TP – Một sáng mùa xuân, chàng Gru Buôn Đôn có mặt ở Trung tâm bảo tồn Voi bên bờ Sêrêpôk để thuần dưỡng lũ voi con thông minh khỏe mạnh. Cạnh đó, đàn voi già được chăm sóc chu đáo trong bệnh viện.
Giữa đại ngàn Yok Đôn, các cô cậu voi trưởng thành thong thả dạo chơi, yêu đương, sinh nở… Đó là giấc mơ có khả năng trở thành hiện thực của dự án bảo tồn voi sắp trình lên chính phủ. Đếm từng dấu chân voi...
Từ hơn bốn năm trước, tháng 5 – 2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 733, phê duyệt kế hoạch “Hành động khẩn trương đến năm 2010 để bảo tồn voi ở Việt Nam”, giao nhiệm vụ cho ba tỉnh Nghệ An, Đồng Nai, Đăk Lăk triển khai xây dựng dự án bằng nguồn ngân sách.
Được gọi là “Khu dự trữ sinh quyển thế giới”, nhưng dù rất cố gắng tìm kiếm, cho tới cuối năm 2008, dự án bảo tồn voi (BTV) do Vườn Quốc gia Phù Mát xây dựng cũng chỉ đếm được 15 con voi hoang qua ảnh chụp trong vùng rừng phía Tây Nghệ An.
Sau đó, phát hiện thêm hình như có 2 voi rừng con mới chào đời. Đầu năm 2009, lãnh đạo tỉnh Nghệ An đã thông qua và đồng ý với 5 phương án hành động BTV của dự án. Riêng tỉnh Đăk Lăk đã 2 lần triển khai lập dự án BTV.
Lần thứ nhất, đề án bảo tồn và phát triển đàn voi nhà do GS.TS Lê Huy Bá cùng nhóm cộng sự thuộc Trung tâm Sinh thái- Môi trường và Tài nguyên được Sở Thương mại – Du lịch tỉnh đặt hàng nghiên cứu trong thời hạn 1 năm, đã được lãnh đạo tỉnh nghiệm thu tháng 10-2007.
Đề án này còn nằm trên giấy thì Chi cục Kiểm lâm tỉnh lại được cấp trên giao nhiệm vụ lập dự án bảo tồn cả voi nhà lẫn voi rừng. Trên cơ sở đề án có sẵn, dự án lần hai được nhóm nghiên cứu của PGS.TS Bảo Huy trường Đại học Tây Nguyên đào sâu, mở rộng, mở hội thảo tham vấn cộng đồng vào giữa tháng 12-2009.
Bằng phương pháp điều tra theo tuyến, điểm habitat (nơi có sinh cảnh đặc biệt voi thường lui tới), đo đếm phân tích vết chân và phân voi để xác định số voi theo tuổi và giới dựa vào kinh nghiệm của đồng bào bản địa, lập sơ yếu lý lịch từng con… Nhóm nghiên cứu đã xác định trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk còn khoảng 83 đến 110 con voi hoang dã, và 61 voi nhà.
Ở tỉnh Đồng Nai, nhiệm vụ “hành động khẩn trương” còn trầy trật hơn. Suốt mùa khô 2009, trong lúc các sở ngành còn tranh cãi gay gắt xem khoản kinh phí 108 triệu đồng dành cho quy trình khảo sát thực hiện dự án BTV có thể lấy từ đâu, đã có tới 6 con voi rừng bị chết không rõ nguyên nhân và thủ phạm.
Kéo qua đầu năm 2010, cán bộ Chi cục vẫn còn miệt mài viết dự thảo, dự kiến sang tháng hai quá trình gọt giũa, bảo vệ dự án mới hoàn tất để trình lãnh đạo tỉnh.
Ông Lê Việt Dũng, Chi cục phó chuyên trách mảng Bảo tồn của CCKL tỉnh Đồng Nai cho biết, tại thời điểm này, trong hơn 100 nghìn ha rừng ở Đồng Nai lẩn khuất chừng 11 đến 14 con voi. Chi cục trưởng Nguyễn Văn Thịnh than xót: Tiếc quá, nếu chương trình BTV được triển khai sớm hơn, số voi hoang dã của Đồng Nai không tới nỗi giảm mạnh thế này. Trông voi người, xót voi ta
Trong 8 nước có nghề săn bắt, thuần dưỡng voi rừng từ lâu đời ở khu vực châu Á là Ấn Độ, Sri Lanca, Bangladesh, Thái Lan, Myanma, Nepan, Việt Nam, hai quốc gia có công nghệ tiên tiến về chăm sóc nuôi dưỡng voi là Thái Lan và Sri Lanca.
Từ năm 1969, Thái Lan đã thành lập Trung tâm thuần dưỡng voi châu Á đầu tiên trên thế giới. Gần 10 năm qua, Viện Voi Quốc gia đặt ở tỉnh Lampang dưới sự bảo trợ thuận lợi của Hoàng gia Thái Lan, hoạt động mạnh với các dự án :
Bệnh viện voi, Đội cứu hộ voi, Đội khám chữa bệnh lưu động cho voi trên khắp đất nước, Đào tạo quản tượng, Dạy voi vẽ tranh và làm xiếc, Sản xuất biogar và giấy từ phân voi v.v…
Đặc biệt, Trung tâm nghiên cứu của Viện liên kết với khoa thú y trường đại học Chiang Mai và Kasetsart đã nghiên cứu thành công quy trình thụ tinh nhân tạo cho voi, mở ra hướng phát triển mới cho voi châu Á. Trên diện tích 122 ha của Viện Voi, hiện nay 83 con voi ngày ngày được nuôi dưỡng dạy dỗ cẩn thận để bảo tồn giống nòi và… trở thành nghệ sĩ!
