướng vui khi khám phá ra điều mới, như người dọ dẫm trong cánh rừng rậm âm u thỉnh thoảng lại vớ được một hòm sắt nhỏ đầy châu báu của đám hải tặc nào đó đã chôn dấu hàng trăm năm trước.
Vấn đề của ta không phải là không ham học, mà là có quá nhiều thứ để học, mà thời gian thì có hạn, làm thế nào để học được nhiều nhất trong khoảng thời gian hạn hẹp của ta. Đây là một số trực nghiệm của mình:
1. Chọn thông tin.
Thông tin tồi, sách nói bậy rất nhiều, phải chọn thông tin mà đọc.
Thông tin trên Internet từ các nguồn rác thì đừng tốn thời giờ đọc. Nguồn rác là: Các nguồn spam thông tin tuyên truyền một chiều, quảng cáo lăng nhăng, các người quen có thói quen forward rác… Delete thì tốt hơn là tốn thời giờ mở mail xem họ nói gì. Dành thời gian cho chuyện khác.
Các thông tin giật gân về y tế, chính trị, xã hội, v.v… thường là thông tin rác. Delete. Nếu là thông tin tốt đương nhiên là bạn sẽ biết sau này.
Sách thì đọc qua các tóm tắt về quyển sách trước khi quyết định nên đọc quyển nào.
2. Tâm tĩnh lặng
Nếu tâm bạn tĩnh lặng, không choi choi, nó sẽ trong sáng, bạn sẽ thấy nhiều điều trong cái bạn đọc, kể cả các điều tác giả không cố tình viết, nhưng bạn vẫn thấy trong đó.
Nếu tâm bạn có nhiều thành kiến (mê Mỹ chê Tàu, mê công giáo chê phật giáo), ghen ghét (tên ca sĩ địch thủ của ta), thù hận (sách phản động versus sách quốc doanh), mê chuộng (tên Mỹ hay Tây), kiêu căng (chỉ các sách dân Harvard đọc)… thì bạn chỉ thấy được 1 hay 2 trong cả chục mặt của một vấn đề.
Đọc một thấy mười là nhờ “đầu óc mở rộng” đến từ “tâm tĩnh lặng”.
3. Tìm tinh túy của điều mình đọc

Một quyển sách thường chỉ có một tinh tuý có thể tóm tắt trong một câu. Ví dụ: Quyển The World Is Flat có thể tóm tắt là “Thế giới như một sân bóng bằng phẳng, và các nước đang lên cũng có thể cạnh tranh ngang hàng với các đại gia của thế giới trên sân bóng phẳng đó.”
Đôi khi đọc tóm tắt quyển sách, ta thấy được tinh túy quyển sách, và không cần phải đọc quyển sách, hoặc chỉ cần đọc một hai chương đầu là xong. Đa số sách ngày nay có cả mấy trăm trang, nhưng chỉ có một chương đầu là đáng đọc. (Người ta rất phí giấy và phí thời gian).
Đọc cả mấy trăm trang mà không nắm được tinh túy thì cũng vô ích.
Hoặc, quyển sách đầu đề “12 bí quyết thành công”, bạn có thể chỉ đọc mục lục xem 12 bí quyết đó là gì cũng đủ. Đa số các chi tiết chẳng có gì mới lạ. Nếu có thời giờ, có thể đọc chi tiết sau, nhưng biết được 12 bí quyết tên gì cũng tạm xong quyển sách lúc bận rộn.
Nếu một quyển sách, một bài viết, mà bạn không thể tóm tắt tinh túy trong một câu nói, thì hoặc là bạn chưa nắm được tinh túy, hoặc là tác giả viết chẳng có gì trong đó.
4. Khi tìm thấy điều gì mình muốn đọc nghiêm chỉnh, thì đọc nghiêm chỉnh, tức là đọc chậm rãi, vừa đọc vừa suy nghĩ. Đọc nghiêm chỉnh thì không thể đọc nhanh được.
Sách là để giúp mình suy nghĩ. Nếu đọc nghiêm chỉnh, tác giả viết một, ta có thể có thêm chín điều suy nghĩ của riêng mình, thành ra đọc một hấp thụ mười.
5. Ngoài thông tin sách vở, thế giới là cả một trường học.

Nếu mở mắt quan sát, như ra đường thì quan sát người ta ngoài đường, bạn có thể biết được dân vùng đó hiền hay dữ, tác phong văn minh đến mức nào, kinh tế đang lên hay xuống, đời sống đang dễ thở hay khó…
Các triết gia và thi nhân khám phá thế giới thường chỉ bằng nhìn trời trăng mây nước chim chóc cỏ cây…
6. Cũng như thế giới, tất cả mọi người đều có thể là thầy nếu bạn chú tâm đến từng câu nói của người đối diện mà không đối thoại một cách hời hợt cho có lệ. Ví dụ: Thái độ của bà bán hàng rong với bạn có thể cho bạn nhiều dấu hiệu về nền kinh tế đang thế nào đối với đời sống dân nghèo.
Dạy thế nào
Dạy ở đây là ý nói ta biết một điều gì đó và muốn chỉ lại cho người khác để họ cũng có được kiến thức và kinh nghiệm như ta.
Dạy trong trường, có kỹ luật của trường và thi cử giúp thầy cô, cho nên ta tạm gác môi trường trường học kỹ luật đó qua một bên, và chỉ nói đến truyền tải kiến thức chung chung cho đời. Bạn biết một điều, làm sao để truyền tải nó đến cho đời?

1. Chỉ lại điều mình thực sự biết là làm cho cuộc đời này giàu có sung túc thêm một tí nhờ kiến thức và kinh nghiệm của mình.
Ngược lại, không biết mà chỉ người khác, thì có thể làm cho thế giới tăng rác rến.
Cho nên cần định trước là mình đã biết đến đâu.
2. Cách dạy duy nhất là dạy điều mình biết bằng kinh nghiệm.
Đừng đọc sách xong rồi viết lại điều mình đọc trong sách để “dạy” người khác trong khi mình chưa có kinh nghiệm gì về việc đó cả.
Dĩ nhiên là bạn có thể chuyển tải thông tin bạn thích, như đọc một bài viết hay thì forward hay dịch bài đó để chia sẻ với bạn bè. Nhưng đó không phải là dạy. Dạy là chỉ lại điều bạn đã biết.
3. Biết đến đâu thì nói mình biết đến đó. Chỗ nào chưa biết thì nói là chưa biết.
Ví dụ: Môn này tôi đã tập được năm năm và đã có những kinh nghiệm này. Còn các chuyện ABC này thì thấy sách có nói nhưng tôi chưa được trực nghiệm nên không thể kiểm chứng đúng sai.
Không nên cho học trò nghĩ là mình đã thông hết môn đó 100% nếu mình biết là mình chưa đến mức đó. (Có một vị sư ở Việt Nam, xin tạm không nêu tên, thường xuyên nói với khách khứa đạo hữu là tôi có thể xuất thần đến nơi khác vài ngàn dặm trong vòng một tích tắc. Nam mô a di đà phật. Đạo pháp suy đồi!)
4. Dùng ngôn ngữ diễn tả giản dị nhất.

