
Theo truyện Báo Cực thì thần vốn là thần trời đất của nước Nam. Khi xưa khi vua Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm thành trở về đến cửa biển bỗng gặp mưa to, gió lớn, sóng trào cuồn cuộn dâng cao như núi, thuyền ngự, thuyền trận đều không đi được, phải đậu ở bên bờ. Đêm ấy, vua nằm mơ thấy một người con gái trang phục thanh đạm, quần hồng, điểm tô thanh lịch, bước lên thuyền ngự tâu rằng: “Thiếp là tinh của đất đai nước Nam, được thác vào khúc gỗ đã lâu rồi. Nay, gặp vua đi đánh giặc, xin theo quân vua để lập chiến công”. Nói xong thì đi mất. Vua tỉnh giấc, kể chuyện này với tả hữu và các bô lão.
All posts by Nguyễn Hữu Vinh
Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện thần núi Minh Chủ Đồng Cổ

Xưa, Vua Lý Thái Tông đi đánh Chiêm thành, đến đóng quân ở Trường Yên, canh ba đêm đó nằm mơ thấy một dị nhân, mặc nhung phục nói với Vua Thái Tông rằng: “Thần là thần núi Đồng Cổ, nghe Vua đi đánh phương Nam xin theo Vua để lập chiến công”. Vua trong giấc mơ cho phép thần đi theo. Dẹp xong Chiêm thành,Vua khải hoàn về kinh đô, rồi ra lệnh cho quần thần dựng đền thờ ở chùa Từ Ân.bên trái bờ sông ở Kinh sư. Khi Thái Tổ băng hà, Thái Tông theo di chiếu lên ngôi. Đêm ấy, ngài mơ thấy thần đến nói với mình rằng: “Ba người em là Dực Thánh Vương, Đông Chinh Vương và Vũ Đức Vương âm mưu làm phản”. Sáng sớm hôm sau, ba Vương đã phục binh ở trong Long thành, tiến công đến các cửa thành. Thái Tông sai Lê Phụng Hiểu đem quân chống giữ (1).
Continue reading Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện thần núi Minh Chủ Đồng Cổ
Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện thần Vương khí Long Độ

Thần chính là thần Vương khí Long Độ (1). Xưa, khi Cao Biền đến chiếm nước Nam, vừa xây xong thành Đại La. Một hôm, Biền ra chơi cửa Đông, bỗng thấy mây mù vần vũ, mây ngũ sắc đùn lên rực rỡ sáng lòa. Giữa đám mây có một người mặc áo màu, trang sức lạ lùng, cưỡi con rồng đỏ, tay cầm thẻ vàng, bay lượn trong mây một lúc lâu rồi biến mất. Biền kinh ngạc cho là linh quỉ, định dựng đàn để yểm đảo. Đêm ấy, Biền mơ thấy thần đến bảo rằng: “Ngươi chớ nghi ngờ, ta không phải là yêu khí, mà là thần Vương khí Long Độ đây. Nhà ngươi mới xây xong thành nên ta đến xem đấy thôi”.
Continue reading Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện thần Vương khí Long Độ
Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện ba vị Phu nhân ở cửa Kiền
Theo sách Bản truyện, thì phu nhân họ Triệu, là công chúa của nước Nam Tống (1). Nhà có ba mẹ con, phu nhân là người con gái út. Năm Thiệu Bảo (2) thứ nhất đời vua Trần Nhân Tông, vua Đoan Tông nhà Nam Tống phiêu dạt ở vùng biển, sinh bệnh mà chết. Thừa tướng là Văn Thiên Tường (3) cùng Lục Tú Phu và tướng quân Trương Thế Kiệt lập em vua Đoan Tông là Bính lên ngôi. Sau đó không bao lâu, Thiên Tường thua trận, bị bắt đưa lên phương Bắc. Tướng Trương Thế Kiệt dùng thuyền đưa vua tới Nhai Sơn bị tướng nhà Nguyên là Trương Hoằng Phạm (4) đón đánh.Quân Tống thua to. Lục Tú Phu ôm vua nhảy xuống biển. Thế Kiệt cũng bị chết đuối.
Continue reading Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện ba vị Phu nhân ở cửa Kiền
Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Sóc Thiên Vương

Continue reading Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Sóc Thiên Vương
Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Sĩ Nhiếp