Trại voi Pinnawela của quốc đảo Sri Lanca được xây dựng năm 1975, với nhiệm vụ ban đầu là chăm sóc 5 bé voi con hoang dã lạc bầy. Nay trại đã phát triển thành một Trung tâm sinh sản bảo tồn voi, với 86 con voi đa số trẻ khỏe, thu hút đông đảo du khách trong ngoài nước đến ngắm voi, xem voi con được cho bú dặm bằng sữa bình tới 5 lần mỗi ngày, hoặc cưỡi voi đi dạo thong dong dưới bóng mát vườn dừa.
Voi ốm được chăm sóc kỹ lưỡng bằng các phương tiện y tế chuyên dùng cho voi như máy chụp X-quang, siêu âm chẩn đoán, theo dõi thân nhiệt, chích vac xin, tẩy giun, cho uống kháng sinh, bôi thuốc sát trùng, nhỏ mắt…
Tại Malaysia, từ năm 1974 tới nay Ban Quản lý voi thuộc Sở Động vật hoang dã đã chuyên tổ chức các cuộc di chuyển voi từ nơi dễ xung đột với người đến các vùng rừng quốc gia rộng lớn phía đông. Nhờ vậy, khoảng 500 con voi được di cư thành công. Tại Ấn Độ, chính phủ cho thực hiện Dự án voi từ năm 1992 với 25 trung tâm BTV Ấn được thành lập.
Vương quốc Nepal ngoài việc xây dựng nhiều khu bảo vệ và nuôi voi, còn đầu tư huấn luyện voi nhà vào mục đích giám sát bảo tồn voi hoang dã. Các Trung tâm BTV của Indonesia vài năm gần đây đã bắt đầu lúng túng với việc trở nên quá chật chội, không còn đủ chỗ chứa voi…
Tiến sĩ Cao Thị Lý, giảng viên trường Đại học Tây Nguyên, trong dịp tập huấn 1 tuần về Sức khỏe và sinh sản voi châu Á tổ chức tại Sri Lanca đã thu thập được nhiều thông tin, kiến thức và các mối quan hệ quý giá cho dự án BTV Đăk Lăk.
Chị cho biết, bên cạnh cơ chế chính sách điều hành thông thoáng hiệu quả, Thái Lan và Sri Lanca còn chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ thú y chuyên về cứu hộ động vật hoang dã, làm việc với tinh thần đầy tâm huyết và trách nhiệm.
Bộ môn thú y ở ta trước chỉ giảng dạy về gia súc gia cầm, gần đây mới bổ sung 30 tiết kiểu cưỡi ngựa xem… voi về mảng kiến thức này cho sinh viên .
Nhớ chuyện bé voi Khăm Bun với cái chân thương tật suýt bị cưa, tới bây giờ vẫn tù đày trong xích xiềng trường kỳ giữa thủ đô mà tội nghiệp. Nhưng dẫu sao Khăm Bun còn may mắn chán so với nhiều đồng loại khác đã được, hay bị thuần dưỡng ở xứ mình, đang ngày càng mòn mỏi suy kiệt do thiếu dinh dưỡng, bị khai thác quá mức cho trình diễn, du lịch và lễ hội; bị cưa ngà và nhổ lông đuôi đầy đau đớn, thậm chí xúc phạm tận thâm sâu bản chất kiêu hãnh của những Ông Tượng chúa tể rừng già.
Bởi Khăm Bun nổi tiếng hơn cả với lý lịch trích ngang đặc biệt, là một trong vài chú voi con xinh xắn đáng yêu cuối cùng bị săn trái phép giữa Vườn Quốc gia, đánh động dư luận tới mức văn phòng Thủ tướng phải ký lệnh giao về cho Liên đoàn Xiếc trông nom…
100 tỉ đồng cho tương lai voi Việt
Dự án BTV Nghệ An dự trù kinh phí hơn 11 tỉ đồng trong 5 năm 2009 – 2013 cho các giải pháp bảo tồn giám sát, truyên truyền quảng bá, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phục hồi sinh cảnh voi rừng, chống xung đột giữa người và voi.
Dự án BTV Đồng Nai dự kiến cần có 30 tỉ đồng trong 10 năm triển khai, ngoài những chương trình hành động tương tự Nghệ An còn chú trọng xây dựng các đội phản ứng nhanh, lập hàng rào điện tử ở vùng dân cư hay bị voi phá.
Riêng phương án mua khoảng bốn voi nhà từ Buôn Đôn về đồng bằng để xua đuổi voi rừng còn đang tiếp tục cân nhắc, trên cơ sở tiếp thu những ý kiến chắt lọc từ cuộc hội thảo BTV do Bộ Nông nghiệp & PTNT tổ chức ngày 26 – 11 – 2009 tại Vườn quốc gia Cát Tiên.
Giấc mơ voi hoàn hảo hơn trong dự án BTV Đăk Lăk, với khoản kinh phí dự trù hơn 58 tỉ đồng, dự kiến triển khai từ năm 2010 – 2014 nếu được lãnh đạo tỉnh và Chính phủ thông qua, bắt đầu từ việc xây 2 trạm BTV ở nơi voi thường xung đột với người ở 2 huyện Ea Súp và Lăk; đồng thời nhanh chóng gửi cán bộ đi đào tạo, học tập kinh nghiệm ở Thái Lan, Ấn Độ, Sri Lanca .
Một Trung tâm BTV Đăk Lăk được phác thảo trên diện tích 200 ha thuộc phân khu hành chính dịch vụ của Vườn Quốc gia Yok Đôn, giáp sông Sêrêpôk.