Nếu nói cho một đám đông, thì nói đến mức trình độ tiểu học cũng có thể hiểu được là hay nhất. Người tiến sĩ đứng đó cũng sẽ hiểu, và sẽ hiểu sâu hơn người tiểu học rất nhiều.
Nếu bạn nói mà người tiến sĩ cũng chẳng hiểu là bạn nói gì thì có thể là bạn cũng chẳng hiểu bạn đang nói gì.
5. Nói là việc của bạn, nghe hay không và nghe được đến đâu là việc của người khác.
Khi chia sẻ kiến thức kinh nghiệm, bạn chỉ có thể nói thôi, bạn không thể làm cho người khác hấp thụ được. Hấp thụ hay không là do trái tim, thái độ, và căn cơ của họ. Có người hấp thụ ít, có người hấp thụ nhiều, có người chẳng thèm nghe một chữ, có người hiểu sai hết ý của bạn vì họ “suy diễn” lời bạn nói theo công thức trong tâm họ…
Nếu người muốn hiểu, hỏi, bạn có thể giải thích thêm, theo trình độ của họ. Nếu người không muốn hiểu, thích cãi nhau với bạn, đừng tranh luận, họ sẽ không hiểu. Nếu người muốn hiểu ngày hôm nay mà không chờ kinh nghiệm, bảo họ chờ kinh nghiệm đến, kiên nhẫn thực tập cho đến khi có được kinh nghiệm…
Mọi chuyện ở đời thường như học võ. Có những chuyển động của thầy rất nhẹ nhàng uyển chuyển và có uy lực kinh hồn, nhưng nhiều học trò thấy rất vô lý vì họ tập theo lời thầy dạy thì thấy lọng cọng, không phù hợp với cơ thể tự nhiên của họ, và hầu như là uy lực không đủ để đập con kiến. Nhưng học trò tập được 3 năm thì bắt đầu thấy tự nhiên, 10 năm thì uy lực kinh khủng mà nhẹ nhàng như vũ điệu, ít người hiểu được.
6. Dạy chính là học
Dạy người khác chính là ôn lại bài của mình. Cho nên thầy luôn luôn dạy và học cùng một lúc.
7. Người thầy thực sự luôn luôn thầm mong học trò sẽ khá hơn mình.
8. Người thầy đã “giác ngộ” sẽ hiểu được thầy của mình sâu đến mức nào.
9. Người thầy thực sự biết rằng thực ra chẳng ai là thầy của ai cả. Mỗi người tự là thầy của mình. Mọi người khác chỉ giúp tí tí ý kiến trên đường đi mà thôi.
Chúc các bạn một ngày vui.
Hoành
© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Tư duy của người trí thức
Chào các bạn,
Mỗi khi nói đến “trí thức” nhiều người chúng ta có khuynh hướng tìm vài định nghĩa trong tự điển hay trong vài quyển sách triết học hay xã hội học nào đó, rồi từ đó suy luận thêm. Chúng ta không cần làm việc tốn thời giờ đó ở đây, vì ai trong chúng ta cũng biết trí thức là gì, cũng như mọi chúng ta đều biết đẹp là gì. Mang tự điển ra để tranh luận về “đẹp” hay “trí thức” thường là việc không cần thiết. Mỗi người chúng ta tự biết mình có phải là người trí thức hay không. Nếu bạn nói rằng bạn là người trí thức, mình tin như thế là đúng. Nếu bạn nói bạn không thích xem bạn là người trí thức, mình cũng tôn trọng ý của bạn.

Chuyện quan trọng của chúng ta hôm nay là bàn luận về vai trò của người trí thức trong xã hội chúng ra đang sống. Người trí thức là gì trong xã hội? Họ cần có thái độ thế nào để làm trọn vai trò đó?
Về vai trò thì rất rõ và rất dễ: Trí thức là chất xám của quốc gia, mỗi người trí thức là một tế bào chất xám của quốc gia. Trong cơ thể quốc gia, trí thức là não bộ.
Đây là một định đề hiển nhiên, chẳng cần phải chứng minh, và cũng chằng cần ai đồng ý, chấp thuận, hay cho phép. Bạn có cho phép hay không, thì cái đầu của bạn, chứ không phải cái tay hay cái chân, làm việc suy nghĩ. Người trí thức làm việc bằng cái đầu nhiều hơn bằng chân tay, cho nên họ là tế bào chất xám, họ là não bộ.
Và khi cái tay của bạn muốn sờ mó gì đó, thì toàn thể não bộ của bạn phải quyết định và chỉ huy hành động đó, không phải chỉ là vài tế bào não bộ kiểm soát các cơ tay. Trước khi quyết định bắt tay ai đó chẳng hạn, bạn có thể phải giải rất nhiều con toán: Ta nên chìa tay ra trước hay hay đợi người kia chìa tay ra trước, ta nên bắt một tay hay hai tay kiểu Á châu, ta nên đứng thẳng lưng hay hơi cúi đầu, ta nên mỉm cười hay trịnh trọng… Nói vậy để chúng ta thấy là các hoạt động của não bộ, dù là có chuyên môn hóa phần nào, nhưng nói chung là rất tổng hợp trong tư duy.
Có nghĩa là, trong cơ thể quốc gia, người trí thức không thế gói mình trong một vai trò chuyên môn rất nhỏ. Chất xám không làm việc như thế.
Nhưng, nền giáo dục thế giới ngày nay chỉ đào tạo chuyên viên với chuyên môn rất nhỏ. Ở Mỹ chẳng hạn, bạn học xong tiến sĩ nha khoa để làm bác sĩ răng. “Răng” là chuyên môn nhỏ lắm rồi; nhưng vẫn chưa. Một lúc nào đó nhức răng đi bác sĩ nha khoa khám, bạn mới khám phá ra là ông nha sĩ của bạn đưa cho bạn thêm 3 tờ giấy đi khám với 3 ông nha sĩ khác: Một ông chuyên về lợi răng, một ông chuyên giải phẩu miệng (để lấy răng hư ra) và một ông chuyên làm răng giả. Nếu nặng hơn chút đỉnh, biết đâu lại lòi ra vài loại chuyên gia răng miệng nữa.
Cho nên đa số trí thức ngày nay, sau khi xong tiến sĩ, thì cũng chỉ là một loại chuyên viên với kiến thức và thái độ của một chuyên viên trong một ngành cực kỳ hạn hẹp, chỉ như là người sửa máy xe, hạng máy xe cao cấp. không hơn không kém.
Tiến sĩ gì thì cũng vậy—kinh tế, luật, toán, computer…
Chính vì vậy mà nhiều tiến sĩ thời nay, bước ra khỏi công việc kiếm cơm hàng ngày của họ, họ chẳng hơn một học sinh đã tốt nghiệp trung học bao nhiêu về các chuyện khác. Lớ nga lớ ngớ. Không chấp nhận được.
Và đây là điều đáng tiếc cho nền giáo dục thế giới, vì PhD có nghĩa là Doctorate of Philosophy, Tiến sĩ Triết. PhD về tâm lý là tiến sĩ triết về tâm lý. PhD về computer là tiến sĩ triết về computer. Tức là, tiến sĩ là cấp triết gia, cấp nhìn rộng rãi, tổng hợp, từ trên đỉnh núi nhìn xuống, và các tiến sĩ của mọi ngành đều gặp nhau tại đỉnh núi như là triết gia. Nhưng đó là lý tưởng khi xưa. PhD ngày nay còn lọ mọ dưới chân núi, chưa lên đến được sườn, nói chi là đỉnh.