Lĩnh Nam Chích Quái – Giới thiệu phần “Tục Biên”
Chào các bạn,
Chúng ta đã xong phần chính của Lĩnh Nam Chích Quái, gồm 22 truyện đầu, từ truyện Hồng Bàng đến truyện Dạ Xoa. Các truyện này nằm trong 2 quyển đầu tiên trong bộ Lĩnh Nam Chích Quái, được Trần Thế Pháp sưu tầm và biên soạn vào khoảng cuối thế kỷ XIV, sau được Vũ Quỳnh và Kiều Phú ở cuối thế kỷ XV hiệu chính.
Đến thời Mạc, Đoàn Vĩnh Phúc trích từ “Việt Điện U Linh” chép thêm nhiều truyện mới trong quyển 3, gọi là “tục biên”.
Continue reading Lĩnh Nam Chích Quái – Giới thiệu phần “Tục Biên”
Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Dạ Xoa

Thời thượng cổ, ở ngoài nước Nam Việt Âu Lạc có nước Diệu Nghiêm, vua nước ấy hiệu là Dạ Xoa (còn có tên là Trường Minh Vương và Thập đầu Vương). Phía bắc nước ấy giáp nước Hồ Tôn Tinh, thái tử nước Hồ Tôn Tinh tên là Vi Tư (1), có người vợ tên là Bạch Tịnh, nhan sắc tuyệt trần, trên đời ít ai có được. Vua Dạ Xoa nghe tin rất thích, bèn đem quân vây đánh nước Hồ Tôn Tinh, cướp được nàng Bạch Tịnh đem về nước. Vi Tư cả giận , liền đem quân khỉ (di hầu) phá núi lấp biển thành ra đất bằng, đánh phá nước Diệu Nghiêm, giết vua Dạ Xoa, rồi đem nàng Bạch Tịnh về nước (Hồ Tôn Tinh là loài khỉ (di hầu) tinh, nay là nước Chiêm Thành).
Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Hà Ô Lôi
Trong khoảng năm Thiệu Phong (1) đời Trần Dụ Tông có người làng Ma La là Đặng Sĩ Doanh làm chức An Phủ Sứ vâng mệnh sang sứ Bắc quốc. Vợ là Vũ thị ở nhà. Trong làng có đền thờ thần Ma La, đêm đêm thần biến thành Sĩ Doanh, mặt mũi dáng điệu đi đứng đều y hệt như Sĩ Doanh, nhập vào phòng Vũ thị để thông dâm, đến lúc gà gáy sáng lại bỏ đi. Đêm hôm sau Vũ thị hỏi: “Phu quân phụng mệnh sang sứ phương Bắc, sao đêm đêm thì về mà ngày lại không thấy?. Thần nói dối rằng: “Vua đã sai người khác đi thay, để ta hầu bên tả hữu, thường giữ ta đánh cờ vây (2), không cho ra ngoài. Song ta nhớ tình vợ chồng nên lén về với nàng để cùng ân ái. Sáng sớm lại phải vội vã vào hầu, không dám ở lâu”. Gà gáy lại bỏ đi, Vũ thị có ý ngờ vực.
Continue reading Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Hà Ô Lôi
Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Sông Tô Lịch

Năm Hàm Thông thứ 6 (1), vua Đường Ý Tông sai Cao Biền (2) làm Đô Hộ, đem binh đánh giặc Nam Chiếu, rồi cho đặt Tĩnh Hải Quân (3) ở thành An Nam, sai Biền làm Tiết Độ Sứ. Biền thông hiểu thiên văn địa lý, xem hình thế đất đai mà xây thành La (La thành) ở phía tây sông Lô (Lô Giang), chu vi 3000 bộ để ở. Có nhánh sông con từ sông Lô chảy vào phía Tây Bắc, cuốn quanh phía nam, bọc lấy thành La rồi lại nhập vào sông lớn.
Continue reading Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Sông Tô Lịch
Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Nam Chiếu
Người Nam Chiếu chính là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà.
Thời Hán Vũ Đế, Thừa tướng của Triệu Đà là Lữ Gia không thần phục nhà Hán, giết sứ Hán là bọn An Quốc và Thiếu Quý. Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức và Dương Phác đem quân chinh phạt, bắt được Vệ Dương Vương Kiến Đức và Lữ Gia, thôn tính cả nước (1), phân đất đặt quan cai trị.