Trong đó, 100 ha rừng khộp được dành cho việc chăn thả và tạo môi trường tự nhiên kín đáo để voi tự do giao phối, phần diện tích còn lại sẽ xây dựng một bệnh viện voi, nhà cung cấp thức ăn và chăm sóc voi, ươm trồng bảo vệ khoảng bảy chục loại cây voi thích ăn để thực đơn voi thêm phần phong phú và tạo cảnh quan.
Tỉ lệ sinh sản quá thấp trong số voi nhà hiện có trong suốt ba thập kỷ trở lại đây, bình quân chỉ 0,6%/năm, ngoài lý do voi bị tận dụng phục vụ du lịch quanh năm, còn có phần do cơ chế phân chia lợi ích giữa các chủ voi chưa hợp lý.
Tập quán của đồng bào M’Nông: Voi con sinh ra thuộc về chủ voi cái, thế nhưng nếu voi cái bị thương trong quá trình giao phối thì chủ voi đực phải chịu phạt, cúng đền cả con trâu. Muốn khỏi rước vạ vào thân, chủ voi đực chỉ việc… cấm chúng nó gần nhau, thế là xong! Nghề săn voi bị cấm, voi nhà không đẻ, lại còn chết dần và bị bán ra ngoài tỉnh.
Ông Voong Nhi, Phó Bí thư huyện Ea Súp, đồng thời cũng là một trong những chủ voi sắp hết voi, từng đề đạt lên nhiều cấp nguyện vọng tha thiết của giới Gru (thợ săn voi giỏi):
Xin Chính phủ mở cơ chế cho đồng bào mỗi năm được mở vài cuộc săn voi với chỉ tiêu nhất định, để nghề săn bắt thuần dưỡng voi rừng không bị thất truyền, và để bản sắc văn hóa vùng miền, để biểu tượng voi Đăk Lăk còn sống mãi…
Ngay trong cuộc Hội thảo tham vấn cộng đồng do Chi cục kiểm lâm tỉnh tổ chức nhằm góp ý cho dự án BTV, Gru Ama Bích cũng đọc một “lá sớ” nắn nót viết sẵn : Nhân dân Bản Đôn chúng tôi đề nghị Nhà nước mỗi năm cho phép bắt 3 con voi rừng, giao cho nhà nước 1 con dân lấy 2 con để làm nhiệm vụ bảo tồn đàn voi nhà cho tỉnh…
PGS-TS Bảo Huy phân tích: Số voi rừng con hiện quá ít, chỉ khoảng 7-10 con trong tự nhiên, chưa phải là lúc có thể cho phép săn bắt. Tỉnh nên xem xét chuyển trả lại một số diện tích rừng đang kinh doanh khai thác thành rừng bảo tồn, tạo điều kiện cho đàn voi rừng phát triển ổn định.
Khi Trung tâm BTV ra đời, các chủ voi và nài voi cần được hưởng chính sách chi trả hợp lý để có thu nhập xứng đáng từ việc đưa voi về theo định kỳ để chăm sóc và thúc đẩy quá trình sinh sản tự nhiên.
Trả lời câu hỏi của báo Tiền Phong về giấc mơ voi Việt Nam liệu tới bao giờ mới trở thành hiện thực? ông Hà Công Tuấn, Cục trưởng Cục Kiểm lâm trầm ngâm:
Thẩm quyền duyệt dự án thuộc về UBND các tỉnh, sau đó mới đến phần trung ương quyết mức hỗ trợ thông qua ngân sách của từng địa phương. Tiến độ triển khai các dự án BTV hiện đã quá chậm, Cục rất nóng ruột đôn đốc nhưng tinh thần hành động khẩn trương theo lệnh Thủ tướng hơn 4 năm rồi vẫn chưa thấy!
Phải! Cứ lần chần mãi thế này, liệu tới lúc trăm tỉ rót về, chắc gì còn nổi trăm voi để nuôi lớn giấc mơ…
Từ năm 2004, nhóm chuyên gia voi châu Á thuộc tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế IUCN/SSC đã công bố bảng thống kê số voi rừng và voi nhà ở 13 nước trong khu vực.
Theo đó, voi hoang dã dao động từ 38 nghìn đến 52 nghìn con, tập trung nhiều nhất ở Ấn Độ, ít nhất ở Việt Nam. Voi nhà ước có khoảng từ 14,5 nghìn đến 15,3 nghìn con. Nhiều nhất ở Myanma , Việt Nam kế chót với 165 cá thể, chỉ hơn Bangladesh còn tròn 100.
Dẫu số liệu thống kê voi mang tính tương đối, nhưng rõ ràng sự cảnh báo tồn vong đã gióng lên dưới tán rừng nhiệt đới của nước ta.