Đó là cái đi xuống của giáo dục thế giới ngày nay. Nhưng đó cũng là vấn đề lớn của quốc gia chúng ta. Nếu người trí thức chỉ biết làm công việc kỹ thuật nhỏ xíu của mình, thì họ không quan tâm và không hiểu được những vấn đề của đất nước đòi kiến thức tổng hợp, như là: Các hiện tượng suy thoái văn hóa, các hiện tượng bất quân bình xã hội, các hiên tượng liên hệ đến nhân quyền, các hiện tượng liên hệ đến phát triển dân chủ, các hiện tượng liên hệ đến công pháp quốc tế… Và họ có khuynh hướng phe lờ mọi chuyện và để cho… nhà nước lo (cứ y như nhà nước biết lo hết mọi sự!).
Đó là thái độ rất tai hại cho đất nước, vì nếu các tế bào não không hoạt động thì não bộ bị tê liệt.
(Dĩ nhiên, là một số vị nào đó trong nhà nước có thể thích thái độ ngủ quên của giới trí thức, để họ tự tung tự tác muốn làm gì thì làm, chẳng ai nói gì cả, nhất là trong các lãnh vực họ mới dán lên cái nhãn “chính trị”— Định nghĩa: Chính trị là cái tôi không thích anh rớ vào. Chuyện gì tôi không muốn anh nói đến, nhắc đến, sờ đến thì đó là “chuyện chính trị.” Anh hiểu chưa?)
Người trí thức, trí thức thật sự, chỉ làm đúng vai trò “trí thức” của mình khi mình quan tâm vào MỌI vấn đề của đất nước, cũng như bộ não phải quan tâm đến toàn cơ thể. Quan tâm cách nào là chuyện riêng của bạn, nhưng bạn không có quyền nói “Tôi không quan tâm về vấn đề đó.” Câu này không thể có trong tự điển của người trí thức chân thật.
Chính vì vậy mà, dù là bạn học nghề chuyên môn nào, bạn cũng cần nhiều kiến thức tổng quát về con người và xã hội: Tâm lý học, triết học, đạo đức học, xã hội học, tôn giáo, văn hóa, kinh tế, luật…
Bạn không cần phải đọc nhiều, mỗi môn chỉ cần đọc KỸ quyển “nhập môn” là đủ, vì các quyển nhập môn thường là căn bản cho TOÀN môn đó, viết một cách tóm tắt. Và nếu bạn còn trong trường, chỉ cần ghi danh lấy một cua nhập môn của môn mà bạn muốn biết.
Đó là chuẩn bị kiến thức nhập môn. Vững kiến thức nhập môn thì, nếu muốn, bạn có thể thành chuyên gia, hay ít ra là bán chuyên gia, không mấy hồi. Chỉ cần nghiên cứu thêm nghiêm chỉnh thôi.
Rồi, thái độ “trí thức” phải là thường xuyên quan tâm đến các vấn đề của đất nước.
Nếu bạn thấy không đủ sức viết hay nói cho người khác hiểu, thì ít ra bạn có thể đọc và nghe người khác, và hỏi nếu không hiểu.
Điều quan trọng là đừng nói “Đó không phải là việc của tôi”. Không có việc gì của cơ thể mà lại không phải là việc của các tế nào não bộ.
Quan tâm là đủ. Còn quan tâm rồi làm gì, bạn sẽ tự biết cho chính bạn.
Hãy nhớ rằng não bộ tê liệt khi các tế bào chất xám không hoạt động như tế bào chất xám.
Chúc các bạn một ngày vui.
Mến,
Hoành
© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Suy nghĩ “ra ngoài cái hộp”
Chào các bạn,
Tiếng Anh có thành ngữ “thinking outside the box” hay “thinking out of the box”, tạm dịch là “suy nghĩ ra ngoài cái hộp”, tức là suy nghĩ tự do, suy nghĩ sáng tạo. Đây là cụm từ nghe rất thường xuyên trong quản lý và thương mãi, và các công ty quảng cáo cũng thường tìm trăm phương nghìn cách để dùng cụm từ trong các quảng cáo thương mãi hàng ngày.

Nhưng suy nghĩ trong hộp là gì? Thưa, đó là suy nghĩ chật hẹp, tù túng, ngạt thở như… nằm trong hộp.
Và khi mọi người thúc nhau “suy nghĩ ra ngoài cái hộp”, điều đó có nghĩa là chúng ta thường suy nghĩ trong hộp, cũng như khi ta nghe thấy báo chí và diễn văn hay nói đến “đổi mới tư duy”, điều đó có nghĩa là tư duy ta đang già hơn trái đất.
Vậy thì, điều gì là cái hộp tư duy của ta?
Mỗi cái hộp có 6 mặt, vậy ta thử xét qua 6 mặt đó là gì.
1. Thói quen: Đây là cung cách mỗi người chúng ta suy nghĩ hàng ngày theo thói quen như: dân da đen thì lười, dân Thái thì dốt, dân Lào thì khờ, Á châu thì đạo đức, Mỹ châu thì đồi trụy, dân Tàu thì xấu, dân Thụy Điển thì tốt, anh chàng A thì xạo, cô B thì kiêu, bà C thì tham lam…
Đây là những hàng viết kết thành lập trình cho cái đầu của ta. Ta có thể gọi là thói quen, hay thành kiến, đều như nhau. Đây là đáy hộp, nặng nề nhất, cứng rắn nhất, khó chọc thủng nhất.
2. Phe nhóm:
Đảng phái, nhà thờ, nhà chùa, sở làm… Cứ là đảng viên một đảng phái thì phải nói theo đảng, dù là đảng dốt vì các cấp lãnh đạo dốt. Tương tự như thế, hội viên của các giáo hội, nhà thờ, nhà chùa, hay một cơ quan/công ty… thì cứ nhắm mắt nói theo kiểu của tổ chức của mình mà không cần biết đúng sai.
Gia đình: Sinh ra trong gia đình từ bé, ta quen lề lối suy nghĩ của mọi người trong gia đình.
Bè bạn: Chơi chung với bạn thì lây cách suy nghĩ của bạn, và đôi khi mất luôn cả suy nghĩ độc lập, cứ suy nghĩ và ừ theo các bạn để “hòa đồng.”