Họ Triệu mất nước, con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau hội họp nhau ở Thần Phù, Hoành Sơn là những xứ vắng vẻ không có người. Họ bèn đóng tàu thuyền, đột nhập vào nội địa cướp người ven biển, giết các quan lệnh của nhà Hán, xưng là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu
Continue reading Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Nam Chiếu
Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không
Thiền sư Đạo Hạnh, họ Từ tên Lộ, ở chùa Thiên Phúc trên núi Phật Tích. Cha tên là Vinh, làm chức Tăng Quan Đô Sát ở triều Lý, thường qua chơi làng An Lãng, lấy con gái người họ Tăng tên là Loan nên sống luôn ở đó. Lộ tức là con bà họ Tăng vậy. 
Continue reading Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không
Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt
Vào năm Tân Tỵ, đời vua Lê Đại Hành, Thiên Phúc nguyên niên (1), Tống Thái Tổ sai hai tướng binh là bọn Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng (2) đem quân sang xâm lược phương Nam, đến sông Đại Than. Lê Đại Hành và tướng quân Phạm Cự Lượng kéo quân tới sông Đồ Lỗ cự địch, hai bên đối đầu cầm cự.
Đại Hành đêm đến mộng thấy hai thần nhân ở trên sông, đến vái mà nói rằng:
“Anh em thần, tên là Trương Hống và Trương Hát, xưa kia theo Triệu Việt Vương (3) cầm quân chinh phạt nghịch tặc mà lấy được thiên hạ. Sau, Lý Nam Đế (4) soán ngôi, nghe biết và triệu hai anh em thần về theo. Bọn thần vì nghĩa cũ không thể theo được, uống thuốc độc mà chết. Thượng đế thương anh em thần có công lại trung nghĩa một lòng, mới phong làm quan tướng trong hàng các thần linh, thống lĩnh âm binh. Nay thấy, quân Tống sang xâm chiếm, khổ hại sinh linh nước ta, cho nên hai anh em thần đến xin yết kiến, nguyện với nhà vua cùng đánh giặc này để cứu sinh linh”.
Continue reading Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt
Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Núi Tản Viên
Núi Tản Viên ở phía tây kinh thành nước Nam Việt (1). Núi cao ngất, tròn như cái tán cho nên có tên ấy (2).
Xưa, Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, sinh ra 1 bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con trai. Long Quân đem 50 người xuống biển, còn lại 50 người con trai theo mẹ Âu Cơ chia trị các xứ, hiệu là Hùng Vương. Thần núi Tản Viên là một trong 50 người con trai theo cha xuống biển.
Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Man Nương
Thời Hiến Đế nhà Hán, quan thái thú là Sĩ Nhiếp đóng đô thành ở bờ phía nam sông Bình Giang (nay là sông Thiên Đức). Phía Nam thành đó có chùa thờ Phật là chùa Phúc Nghiêm, có vị sư từ phương Tây tới, hiệu là Già La Đồ Lê trụ trì ở đấy, có phép đứng một chân, mọi người đều kính phục gọi là tôn sư, kéo nhau tới học đạo.

Hồi ấy có người con gái tên là Man Nương, cha mẹ đều đã mất, nghèo khổ vô cùng, cũng tới đó dốc lòng theo học Phật. Vì có tật nói lắp, không thể cùng chúng tụng kinh, thường ở dưới bếp, vo gạo, nhặt rau, nấu nướng cho các vị tăng trong chùa và khách tứ phương.
Giữa tháng năm, đêm ngắn, Man Nương nấu cháo đã chín mà tăng chúng tụng kinh chưa xong, chưa tới ăn cháo được. Man Nương ngồi đợi bên cửa bếp, không ngờ ngủ quên đi mất. Tăng chúng tụng kinh xong đều về phòng riêng. Man Nương ngủ ở giữa cửa bếp, sư Già Lê bước qua mình Man Nương. Man Nương tự nhiên động thai. Có thai được ba bốn tháng, Man Nương xấu hổ bỏ về. Sư Già Lê cũng thẹn mà bỏ đi. Man Nương về tới một ngôi chùa ở ngã ba sông thì ở lại đó. Đầy tháng sinh ra một đứa con gái, tìm sư Già Lê mà trả. Đêm đến, bế đứa bé gái ấy tới gốc cây bên ngã ba đường nói: “Ta gửi con Phật, mi giữ lấy sẽ thành Phật đạo”. Sư Già Lê và Man Nương từ giã nhau ra về, Già Lê cho Man Nương một cây trượng và bảo: “Ta cho nàng vật này. Nàng về nhà, nếu gặp năm hạn hán thì lấy trượng cắm xuống đất, lấy nước cứu sinh dân”. Man Nương cung kính bái lĩnh, về ở trong chùa. Gặp năm đại hạn, nàng lấy trượng cắm xuống đất, tự nhiên nước cuồn cuộn chảy ra, dân được vì thế được nhờ.
Khi Man Nương ngoài tám mươi tuổi, gặp lúc cây ấy bị đổ, trôi dạt đến bến sông trước cửa chùa, quanh quẩn ở đấy mà không trôi đi. Dân thấy thế, định bổ làm củi nhưng rìu nào cũng đều bị gãy, bèn cho hơn ba trăm người trong làng ra kéo cây gỗ lên mà không chuyển. Gặp lúc Man Nương xuống bến rửa tay, thử kéo chơi thì cây chuyển động. Mọi người đều kinh ngạc, bảo nhờ Man Nương kéo lên bờ, sai thợ tạc bốn pho tượng Phật. Khi xẻ cây gỗ đến chỗ đặt đứa bé gái thì thấy đã hóa thành một tảng đá rất cứng rắn, rìu đều bị mẻ cả. Họ liền vất tảng đá xuống vực sông, một tia sáng chói lên, hồi lâu đá mới chìm xuống nước. Bọn thợ đều chết cả. Dân bèn mời Man Nương đến bái lễ, nhờ dân chài lặn xuống nước vớt lên, rước vào trong chùa, thếp vàng cúng bái. Sư Già Lê đặt hiệu cho bốn tượng Phật là: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện (1). Thiện nam tín nữ ở khắp nơi đều thường tụ họp về chùa vui chơi ca múa, người đời gọi là hội Tắm Phật, ngày nay vẫn còn.
Chú thích:
1) Bản VHV 1473 chép thêm rằng: “Gọi Man Nương là Phật mẫu. Ngày mồng 8 tháng 4, Man Nương không bệnh mà chết, chôn ở trong chùa. Người đời lấy ngày này làm ngày lễ Phật đản.
(Nguyễn Hữu Vinh dịch)
.
Bình:

• Truyện này nói về việc phối hợp giữa văn hóa Việt thời cổ đại và văn hóa Phật giáo.
Văn hóa Phật giáo biểu tượng bằng sư Già La Đồ Lê với cái tên rất ngoại quốc (Có bản nói là sư Khâu Đà La. Dù là tên gì thì cũng nghe rất ngoại quốc). Già La Đồ Lê có phép đứng một chân: Đây là ý nói về nhất nguyên luận của Phật giáo–tất cả mọi sự đều là Một, và Một đó là Không. (Nhất thiết pháp giai Không–tất cả mọi thứ đều là Không).
Văn hóa Việt biểu tượng bằng Man Nương. Man là man di, man dã, tức là ngu si dốt nát. Nương là nàng.
Già La Đồ Lê bước ngang Man Nương là biểu tượng của sự phối hợp giữa hai nền văn hóa, 5 người con là kết quả của phối hợp văn hóa này.
• Việc dùng man nương làm biểu tượng văn hóa Việt có thể hiểu ở nhiều cấp độ và góc cạnh khác nhau:
1. Đây là chú tâm về văn hóa mẫu hệ, văn hóa mẹ, lấy mẹ làm chính. Bố chỉ là vai phụ trong truyện. Có 5 con thì 4 con là nữ, và một tảng đá. Chẳng có nam.
2. Nói rằng phụ nữ ngu dốt (Man Nương) có thể thành Phật là một cách mạng văn hóa về bình đẳng nam nữ trong Phật giáo. Trong truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy (Tiểu Thừa) ở Ấn Độ phụ nữ không được đi tu, và không thể thành Phật.
3. Man nương ngu dốt còn là biểu tượng của vô minh (si mê), gặp Phật pháp từ Già La Đồ Lê, mà giác ngộ thành Phật.
• Man nương và Già La Đồ Lê phối hợp tạo nên một người con đầu tiên là con gái. Đây là một nhấn mạnh về truyền thống văn hóa mẫu hệ cổ truyền.
• Đứa con gái này được Man Nương giao lại cho Già La Đồ Lê là biểu tượng cho sự nuôi dưỡng khôn lớn trong tinh thần Phật giáo.
• Mang con bỏ vào trong hốc cây và được cây nuôi dưỡng gợi lại hình ảnh Phật Thích Ca thiền định dưới cội Bồ Đề và giác ngộ.
Cây lại đứng ngay ngã ba, nơi ba đường chụm lại. Đây xem ra là biểu tượng của tam thừa chỉ là một. Trong phẩm Thí Dụ của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật có nói Phật dạy 3 thừa—thanh văn thừa, duyên giác thừa, Bồ tát thừa—thật ra cũng chỉ là một Phật thừa. Ba con đường cũng đều là đường đưa đến giác ngộ.
• Tuy nhiên, cây cổ thụ ở đây còn có thể là tàn tính của tín ngưỡng đa thần xưa cũ. Vào thời cổ xưa phần đông các bộ tộc của loài người đều theo đa thần, trong đó cây cối, mưa, gió, núi, sông… đều là thần, hoặc đều có thần ngự trị. Man Nương nói với cây cổ thụ “Ta gửi con Phật, mi giữ lấy sẽ thành Phật đạo”, tức là cư xử với cây này như một vị thần cây.
• Cây còn là biểu tượng của tổ quốc. Đất, đá, nước, cây đều là biểu tượng của non sông gấm vóc. Con của Man Nương được nuôi dưỡng trong Phật pháp và tinh khí núi sông.
• Cây gãy, trôi theo dòng nước đến cửa chùa. Đây là văn hóa nước, văn hóa quê hương tổ quốc—nước của nguồn gốc dân tộc, Động Đình Hồ. Nước là tổ quốc. Chúng ta đã nói đến việc quan trọng của văn hóa nước trong Truyện Hồng Bàng và Truyện Tiên Dung và Chử Đồng Tử.