Đà Lạt xa ta từ thuở ấy
Cắt chia trăm mảnh vỡ mùa đông
Đêm trở mình nghe gió heo may dậy
Ngỡ ngoài thềm sương đổ ngàn thông
Nhớ hoa thắm rau xanh thác trắng
Cánh dù nghiêng che tóc lộng nắng trời
Mimôza nở quanh đồi thầm lặng
Tuổi hai mươi ta mơ mộng, khóc cười
Ta đã xa người như mãi mãi
Giấc mơ xưa đã khép lại bên đời
Đêm sâu quá
Xòe tay xin lại
Cỏ hoa yêu với Đà Lạt
Một thời …
Phía Sau Lời Hát
Sân khấu muôn màu rực rỡ
Màn nhung hắt lửa diệu kỳ
Nhạc dội, sấm vỗ tay hết cỡ
Lớp lớp âm dồn bão sóng bay đi
Tôi đứng sững, ngất ngây xáo động
Vầng sáng quanh mình hóa tím biếc nhớ nhung
Tim trĩu nặng từng lời yêu, lẽ sống
Tiếng hát thẳm sâu, xanh hy vọng vô cùng
Biển người trải vạn hồn say đắm
Ca sĩ nghiêng mình, hoa chúc tụng bay lên
Nàng chỉ thấy giữa xa xôi ngàn dặm
Trăng hao gầy một mảnh ngấm sương đêm …
Hoàng Thiên Nga
Gõ lại bài thơ này, nhớ đêm hát sân khấu trước rạp Hòa Bình gần 30 năm trước quá Như Thúy à
Sương ẩn mặt trời
Xanh lẩn vàng rơi
Mây chìm giông bão
Nắng sau bóng tối
Xót kiếp vật vờ tìm tuyệt đối
Mòn đau, cỏ lại thắm trên đường
Bùng vỡ giữa trắng đen sáng tối
Ta hóa Người trong hai tiếng Yêu Thương
Chùm Thơ Đà Lạt thời sinh viên Văn khoa,
thân tặng Dalatmongmo cùng những người yêu và nhớ Đà Lạt
Hoàng Thiên Nga
FRENN 1
Ta đã chào em
Frenn
ngày mới đến
Xốn xang lòng, xanh ngát ước mơ
Thành phố sương mù, kỷ niệm xưa yêu mến
Phấn thông vàng êm phủ ấu thơ
Chào Đà Lạt, hồ Xuân Hương lờ lững
Đồi Cù thơm ươm nắng vắng chiều chiều
Mỗi pho tượng sáng đỉnh xa sừng sững
Tán dù nghiêng che đôi bóng xiêu xiêu
Nhưng đâu phải đời chỉ là mùa hội
Trái cấm ngon đắng từ thuở Eva
Gai hồng nhọn xuyên lá vàng mỗi lối
Nét hồn nhiên dần vỡ nát trong ta
Cay đắng ngấm, cười thêm sâu, có phải ?
Tầng cao nhìn xuống móng rạn dần
Đắp lại lớp gạch đầu dầm dãi
Càng bền gan càng gian khó bội phần
Tạm biệt em
Frenn
Quay bước
Vắng xa người thương tích sẽ nguôi ngoai
Thông trầm mặc soi hồ xanh mây nước
Tiễn ta về
Thầm hẹn
Ngày mai …
FRENN 2
Mây giăng ngang lũng thấp
Biển sương dâng trắng đèo
Một thoáng đào hồng bừng đỉnh dốc
Nhói vào hồn cả nỗi nhớ mang theo …
****
FRENN 3
Trăm năm gió thoảng phận người
Thông xanh vẫn đứng ngang trời hát ca
TP – Buôn Ko Tam, xã Ea Tu (TP Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk) ngày đầu năm mới tấp nập. Từ hai giờ sáng, bếp nhà Khăm Phết đã đỏ lửa. Một con trâu mộng dắt về từ Buôn Đôn được xẻ thịt mở tiệc đãi cả làng để mừng “đại thượng thọ” 100 tuổi của Vua Voi Ama Kông.
Tròn trăm tuổi Ama Kông vẫn đều đều cạn ly loại rượu tự tay pha chế – Ảnh: Hoàng Thiên Nga
Khỏi cãi nhau về tuổi Vua Voi!
Con, cháu, dâu, rể, chắt, chít của Ama Kông, nếu tính hết, phải tới cả trăm người, sống rải rác khắp các huyện thành ở Đăk Lăk. Hôm nay hơn nửa số đó kéo về mừng đại thượng thọ Vua Voi.
Khách quý thân hữu xa gần thuộc nhiều sắc tộc Kinh, Lào, M’Nông, Ê Đê, Jơ Rai, có cả ông bà thông gia người Khmer sang từ bên kia biên giới Campuchia. Rồi cán bộ các sở ban ngành, chính quyền địa phương, doanh nghiệp chế biến dược phẩm từ bài thuốc Ama Kông.
Căn nhà gỗ đơn sơ của Khăm Phết trải chiếu và bày ghế tràn ra sân vườn. Trưa, chiều, khách mừng thọ tới tấp nập kín cả 30 bàn.
Nhân vật chính vui vẻ ngồi khoanh chân dưới tấm phông nổi bật dòng chữ: Mừng Đại Trường Thọ Vua Voi Ama Kông. Sinh ngày 1-1-1910 – 1-1-2010.
Nhà chật, khách đứng phải xếp hàng luồn vào sau lưng khách ngồi, ai cũng muốn được nắm bàn tay rộng ấm của ông và mời ông rượu.
Như mọi cuộc vui khác từng diễn ra tại đây, loại rượu duy nhất được rót là rượu Ama Kông thơm nồng, ủ trong bồn lớn rồi chiết vào vỏ chai nước suối.
Ama Kông đón từng ly rượu đầy, nâng ngang mặt rồi ngửa cổ uống cạn. Sau vài lượt rượu, mặt ông hồng hào, cử chỉ nhanh nhẹn hẳn lên.
Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch UBND xã Nguyễn Hữu Vượng tặng quà mừng Vua Voi, cười lớn: Từ nay các báo đài khỏi phải cãi nhau về tuổi Ama Kông nữa nhé!
Giờ bố mới được quàng vai mẹ!
Vợ chồng Khăm Phết Lào vui vì bố mẹ đã chịu cười với nhau
Trong 4 bà vợ chính thức mà Ama Kông từng được cưới, bà Nhất và bà Ba đã mất, bà Tư vừa ly hôn năm ngoái. Thật ý nghĩa trong ngày vui này, bà Hai có mặt để cùng đàn con cháu đông đúc hiếu thảo mừng tuổi Vua Voi.