3. Tham lam: Tham tiền, tham tiếng, tham chức tước thì cứ gật gật dạ dạ cười cười với những người có thể mang tiền bạc, chức tước, danh vọng cho mình, mà không cần biết đúng sai.
4. Thù hận: Ghét ai đó thì hắn nói trắng đương nhiên là mình nói đen; hắn nói đỏ đương nhiên là mình nói xanh, khỏi cần suy nghĩ mất công.
5. Dốt: Chẳng khi nào biết đúng sai gì cả. Thấy đông người nói gì tôi nói theo cho chắc ăn.
6. Sợ: Đây là nắp hộp. Đây không hẳn là người dốt mà là người thiếu dũng khí. Biết đúng sai nhưng không dám tỏ lộ tư tưởng của mình, mà chỉ nói theo người khác, vì sợ mất công việc, mất sở làm, mất an ninh, sợ bị chụp mũ là phản động, phản đạo, phản quốc…, sợ bị khai trừ, sợ mất bạn, sợ mất đồng minh, sợ bị chống đối truy tố, sợ bị nhạo báng chê cười…
Nếu bạn nhìn kỹ một tí thì nhận ra ngay là sáu mặt hộp này không phải bằng giấy, mà là bê tông cốt sắt, hay là thép ròng… không phải dễ dàng.

Đại đa số người, ít nhất là 90% dân số thế giới, suy nghĩ trong hộp. Số người suy nghĩ ra ngoài hộp luôn luôn là một thiểu số rất nhỏ. Dù họ là ai, có ai biết đến họ hay không,thì họ vẫn đương nhiên nằm trong nhóm rất nhỏ đưa thế giới về phía trước. Phân còn lại của thế giới là chỉ đi theo họ.
Và bạn đừng nghĩ là những người có bằng cấp cao, đi học nhiều là những người suy nghĩ ra ngoài hộp. Chẳng có gì bảo đảm điều này cả. Suy nghĩ sáng tạo hay không là do nơi cái tâm của một người, chẳng liên hệ gì đến bằng cấp cả. Bạn có thấy ai đang làm lớn với rất nhiều bằng cấp, lảm nhảm toàn những chuyện hoàn toàn không nghĩa lý gì cả, hàng ngày?
Tuy là 6 mặt hộp mặt nào cững cứng chắc, bạn không cần phải nằm trong hộp và cố phải đục thủng từng mặt mà ra. Chỉ cần đừng đậy nắp là bạn có thể thong thả ở ngoài hộp thường xuyên.
Ta đã nói nắp hộp là “sợ”, thì đừng đậy nắp là “không sợ.” Nếu bạn có dũng khí, có can đảm, bạn sẽ không ngại nói lên điều bạn nghĩ dù là bạn phải đi một mình (không bạn bè, không thân nhân, không bè đảng, không tổ chức), và những lời nói đó có thể đưa đến khó khăn cho bạn đôi khi.
Không sợ là đương nhiên dám nói, dám suy nghĩ. Đây là điểm khởi đầu. Từ đó tâm thức không bị trói buộc hoàn toàn của bạn sẽ đưa bạn đến những phương trời mới.
Chỉ cần lưu ý thêm, đừng để tham lam, sân hận, và ngu dốt làm cho mình mờ mắt, là bạn có thể suy nghĩ độc lập và tự do.
Chúc các bạn một ngày vui.
Mến,
Hoành
© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Điều kiện cần thiết cho sáng tạo
Chào các bạn,
Nếu chúng ta quan sát đời sống con người, ta có thể nhận ra ngay điều kiện cần thiết cho sáng tạo là “đối chọi” hay “đối phó.” Con người ở trong vùng bị lụt hàng năm chẳng hạn, sẽ phát minh ra nhiều cách để đối phó với lũ lụt, từ đê điều, đến hệ thống kinh rạch thoát nước, đến hệ thống thuyền bè di tản. Người ở vùng sa mạc, thì đương nhiên là sẽ biết cách tìm nước từ trong gốc cây kẻ đá, nơi mà không ai khác có thể biết, hoặc là cách nào chỉ uống một ngụm nước nhỏ mà đi cả chục cây số.

Đối phó với thử thách tạo ra phát minh mới, qui luật này ai cũng biết. Vì vậy, trong quản lý người ta tạo ra các tình huống đối chọi để tìm phát minh hàng ngày. Ví dụ, brainstorming, động não, dùng hầu như hàng ngày để tìm sáng kiến, là hình thức một nhóm người thảo luận vô giới hạn về tư tưởng. Hoặc cạnh tranh thi đua giữa các nhóm sẽ thúc đẩy các nhóm phát minh ra phương cách để chiến thắng. Hoặc devil’s advocate (biện hộ cho chúa quỷ) khi các nhóm viên chia thành hai phe tranh luận nhau để tìm ý mới.
Không có đối chọi, đối phó, thì rất khó để ý tưởng sáng tạo ra đời.
Bởi vì vậy, các nền kinh tế chính trị mạnh nhất thế giới ngày nay đều là các quốc gia rất trân trọng tranh luận trên mọi lãnh vực. Và chính nhờ sự trân trọng tranh luận này mà khối Âu Mỹ trở thành nền văn minh mạnh nhất thế giới ngày nay, vượt qua hẳn những nền văn minh lớn thời cổ đại nhưng không mở rộng thảo luận—như Trung quốc, Ấn Độ, Ai Cập.
Đây cũng là vấn đề đã kéo dài cả bao thế kỷ, và ngày nay vẫn còn tiếp diễn với dân Việt. Chúng ta chú trọng đến gọi dạ bảo vâng, cho nên óc sáng tạo của người Việt nói chung thì rất là khiêm tốn. Và các hệ thống quyền lực chính trị của Việt Nam, từ thời quân chủ cho đến ngày nay, cũng là nạn nhân của truyền thống đó—thích quản lý bằng gọi dạ bảo vâng hơn là tạo điều kiện để nhân dân tranh luận.
Và vì không quen tranh luận, nên mỗi khi tranh luận ta có khuynh hướng đánh nhau hơn là tranh luận.
Và “đánh nhau” lại là lý do để các hệ thống quyền lực hạn chế hay cấm tranh luận.
Nói chung là ta nằm trong vòng lẩn quẩn ngàn năm, không bước ra được, chung qui cũng chỉ vì văn hóa chống tranh luận, gọi dạ bảo vâng.
Đây là việc các nước tiền tiến trên thế giới đều đang làm để khuyến khích tranh luận:

1. Thầy cô khuyến khích các em phát biểu kiến riêng từ hồi mới vào vườn trẻ.
2. Năng lực đóng góp của một em vào thảo luận nhóm luôn luôn là điểm quan tâm số một của các giáo chức, cũng như của cha mẹ. Nếu các em có vấn đề ở trường là bố mẹ được thông báo ngay.
3. Bố mẹ dạy các em nói ra điều mình muốn từ lúc 2, 3 tuổi, chứ không tập các em chỉ vâng dạ điều bố mẹ muốn cho các em (Dĩ nhiên, là bên cạnh đó các em cũng được dạy vâng lời trong một số việc).
4. Trong học đường các em được dạy phân tích và thảo luận mọi vấn đề và tìm kết luận riêng cho mình thay vì chỉ nuốt các phân tích và kết luận có sẵn của thầy cô.
Và hệ thống xã hội thì:
1. Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền hiến định cao cả nhất. Từ đó đưa đến tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình (trật tự) để phát biểu ý kiến với chính phủ…

2. Nhà nước áp dụng luật để bảo đảm sân chơi tự do cho nhân dân được tự do ngôn luận.
3. Nhà nước không rớ vào và xía vào tranh luận của nhân dân. Nhà nước chỉ hành xử luật khi có người phạm luật.
4. Các đại học có quy chế đại học tự trị và tự do nghiên cứu cũng như phát hành ấn phẩm.
Nói chung, toàn hệ thống xã hội, từ gia đình đến trường học đến guồng máy công quyền được tổ chức để khuyến khích và nâng cao khả năng mỗi cá nhân nói lên ý tưởng của mình, và tìm ý tưởng mới qua tranh luận thảo luận tự do.
Xã hội của ta thì ngược lại. Từ gia đình đến học đường đến guồng máy công quyền đặt trọng tâm vào gọi dạ bảo vâng.
Nếu chúng ta không tìm cách thoát ra khỏi vòng kim cô của cách sống thiếu sáng tạo này thì chúng ta sẽ tiếp tục nghèo đói vài ngàn năm nữa. Đây không phải là chuyện nhỏ.
Có ai quan tâm không vậy?
Mà ngay cả khi không quan tâm đến tổ quốc, thì có ai lo cho cái đầu của chính mình và của con cháu trong nhà mình không vậy?
Chúc các bạn một ngày vui.
Mến,
Hoành
© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Văn hóa sáng tạo
Chào các bạn,
Chúng ta thường nói đến sáng tạo như là một kỹ năng: 30 quy luật để sáng tạo, kỹ thuật động não, kỹ thuật đặt câu hỏi, v.v… Dĩ nhiên là sống ở đời chuyện gì cũng có một số kỹ năng và kỹ thuật liên hệ. Nhưng sáng tạo không phải là kỹ năng. Sáng tạo là bản tính của một người, cũng như là lễ độ, chẳng hạn. Lễ độ không phải là các kỹ năng lễ độ, mà là bản tính của một người. Một người lễ độ không phải vì người ấy biết các kỹ năng lễ độ, mà vì người ấy có bản tính lễ độ và sống lễ độ với mọi người.

Sáng tạo cũng vậy. Người sáng tạo là người luôn luôn sáng tạo, đi đâu cũng sáng tạo, làm gì cũng sáng tạo, sáng tạo một ngày 24 tiếng (có thể sáng tạo ngay trong khi ngủ). Sáng tạo là bản tính của anh ta, là máu chảy trong người, lâ từng hơi thở, từng nhịp đập.
Bởi vì vậy, chúng ta không thể nghiên cứu và giải quyết vấn đề thiếu sáng tạo như là một vấn đề kỹ thuật (hay kỹ năng) thuần túy, và ta phải xem đó như là một vấn đề văn hóa của một người—tức là về cách sống, về môi trường sống, về mọi người chung quanh anh ta.
Môi trường sống thường tạo ra con người—môi trường cướp bóc thường tạo ra người cướp bóc, môi trường từ thiện thường tạo ra người từ thiện, môi trường thiếu sáng tạo thường sinh ra người thiếu sáng tạo.
Muốn sáng tạo chúng ta phải thiết lập một môi trường sống sáng tạo.
Có nhiều điều tạo ra môi trường. Nhưng giản dị hóa đến tận cùng thì môi trường sống của chúng ta gồm có chính ta và những người chung quanh ta. Ta và vòng người quanh ta tạo thành môi trường sống của ta.
Hãy tưởng tượng một người đứng giữa vòng muốn làm cái gì đó mới lạ, và đa số hay tất cả những người đứng ở mấy trăm vòng tròn quanh anh ta, biển người quanh anh ta, nói “không”, thì liệu anh ta có sáng tạo được không?
Có thể là một trong triệu người vẫn sáng tạo được, nhưng đại đa số chắc là không.
Nhận xét này đưa đến suy luận sau đây: Nếu chính ta muốn sáng tạo mà mọi người chung quanh ta chống sáng tạo thì rất khó sáng tạo.
Tuy vậy, khi nói đến “khoa học” sáng tạo, chúng ta thường chỉ chú tâm đến người đứng giữa vòng tròn: “Làm thế nào để tôi biết cách suy nghĩ sáng tạo?” Nhưng, nếu tôi biết cách suy nghĩ sáng tạo mà mọi người chung quanh tôi chống sáng tạo, thì có lẽ là tôi cũng bỏ cuộc sớm thôi.