• Từ cây này tạo thành năm Phật: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện và Thạch Quang Phật (Phật Đá Sáng, hiện nay vẫn còn được tôn thờ trong Chùa Pháp Vân ở Bắc Ninh).
Đây khá rõ là việc biến các thần cũ của thời đa thần thành Phật của nền văn hóa mới. Pháp là Phật pháp, vân là mây, vũ là mưa, lôi là sấm, điện là chớp, thạch là đá. Các thần mây, thần mưa, thần sấm, thần điện, thần đá (hay thần núi) của thời sơ khai nay được tôn thành Phật trong nền văn hóa mới.
• Ngoại trừ đá Thạch Quang Phật không rõ giới tính, bốn Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện đều là phụ nữ, không có Phật nam. Một lần nữa nhấn rất mạnh văn hóa mẫu hệ xưa cũ.
• Thạch Quang Phật, được xem là em út, không có hình dáng người, nhưng là đá, khác với các tượng Phật của các chị khắc từ cây. Đá thì chắc chắn bền vững hơn cây. Đá là núi là đất, là quê hương. Đá Thạch Quang Phật nổi trên mặt nước lâu rồi mới chìm là nhấn mạnh đến Núi(đá) Sông.
“Khi xẻ cây gỗ đến chỗ đặt đứa bé gái thì thấy đã hóa thành một tảng đá rất cứng rắn, rìu đều bị mẻ cả”. Nghĩa là, đá Thạch Quang Phật là người con quan trọng nhất, là linh khí của bé gái. Phật Đá Sáng, Phật Đất Nước Núi Sông, do đó, là quan trọng nhất và bền vững chắc chắn hơn tất cả các Phật.
Ở đây ta thấy tinh thần Phật giáo và tinh thần dân tộc quyện vào nhau thật chặt chẻ. Phật giáo, dù là từ Ấn Độ sang, khi đến Việt Nam nó quyện vào văn hóa dân tộc Việt rất khắng khít, để giúp văn hoá Việt phát triển mạnh mẽ và tự nhiên. Xem ra không có xung đột giữa văn hóa Phật giáo và văn hóa Việt cổ xưa. Và tinh thần dân tộc là một yếu tính tự nhiên của Phật giáo Việt Nam.
• 5 Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện và Thạch Quang Phật: Từ góc độ triết lý Phật giáo, Phật pháp hiện diện trong tất cả mọi thứ, kể cả mây, mưa, sấm, chớp và đá.
• Tại sao lại một Phật mẹ và năm Phật con, chúng ta không rõ. Nhưng cũng có thể đây là biểu tượng của văn hóa âm dương ngũ hành đã có trong văn hóa Việt Nam từ trước. Mẹ cha là âm dương và 5 con là ngũ hành – kim mộc thủy hỏa thổ.
• Cây trượng sư Già La Đồ Lê tặng Man Nương là biểu tượng của Phật pháp, tương tự như cây gậy của Chử Đồng Tử, của thiền tổ Bồ Đề Đạt Ma, và của Phật Di Lặc và mà ta đã nói đến trong Truyện Tiên Dung và Chử Đồng Tử.
• Chùa Pháp Vân, còn gọi là Chùa Dâu, Diên Ứng Tự, hay Cổ Châu Tự, hiện nay vẫn còn ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là ngôi chùa được đánh giá là xưa nhất Việt Nam.
Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Đây là trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo Việt Nam. Tại vùng Dâu có năm ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân, chùa Đậu thờ Pháp Vũ, chùa Tướng thờ Pháp Lôi, chùa Dàn thờ Pháp Điện, và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Năm chùa này ngoài thờ Phật còn thờ các nữ thần. Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị Pháp phá hủy, nên tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu.
(Trần Đình Hoành bình)