Bà Hai tên thời con gái là H’Hốt, vừa là em vợ vừa là em họ con ông bác ruột của Ama Kông, cách đây gần 7 thập kỷ, khi mới 12 tuổi đã chịu theo tục nối dây, cưới anh rể để nhận trách nhiệm làm mẹ 2 đứa cháu nhỏ sớm mồ côi.
Lấy chồng, bà trở thành Amí Liêng – mẹ của 11 người con sinh chung với Ama Kông, trong đó có con trai thứ bảy Khăm Phết Lào nay là người thừa kế duy nhất các bài thuốc gia truyền từ Ama Kông.
Suốt những năm tháng vất vả cực nhọc vì Ama Kông đi rừng, theo gái biền biệt, Amí Liêng vừa quán xuyến việc nhà, vừa âm thầm góp công góp của giúp đỡ cách mạng.
Sau ngày đất nước thống nhất, ông bà đều được trao Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, Ama Kông hạng Nhất, Amí Liêng hạng Nhì.
Cuộc giận Ama Kông của Amí Liêng đã kéo dài hơn bốn mươi năm. Kể từ cái ngày bà còn chưa ra khỏi ổ đẻ đứa thứ 11, ông đã dám dắt nhân tình với đứa con gái riêng 5 tuổi về xin cưới làm bà Ba.
Sau những cơn ghen hờn dữ dội của bà, Ama Kông may mắn được già làng phạt nhẹ, cho để lại mọi của cải, chỉ cưỡi một con voi sang nhà vợ mới…
Từ đó tới giờ, chưa một lần Amí Liêng chịu làm lành, chịu sang thăm Ama Kông dù nhà cách nhau có trăm bước chân, ngay cả những lần Vua Voi dưỡng thương cả tuần vì bị vợ Tư… say rượu đánh.
Thuyết phục để mẹ chịu hàn gắn, chịu ngồi xích lại gần và cười dàn hòa với bố là kỳ tích đàn con đã thực hiện được trong dịp vui này.
Tuổi gần tám mươi, Amí Liêng vẫn minh mẫn hài hước và ngúng nguẩy khi nhắc lại chuyện cũ. Bà oang oang: Ama Kông nhiều vợ nhiều con, nhưng ông ấy có nuôi đứa nào đâu. Ổng không thích nuôi con, chỉ thích yêu và nuôi… gái thôi!
Ama Kông tủm tỉm cười khi nghe bà kể tội, gật đầu: Amí Liêng nói có sai đâu, bà là vợ tốt nhất mà!
Nhìn bố mẹ sum họp bên nhau, thầy thuốc Khăm Phết Lào len lén ra sau nhà, đứng cạnh con voi giả ngậm chân bên hòn non bộ anh mới đặt thợ làm để chiều chiều Vua Voi ra ngồi ngắm cho đỡ nhớ rừng, khóc một mình vì… sung sướng.
Vua voi ngắm con voi giả bên nhà cho đỡ nhớ rừng
Bị bắt gặp, anh mếu máo như trẻ nhỏ: Tôi mơ ước được thấy mẹ về bên bố từ lâu lắm rồi…
Yêu nhau, ai chả thích!
Có thể nói, hiếm có cuộc tụ tập nào ở xứ này mà người ta không nhắc đến Ama Kông. Tên ông từ lâu đã thành huyền thoại.
Ban đầu là huyền thoại về săn voi, về sau là huyền thoại về những thang thuốc cường dương bổ thận mà bản thân ông, cuộc đời ông chính là minh chứng sống động nhất.
Trong dòng đời bề bộn trắng đen phải trái, mọi huyền thoại về Ama Kông vẫn thuần khiết chất sinh tồn hồn nhiên, đem lại cho mọi người cảm giác thư nhàn vui vẻ.
Ngồi bên Vua Voi, người con trai đầu của Ama Kông ý tứ bớt những ly rượu khách mời đầy tràn khỏi tay bố, âu yếm gắp cho bố món này món nọ, ông gạt phắt: Không sao đâu, bố còn khỏe cả chục năm nữa mà!
Cách đây hai tháng, bố vợ Khăm Phết nhà ngay bên cạnh qua đời. Thương bố vợ cả đời hiền lành chăm chỉ, Khăm Phết cùng các anh chị em trong nhà làm đám tang thật lớn, thịt 2 con bò và 3 con heo.
Đồng bào xa gần gùi nếp, gùi chăn nườm nượp lên nhà sàn ngủ lại. Ama Kông là ông sui, cũng liên tục tiếp khách từ hàng xóm ghé qua.
Con dâu Amí Sumay ngồi cạnh xới cơm cho bố chồng, khoe: Mỗi bữa bố đều xơi hết hai bát đầy. Ông hay kể chuyện ngày xưa bằng tiếng Kinh và tiếng M’nông. Khi quên từ, ông lại chuyển qua… tiếng Pháp.
Hôm nay trăm tuổi, Ama Kông uống nhiều rượu với những người thân đến từ Buôn Đôn, Ea Súp và cũng dùng hết hai bát cơm với thịt trâu xào và canh cà đắng.
Ông lại kể về thời trai trẻ, mắt hấp háy vui khi nghe hỏi chuyện yêu đương. Ông cười lộ cả hàm răng xỉn màu rượu thuốc, nhấn mạnh từng tiếng rõ ràng: Chuyện yêu nhau, ai chả thích!