Vì vậy, chúng ta phải đặt vấn đề ngược lại: Làm thế nào để những người chung quanh tôi khuyến khích và ủng hộ tôi sáng tạo?
Đổi góc nhìn: Tôi đứng ở vòng bên ngoài, nhìn vào người đứng giữa vòng, câu hỏi sẽ là “Làm thế nào để tôi khuyến khích anh ta sáng tạo?”
Đây chính là mấu chốt căn bản nhất của vấn đế: Làm thế nào để chúng ta khuyến khích những người khác trong xã hội của ta sáng tạo?
Tập trung của ta không nên nhắm vào “Làm thế nào để tôi sáng tạo?” Câu này mang xuống ưu tiên hai.
Ưu tiên đầu nên là: Làm thế nào để tôi khuyến khích người khác sáng tạo?
Và khi ta hỏi như thế thì ta sẽ được cả hai, vì nếu cả ngày ta khuyến khích ngưởi khác sáng tạo thì đương nhiên ta sẽ trở thành sáng tạo.
Như thế, muốn tạo một môi trường sáng tạo, cho mình và cho tất cả mọi người, mỗi chúng ta phải tích cực khuyến khích người khác sáng tạo luôn luôn trong cuộc sống.
• Bạn bè khuyến khích nhau.
• Anh chị em khuyến khích nhau.
• Bố mẹ khuyến khích con cái.
• Thầy cô khuyến khích học trò.
• Chỉ huy khuyến khích thuộc hạ.
• Nhà nước khuyến khích nhân dân.
Nhưng, khuyến khích sáng tạo cách nào?