Hoàng Thiên Nga
Và để hiểu lai lịch chàng trai trăm tuổi này, cần đọc thêm :
Từng đêm dài đối diện chính mình
Bóc gỡ vữa vôi
cả ngàn mảnh vỡ
đẫm màu mạnh mẽ
bản lĩnh
nghị lực phi thường
lả tả
rơi
Thịt da ấm mềm
Phát lộ
Đòi một vòng tay ôm xiết
Đắm đuối
Không lời
Nước mắt đâu cần định nghĩa
Yếu đuối không sợ ai cười
Thoả thích khóc
Cho mình
thôi nhé
mình ơi !
Dù sao cũng không hụt chân vào khoảng trống
Vô hồn
Nỗi buồn từ đáy rỗng
Phun trào hoả diệm sơn
Sáng mai rạng rỡ mặt trời
Lại sơn phết
Pha màu cẩn thận
Gói kín thịt da
Xiêm áo lượt là
Mủm mỉm trước gương mấy bận
Tươi tắn lên đường
Phi thường bản lĩnh nghị lực
Đời vui
Sâu thẳm đêm đêm
Ôi đêm khêu gợi
Tự tay gỡ
Lả tả
Mờ tỏ phận người
TP – Trong sân vườn Cà phê Thứ Bảy, dưới bóng mát của tàu lá chuối xanh hiếm hoi giữa lòng thành phố Hồ Chí Minh những ngày cuối cùng của năm 2009, nhạc sĩ kiệm lời và kỹ tính Dương Thụ đã trải lòng về công việc, tình yêu, và cuộc sống.
Lúc chờ nhạc sĩ đến, tôi được một nữ nhân viên dặn nên cẩn trọng vì anh rất khó tính?
Dương Thụ (cười mỉm): Tôi từng phải rút kinh nghiệm tiếp xúc vì bị một số nhà báo ca tụng vô lối. Tưởng mát tai nhưng đọc vào thấy rất xấu hổ.
Có nhà báo phỏng vấn xong gọi anh ơi, báo ra rồi mời anh đọc. Cô ấy gán cho tôi những câu trả lời rất văn chương hoa mỹ, nào làm nhạc hiến dâng cho đời, nào viết cho tuổi trẻ! Trời ơi, ai cần mình viết cho họ đâu. Kinh khủng quá. Sao lại đại ngôn như vậy chứ.
Anh thích gặp gỡ với kiểu nhà báo nào?
Chưa bao giờ tôi thích gặp nhà báo cả, nhất là gặp vì cá nhân tôi. Báo chí quan trọng với những ai cần phải luôn luôn có mặt trên báo, hoặc có điều cần được nói lên mặt báo.
Tôi không thuộc cả hai nhóm đó. Trước hết vì mình chả là cái gì. Còn tên tuổi ư ? Cái sự nổi tiếng từng làm cho tôi rất khổ sở. Tôi không muốn.
Đến nông nỗi đó thật sao?
Hiện nay cái sự nổi tiếng ở ta nó hão huyền lắm. Nhiều khi nổi tiếng chỉ nhờ dư luận lặp đi lặp lại ba cái chuyện giật gân phù phiếm, chứ chẳng phải tài năng hay cống hiến đặc biệt gì.
Có người thấy tôi trên ti vi hay trả lời một vài bài báo, bèn nghĩ chắc ông này hay lắm, bèn kéo thêm nhiều người khác đòi phỏng vấn. Nếu tôi từ chối sẽ bị cho là tự kiêu tự đại.
Nhưng phần lớn người ta có hiểu đúng mình đâu. Thậm chí có người ái mộ, gọi điện thoại rối rít nhưng rốt cục té ra họ nhầm tôi với những bậc tài danh khác, chẳng hạn như Phú Quang hay Thanh Tùng.
Thực chất tôi không phải là người của công chúng, mà chỉ là một người rất bình thường. Tôi không có nhiều điều để chia sẻ với số đông…
Thích những việc không ra tiền lại còn bị chửi
… Một con người đúng nghĩa luôn sống rộng hơn phạm vi nghề nghiệp của họ. Nhạc sĩ hoàn toàn có thể quan tâm đến nhiều vấn đề khác ngoài nhạc, ví dụ quan tâm tới người nghèo, bóng đá hay chính trị. Tôi không phải là chuyên gia chỉ biết đến cái nghề của mình.
Trong mỗi cá nhân luôn có nhiều tư cách người. Phần người rất quan trọng trong tôi là người chồng, người cha vì gia đình, trách nhiệm che chở giữ gìn gia đình chứ không phải chỉ biết có sáng tác. Sau đó mới đến phần người làm nghề sản xuất âm nhạc, làm chương trình, băng đĩa, tổ chức sự kiện cho chỗ này chỗ nọ, vân vân.
Nếu không làm những việc đó thì sao tôi đủ sống? Liệu bán thơ nhạc đi có đủ tiền đổ xăng xe và trả cước điện thoại không ?
Anh luôn nặng gánh chèo chống gia đình vậy ư ?
Còn có một phần người nữa quan trọng hơn, phần hoạt động xã hội. Nếu chỉ sống cho mình, vì mình, thì quá nhỏ nhoi. Đức Phật nói người tốt là người sống cho bên ngoài mình.
Có người sống chỉ thu vén cho họ. Cũng có người luôn chia sẻ với những người xung quanh. Tôi không cao cả như những nhà sư, linh mục, nhà hoạt động xã hội. Nhưng tôi cũng có những ưu tư bẩm sinh và nhu cầu làm điều gì đó cho người khác.
Tôi từng giúp những ca sĩ trẻ, nhạc sĩ trẻ từ lúc họ vô danh, đâu có lấy tiền. Nhiều việc tôi làm chẳng đem lại lợi ích vật chất gì, như chương trình Nửa thế kỷ bài hát, hay Bài hát Việt. Đã không có tiền lại còn bị chửi. Tuy nhiên nó khiến tôi vui, cho tôi thêm động lực sống khi thấy mình đem lại được chút gì cho ai đó.
Hạnh phúc là khi…
Điều gì khiến anh rung động, khi nghe ca sĩ trình bày những ca khúc gan ruột của mình?
Đó là khi phát hiện mình không nói gì mà sao họ hiểu mình đến thế. Như Mỹ Linh, có những bài cô ấy vào phòng thu hát khó khăn như đánh vật, phải thu rất nhiều lần. Nhưng rồi cô ấy hát cũng ra chất và hát rất hay những ca khúc như Mong về Hà Nội, Hát cho anh nghe, tôi không nhớ đã viết năm nào.
Vấn đề không phải là kỹ thuật. Ví dụ lẽ ra phải hát nhẹ thì lại chệch thành hát nhỏ, hoặc giọng hát chưa đủ độ nẩy. Kỹ thuật chỉ có thể khiến mình hài lòng hay không hài lòng chứ chưa đủ để khơi gợi cảm xúc.
Cái thuộc về thần thái, cảm xúc thường rất trừu tượng. Cô ấy đã đụng chạm đến chỗ nào đó rất sâu, có lẽ là dây thần kinh của mình. Tôi mong về Hà Nội để nghe gió sông Hồng thổi, để thương áo len cài vội, một chiều đông rét mướt… Cũng lời ấy có người hát dở ẹc à.
Ngoài Mỹ Linh, còn những ai đạt tới điều đó?
Ví dụ khi được nghe Thanh Lam hát Gọi anh, Hồng Nhung Vẫn hát lời tình yêu, Nguyên Thảo hát Nghe mưa, Khánh Linh hát Tháng tư về, Lệ Quyên cũ chứ không phải Lệ Quyên nhạc thị trường với Họa mi hót trong mưa. Vân vân.
Đó có phải là cảm giác hạnh phúc về nghề nghiệp?
Tôi không bao giờ băn khoăn hỏi mình có hạnh phúc hay không. Hạnh phúc là khi mình được nói, được bộc lộ, sống với tất cả các giác quan giữa những gì thân thiết.
Như khi mở cửa thấy nắng trong vườn, thấy hoa cỏ, được chăm chú theo dõi nắng tắt trên từng chiếc lá. Hay nghe nhạc không còn là nhạc nữa mà chỉ ngập tràn cảm xúc đưa mình về cõi nào. Thậm chí khi cầm cái máy hút bụi, quét dọn, cắm hoa, dọn dẹp lại căn nhà bẩn thỉu sau một chuyến đi xa về.
Đôi khi mù quáng vì yêu
Trong những việc anh đã làm, phần việc nào giúp anh sống mạnh mẽ nhất với mọi cảm quan của mình?
Âm nhạc. Nghệ thuật là tiếng nói đi tìm bạn. Vì tìm bạn nên mới hát cho người ta nghe, không thì hát làm gì. Con người ai cũng khao khát thương yêu, chia sẻ.
Khi viết, khi sáng tác, là lúc mình được sống sâu nhất trong niềm xúc động nội tâm. Âm nhạc tôi là nội tâm tôi, là những gì tôi quan sát chiêm nghiệm.
Anh tâm đắc tác phẩm nào nhất trong số đã viết ?
Tôi chẳng có ca khúc nào gọi là tâm đắc. Hỏi thế có khác nào hỏi Anh yêu tay, chân hay tóc của anh? Yêu hay không thì nó vẫn là một bộ phận của con người mình đấy chứ.
Tôi chưa từng được nghe ca khúc nào của anh mang tính tuyên truyền cổ vũ. Anh không phù hợp, không thích hay không sáng tác nổi dòng nhạc ấy?
Quả thực trong âm nhạc, tôi không khuyên ai sống thế nào, chỉ nói tại sao mình yêu, tại sao mình đau khổ, tức là mình quan sát chính mình thôi.
Do cái tạng của tôi nó thế ! Tôi rất kính trọng Hoàng Vân với Bài ca xây dựng: “Cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau”. Toàn khẩu hiệu! Hay Tôi là người thợ lò, mặc dù ông ấy có là thợ lò bao giờ đâu. Các ca khúc ấy đều dạt dào cảm xúc rất thật, cả phần nhạc và ca từ đều hay.
Hoặc như Đỗ Nhuận, hầu hết ca khúc của ông cũng đều vì cái chung, cho cái chung. Những nhạc sĩ tài hoa đó đã từ bỏ cái riêng của mình, hoặc hòa cái riêng vào cái chung một cách nhuần nhuyễn. Tôi không làm được như vậy.
Điều đó có phải bắt nguồn từ chỗ do quá yêu bản thân mình không ?
Con người ta biết yêu mình sẽ biết yêu người khác. Yêu cho đúng nghĩa bao giờ cũng tốt đẹp. Tuy nhiên đôi khi cũng vì yêu mà mù quáng. Nhất là trong tình yêu giới tính, vì nó có yếu tố sex.
Vào vai giám đốc dự án
Nhạc sĩ Dương Thụ trong không gian Cà phê Thứ Bảy. Ảnh: Hữu Trịnh
Ít nhiều đã đủ đầy mọi thứ, anh vẫn không ngồi yên sáng tác, lại chịu mất nhiều thời gian ra đây vun vén cho một dự án cà phê?
À, đấy lại là cả một câu chuyện dài. Cà phê Thứ Bảy là một dự án văn hóa mà tôi hợp tác với Trung Nguyên. Tôi làm việc này không nhằm để người ta biết tôi như một người nổi tiếng. Tôi muốn có một không gian văn hóa cho bạn bè gặp gỡ, gây cảm hứng cho nhau.