• Luôn luôn kêu gọi mọi người có ý tưởng mới, phương cách mới, tư duy mới…
Tập tự động khen cái mới về tính mới của nó (Ô, mới lạ nhỉ!) Đúng hay không, để đó tính sau. Đã là mới thì khó biết đúng sai. Nhưng mới thì ít ra cũng hay về “tính sáng tạo” (creativity).
• Tính sáng tạo (creativity) luôn luôn nên là một phần điểm trong tổng số điểm.
• Thấy ý tưởng mới hay phương cách mới chói tai mình, thì cũng đừng chống đối. Vẫn nên khen, “Đây là một ý tưởng mới. Hay đấy. Cho tôi ít thời gian để suy gẫm thêm.”
• Đừng ép người khác, nhất là người thấp hơn mình, đồng ý với mình luôn luôn. Khuyến khích họ có lập trường của họ. Nếu không đồng ý được thì “ta đồng ý là ta bất đồng ý.”
• Khuyến khích người thấp hơn mình khám phá mọi sự, thay vì cứ nhồi họ vào cái khuôn của mình.
Có bố mẹ nào nói với con, “Nhà mình công giáo (hay phật giáo). Nhưng có nhiều đạo khác ngoài kia, con đã lớn rồi, nên nghiên cứu và khám phá. Rồi mai mốt con có thể tự quyết định nên giữ đạo mình hay theo đạo khác”?
• Điều càng mới, nghe càng điên rồ. Cho nên ta cần ủng hộ và khuyến khích người có ý tưởng “điên rồ”. Thành hay bại là chuyện của họ. Ủng hộ họ là chuyện của mình.
(Sáng tạo để cái mới vào khuôn cái cũ thì cũng như không! “Em sáng tạo cho anh môt cái bánh tráng mới giống y hệt cái bánh tráng truyền thống mình đang ăn”. Em nghiêng người, lấy một cái bánh tráng có sẵn trên bàn: “Đây anh, em đã sáng tạo được cái giống hệt cái bánh truyền thống cho anh đây”).
Nói chung là tâm ta phải yêu sáng tạo, yêu thay đổi, yêu cái mới, đến mức mà đi đâu ta cũng muốn mọi người có cái mới, ý tưởng mới, phương pháp mới thường xuyên.
Dĩ nhiên ta muốn nâng cao giá trị truyền thống, nhưng truyền thống là nền để ta đứng trên đó sáng tạo cái mới. Truyền thống không phải là cái khuôn làm bánh in, 100 năm cũng chỉ ra một kiểu bánh.
Trên ĐCN, chúng ta nói đến những truyền thống rất lâu đời của ta—từ Phật pháp, đến Thánh kinh, đến Lĩnh Nam Chích Quái, ngay cả thơ cổ như Thiền thi và Đường Thi, để làm nền cho chúng ta sáng tạo tư tưởng mới cho đời sống mới, không phải để ta láp nháp toàn những điều xưa cũ như vẹt, mà không suy nghĩ biến hóa gì.
Nếu ta thực tâm yêu sáng tạo mãnh liệt, thì tự nhiên ta biết làm thế nào để khuyến khích tất cả mọi người quanh ta sáng tạo. Cho nên nơi cuối cùng, và cũng là khởi điểm đầu tiên, vẫn là tâm ta. Nếu ta chỉ nghĩ đến sáng tạo như là một kỹ năng công việc, mà chưa yêu nó say mê như yêu phở, yêu bánh cuốn, thì ta có vấn đề rất lớn. Hãy để ý tâm mình, và hãy suy tư về sáng tạo cho đến lúc mình bị tiếng sét ái tình với nó.
Đây là chuyện trăm năm, nghìn năm, của đất nước. Mong các bạn cẩn trọng.
Chúc các bạn một ngày vui.
Mến,
Hoành
© copyright 2010
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Vượt qua nỗi sợ hãi khi nói trước đám đông
Nói chuyện trước đám đông/công chúng (public speaking) là một trong những nỗi sợ hãi của nhiều người. Chúng ta thường cố gắng tránh, nhưng rất khó vì dù là làm việc một mình hay làm với một nhóm người, cuối cùng thì chúng ta cũng phải nói trước đám đông để có thể hoàn thành công việc của mình. Mặt khác, nếu như chúng ta muốn trở thành những nhà lãnh đạo hoặc đạt được những điều ý nghĩa trong cuộc sống, chúng ta sẽ cần thường xuyên nói trước một nhóm, dù lớn dù nhỏ, để có thể thành công.
Tuy vậy, bản chất của nói chuyện trước công chúng là bạn không cần thiết phải cảm thấy căng thẳng. Nếu bạn hiểu đúng những nguyên nhân ẩn dấu của sự căng thẳng khi nói chuyện trước công chúng là gì, và nếu bạn ghi nhớ một vài nguyên tắc cốt lõi, việc nói trước đám đông sẽ nhanh chóng trở thành một kinh nghiệm rất tuyệt vời của bạn.
Nguyên tắc 1: Nói chuyện trước công chúng bản thân nó không hề gây căng thẳng
Phần lớn trong chúng ta tin rằng cuộc sống bản chất của nó là dễ gây căng thẳng và phần lớn chúng ta được dạy để tin rằng cuộc sống nói chung là như vậy. Để có thể giải quyết với căng thẳng một cách hiệu quả, điều đầu tiên là bạn cần hiểu được bản chất của cuộc sống, trong đó có cả kĩ năng nói chuyện trước công chúng, là không gây ra căng thẳng.
Bạn có thể thấy nhiều người tự tin khi đứng phát biểu trước đám đông. Nếu họ làm được, thì bạn cũng có thể như vậy. Điều cơ bạn bạn chỉ cần tiếp cận đúng bản chất vấn đề và điều đó hoàn hoàn không hề khó.
Nguyên tắc 2: Bạn không cần thiết phải là người xuất sắc hay hoàn hảo để có thể thành công được
Nhiều người trong chúng ta đã quan sát các diễn giả và nghĩ rằng “Ôi, tôi sẽ chẳng thể nào thông minh, điềm tĩnh, sắc sảo, vui vẻ, bóng bẩy….hay bất cứ cái gì”. Nhưng tôi muốn nói với bạn rằng bạn không cần thiết phải như thế. Bạn có thể chỉ có năng lực trung bình, hoặc thấp hơn cả trung bình. Bạn có thể sai, nói ngọng cả lưỡi, hay quên toàn bộ bài nói của mình. Bạn thậm chí không hài hước mà vẫn thành công.
Tất cả tùy thuộc vào cách bạn và khán giả của bạn định nghĩa thế nào là “thành công”. Tin tôi đi, các khán giả của bạn không kì vọng sự hoàn hảo. Tôi đã từng nghĩ phần lớn khán giả ai cũng nghĩ thế, nhưng điều đó là sai. Tôi làm việc nhiều ngày để chuẩn bị cho bài nói, tôi thức khuya lo lắng rằng mình sẽ bị nhầm lẫn cái gì đó. Rồi dành hàng giờ để tuốt đi tuốt lại bài nói. Nhưng thực tế là gì, khi bạn càng cố trở nên hoàn hảo thì bạn càng làm tồi đi.
Điều căn bản của nói chuyện trước công chúng đó là: đem đến cho khán giả của bạn một cái gì đó có giá trị. Nếu khán giả đi về với một điều gì đó mà họ cho là có giá trị, thì họ sẽ xem bạn là một thành công. Nếu họ ra về với một cảm xúc tốt hơn về bản thân, về điều gì đó họ phải làm, họ sẽ xem bạn là một thành công. Nếu họ ra về mà cảm thấy vui và thoải mái, họ sẽ xem thời gian họ lắng nghe bạn là đáng giá.
Thậm chí bạn có ngất xỉu, ngọng lưỡi, hay nói cái gì đó ngu ngốc…họ sẽ không quan tâm. Miễn sao họ nhận được điều gì đó giá trị, họ sẽ cảm ơn bạn.
Nguyên tắc 3: Tất cả những điều bạn cần là hai hoặc ba ý chính
Bạn không cần thiết phải đưa ra một núi thông tin để đem đến cho khán giả của mình cái họ thực sự cần. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng con người nhớ rất ít các dữ kiện hoặc thông tin mà diễn giả truyền đạt. Khi bạn chọn các dữ liệu và thông tin, bạn chỉ cần đưa ra hai đến ba ý chính để có được bài phát biểu thành công. Thậm chí bạn có thể chỉ cần một ý chính trong bài nói của mình nếu bạn muốn.
Hãy nhớ là điều mà khán giả của bạn mong muốn đó là đi về với một hoặc hai điểm chính mà tạo nên sự khác biệt đối với họ. Nếu bạn kết cấu bài nói của mình nhằm truyền tải kết quả này, bạn sẽ tránh được rất nhiều những phức tạp không cần thiết. Điều này cũng khiến cho công việc trở thành người diễn thuyết của bạn dễ dàng và vui hơn.
Nguyên tắc 4: Bạn cũng cần một mục đích phù hợp
Nguyên tắc này rất quan trọng nên hãy lắng nghe. Một sai lầm lớn mà mọi người mắc phải khi họ nói trước công chúng đó là họ có những mục tiêu sai trong đầu. Thông thường, họ không có một mục tiêu gì cụ thể, nhưng nếu có thì mục tiêu trong đầu họ lại vô thức gây ra toàn bộ những căng thẳng không cần thiết.
Đây là một ví dụ chính mà tôi gọi là một “nguyên nhân tiềm ẩn” của sự căng thẳng khi diễn thuyết trước công chúng. Lần đầu tiên khi tôi bắt đầu nói trước đám đông, tôi nghĩ rằng mục đích của tôi là có được sự công nhận của tất cả mọi người về mình. Tôi đã không biết đến một cách có ý thức về mục đích này, và cũng không biết nó ngu ngốc đến thế nào.
Chính vì mục đích tiềm ẩn này, tôi đã nghĩ là tôi cần phải cực kỳ hoàn hảo và sáng chói để có được sự công nhận của khán giả. Nếu chỉ một người trong đám khán giả kia không công nhận, tôi sẽ buồn lắm. Nếu có một người rời khỏi khán phòng sớm, nếu ai đó ngủ gật, nếu ai đó chẳng quan tâm đến những gì tôi đang nói…tôi đã bị đánh bại!
Sau đó, tôi trở nên hiểu được mục đích gây ra stress này, tôi đã có thể nhìn vào nó một cách trung thực và nhận ra nó ngu ngốc đến thế nào. Có bao nhiêu diễn giả có được 100% sự công nhận từ khán giả của họ? Câu trả lời là số 0.
Chắc chắn là trong một nhóm lớn,, sẽ luôn có những quan điểm, đánh giá và phản ứng khác nhau. Có người tích cực, có người tiêu cực. Hãy nhớ là, điều quan trọng của nói chuyện trước công chúng là đem đến cho khán giả của bạn cái gì đó có giá trị. Cho chứ không phải Nhận. Mục đích của nói chuyện trước đám đông không phải là để nhận điều gì đó (sự công nhận, danh tiếng, tôn trọng, doanh số, khách hàng vv…) từ khán giả mà đó là đem đến điều gì đó hữu ích cho khán giả.
Tất nhiên nếu bạn làm tốt thì bạn sẽ có sự nổi tiếng, tôn trọng, doanh số và khách hàng mới. Nhưng đừng để đó là mục đích của bạn. Thể hiện mình, cho mình đi thì hầu như chẳng bao giờ gây stress và lo lắng. Khi tôi nói chuyện trước một nhóm người, tôi tưởng tượng mình đang đưa cho họ 1,000$. Tôi cố gắng đem đến cho họ ít nhất là bằng giá trị đó. Nếu một vài cá nhân trong nhóm “từ chối” món quà này, tôi cũng chẳng lấy đó làm ngạc nhiên.
Nguyên tắc 5: Cách tốt nhất để thành công là không coi mình là diễn giả
Nhiều người trong số chúng ta đã làm méo mó và nói quá về những gì các nhà diễn giả trước công chúng làm. Họ thường giả định rằng để thành công thì chúng ta phải cố gắng rất nhiều để đưa ra những tố chất tuyệt vời nào đó mà chúng ta thiếu. Vì thế mà chúng ta lại học bằng cách bắt chước những diễn giả nổi tiếng. Trong khi sự thật là phần lớn những diễn giả nổi tiếng thành công là nhờ làm ngược lại. Họ không cố gắng trở thành một ai đó khác. Họ chỉ cố gắng thể hiện chính mình trước đám đông.
Khi bạn đã trở nên giỏi trong việc thể hiện mình trước những người khác, bạn thậm chí có thể đứng trước một nhóm người mà không có ý tưởng cụ thể bạn sẽ nêu ra 2, 3 điểm như thế nào. Trong nhiều trường hợp, tôi nói những điều mà trước đây chưa từng nói bao giờ. Chúng cứ tự nhiên xuất hiện một cách bất ngờ khi tôi hòa mình với khán giả. Và bạn biết không? Mọi người thường đến gặp tôi sau đó và nói “Bạn thật tuyệt, tôi ước giá như tôi có can đảm để nói trước đám đông như bạn”. Đó thực sự là một cách nghĩ sai. Đừng cố gắng đưa ra những bài nói theo cách mà tôi làm, hoặc cách mà ai đó làm. Hãy đi tới đó với một chút kiến thức và vài ý chính, và hãy là chính bạn.
Nguyên tắc 6: Sự khiêm tốn và hài hước có thể giúp bạn tiến xa
Khi bạn đã có được phong cách nói chuyện của riêng mình thì có một số kĩ thuật có thể giúp bài nói của bạn hay hơn, đó là sự khiêm tốn và hài hước.
Hài hước giúp bạn thấy thoải mái, và nếu như nó phù hợp với hoàn cảnh của bạn lúc nói, đừng chần chừ gì nữa.
Với sự khiêm tốn, bạn không nên ngần ngại nói ra những điểm yếu của mình, những sai lầm. Chúng ta ai cũng có điểm yếu, và khi bạn đứng trước mọi người và không lo sợ phải thừa nhận những điểm yếu của bạn, bạn tạo ra một không khí an toàn, tình cảm nơi mà mọi người có thể thừa những những yếu điểm của họ.
Khiêm tốn giúp bạn trở nên đáng tin hơn, và được tôn trọng hơn. Cả khiêm tốn lẫn hài hước có thể đi cùng nhau rất hiệu quả. Ví dụ nếu bạn thấy lo lắng khi đứng trước một đám đông, hoặc nếu như bạn thấy lo lắng giữa bài nói, bạn đừng che giấu điều này với khán giả của mình. Hãy thật và khiêm tốn bằng cách thừa nhận nỗi sợ hãi của bạn một cách công khai và trung thực.
Nguyên tắc 7: Khi bạn nói chuyện trước công chúng, không có gì tồi tệ có thể xảy ra
Một điều gây ra nỗi sợ hãi khi nói chuyện trước công chúng là mọi người thường lo lắng điều gì đó khủng khiếp sẽ xảy ra với họ như là trạng thái hồi hộp, quên một điểm nào đó, bị khán giả ghét vv…Tất nhiên, những điều này sẽ là đáng xấu hổ nếu chúng xảy ra. Nhưng trong thực tế phần lớn chúng không xảy ra.
Thậm chí nếu chúng xảy ra thì cần có một chiến lược để biến chúng trở nên hoàn hảo.
Tôi phát hiện ra rằng phần lớn những thứ “tiêu cực” khi tôi nói có thể kiểm soát được bằng cách giữ chúng trở thành nhưng nguyên tắc thật đơn giản, nhưng hiệu quả: mọi thứ xảy ra có thể được sử dụng là điểm lợi thế của tôi.
Ví dụ khi tôi đang nói thì một số người bỏ về. Tôi có thể hỏi họ lí do vì sao họ lại đi? Có điều gì trong cách tôi truyền đạt, hay nội dung khiến họ thấy bị xúc phạm chăng? Nếu như họ thậm chí không đưa ra câu trả lời, tôi cũng có cách để tận dụng điều này. Ví dụ, tôi có thể dùng nó như là lời mở đầu cho bài giới thiệu tiếp theo “Các bạn biết đấy, tôi đã nói về bài này ngày hôm trước và mọi người trong phòng đi ra trong vòng 10 phút đầu. Đó là thành tích hiện tại của tôi, cho nên tôi nghĩ là chúng ta cần phải xem điều gì sẽ xảy ra ngày hôm nay”.
Nguyên tắc 8: Bạn không phải kiểm soát thái độ của khán giả
Mà ngược lại, điều bạn cần kiểm soát đó là suy nghĩ của bạn, sự chuẩn bị, các thiết bị hỗ trợ nghe nhìn, căn phòng được bài trí thế nào. Hãy đừng để ý nếu như khán giả của bạn có ngồi đọc báo và tỏ ra không chú ý đến bài nói của bạn. Suy nghĩ cần phải thay đổi hoặc kiểm soát những người khác là nguyên nhân tiềm ẩn của stress trong mọi mặt của cuộc sống. Nó không chỉ đúng trong một nhóm mà còn đúng cho bạn bè, vợ chồng, con cái và những người quen của bạn.
Nguyên tắc 9: Nói chung, bạn càng chuẩn bị nhiều thì bạn làm càng tệ
Chuẩn bị kĩ là rất tốt khi xuất hiện trước đám đông. Tuy vậy, bạn chuẩn bị thế nào và dành bao nhiêu thời gian cho nó là chuyện hoàn toàn khác. Điều quan trọng là nếu bạn hiểu rõ vấn đề mình định nói hoặc đã nói nhiều lần trước đó rồi, thì bạn chỉ cần vài phút để chuẩn bị thôi. Việc chuẩn bị quá kĩ lưỡng thường có nghĩa là bạn không hiểu rõ vấn đề hoặc nếu bạn hiểu rõ vấn đề, nhưng bạn lại không cảm thấy tự tin về khả năng nói ra trước đám đông. Đối với trường hợp đầu, bạn cần phải nghiên cứu thêm. Đối với trường hợp thứ hai, bạn cần phát triển niềm tin vào khả năng nói thành công của bản thân. Bạn có thể rèn luyện bằng cách tận dụng mọi cơ hội để nói trước một nhóm người nào đó.
Nguyên tắc 10: Khán giả của bạn thực sự muốn bạn thành công
Thực tế là nhiều người cũng có nỗi sợ hãi nói trước công chúng nên họ rất hiểu hoàn cảnh của bạn. Họ sẽ sẵn sàng tha thứ cho bạn nếu như bạn có mắc lỗi. Và họ ngưỡng mộ sự dũng cảm của bạn, họ sẽ luôn ủng hộ bạn dù có điều gì xảy ra đi nữa. Đôi khi một lỗi xảy ra bạn nghĩ rằng nó lớn nhưng khán giả không đánh giá như vậy. Vì thế hãy luôn nhắc nhở mình điều này khi bạn nghĩ là bạn đã làm rất tệ.
~ Hoàng Khánh Hòa, lược dịch
Theo How To Conquer Public Speaking Fear, Morton C. Orman