Và vì tôi thích Vũ (Đặng Lê Nguyên Vũ – TGĐ Cty CP Trung Nguyên – PV), muốn làm cho Vũ điều gì đó, dù tôi chẳng là gì cả.
Vũ là người có tầm, có tâm, có thể hiểu được những việc mình muốn làm, có cái nhìn sâu sắc về văn hóa. Vũ luôn phải lo nghĩ về hiệu quả kinh doanh vì anh ấy là doanh nhân, cuộc sống anh ấy gắn liền với thương hiệu Trung Nguyên. Còn tôi thì không.
Tôi không đến đây ngồi chờ người ta hóng chuyện, hay tào tao. Tôi muốn điều gì đó thuần khiết hơn.
Liệu một nhạc sĩ mang tâm hồn thơ mộng, lãng mạn như anh có thích hợp gắn bó với chức danh rất ngoại đạo, giám đốc điều hành dự án?
Không phải tôi gắn bó mà chính tôi đẻ ra, nghĩ ra dự án này và đem nó đến cho Vũ. Năm ngoái Vũ mời tôi, Nguyễn Cường, Nguyễn Xuân Khánh, Lưu Trọng Ninh và nhiều người khác nữa lên thiên đường cà phê của anh ấy để viết nhạc, viết tiểu thuyết, để làm phim về cà phê.
Tôi nói thẳng đừng tốn tiền cho tôi vì mục đích này. Tôi chỉ viết từ tôi, cho tôi, vì những điều tôi hiểu chứ không viết cho những điều không hiểu hoặc chưa cảm được.
Nhưng tôi có cái này đã nghiền ngẫm để đưa cho Vũ. Đó là dự án Cà phê Thứ Bảy với nhiều mảng hoạt động văn hóa tinh túy. Vũ xem, đồng ý đầu tư tài chính.
Tôi cùng mọi người chuẩn bị từ việc tìm địa điểm vốn là quán cà phê Niết Bàn cũ, cải tạo nó cho phù hợp hơn và chuẩn bị nội dung giao lưu định kỳ hàng tuần cho nó.
Dường như tổng thể còn dang dở, kén người?
Tôi không làm thuê cho doanh nghiệp, không ký hợp đồng mà chỉ ký thỏa thuận hợp tác. Linh hồn của quán là Bùi Văn Nam Sơn. Nguyên Ngọc thì giúp mảng Cà phê Sách.
Mảng Cà phê Văn học có Ý Nhi và nhà phê bình Thanh Sơn. Cà phê Điện ảnh có Lê Hoàng, Bá Vũ; Cà phê Đối thoại có Lê Ngọc Trà, Đặng Lê Nguyên Vũ; Cà phê Hội họa có Nguyễn Quân, v.v…
Trên đời chẳng có gì từ trong đầu bước ra mà suôn sẻ dễ dàng hết được. Sắp tới sẽ khai trương thêm một số hạng mục mới, và bổ sung nhiều bộ sưu tập không thể thiếu. Mọi thứ còn dở dang, nhưng sẽ hoàn chỉnh dần.
Nhân loại năm châu còn đang chờ đón Giáng sinh thì Noel đã đến sớm với trẻ em khuyết tật, bệnh nhân phong và những hoàn cảnh khó khăn cơ nhỡ, bởi tuần lễ Noel vui tươi đầm ấm do Ban đại diện báo Tiền Phong khu vực Tây Nguyên phối hợp tổ chức với đội Công tác xã hội Hội liên hiệp Thanh niên tỉnh Đăk Lăk, và diễn đàn Tuổi trẻ Buôn Ma Thuột. Đội văn nghệ trường chuyên biệt Vì Nhân trong buổi văn nghệ Noel
Địa chỉ đầu tiên là trường chuyên biệt Vi Nhân,162 Phan Chu Trinh, nơi có 152 trẻ em khuyết tật đang học hành. Địa chỉ thứ hai là Nhà lưu trú đa sắc tộc Thérèse ở 29 Trần Nhật Duật TP Buôn Ma Thuột, nơi nuôi dưỡng 62 học sinh người dân tộc thiểu số có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đến từ nhiều buôn làng vùng sâu trên địa bàn toàn tỉnh.
Không khí đêm vui Noel giúp các em tự tin hòa mình vào cuộc trình diễn các tiết mục văn nghệ đặc sắc, những màn biểu diễn thời trang dí dỏm. Đội văn nghệ khiếm thị của trường chuyên biệt Vi Nhân đóng góp những ca khúc tha thiết xúc động cả hội trường. Chị Võ Thị Ngọc, Chủ nhiệm Đội Công tác xã hội lau nước mắt : “ Đến với các em bọn mình thấy đêm Noel càng ý nghĩa hơn”. Em Nguyễn Văn Phú học sinh khiếm thị tại trường chuyên biệt Vi Nhân sau khi hào hứng chơi thổi bong bóng vui vẻ khoe “Em thắng rồi, ước gì mỗi năm đều có nhiều đêm Noel như thế này !”. Các em còn được tặng nhiều món quà Noel gồm áo ấm, nhu yếu phẩm, bánh kẹo…trị giá hơn 6 triệu đồng. Ông Già Nô En tặng quà cho các em khuyết tật
Cũng trong tuần lễ Noel 2009 , Ban Đại diện báo Tiền Phong khu vực Tây Nguyên đã phối hợp với dòng tu nữ Bác Ái- Vinh Sơn tổ chức vui Noel sớm và tặng quà tổng giá trị 25 triệu đồng cho bệnh nhân phong tại Buôn Cùi xã Ea Trang huyện M’Đrăk tỉnh Đăk Lăk. Trưa ngày 25-12-2009, Bếp Tình Thương của báo Tiền Phong sẽ tổ chức Bữa Cơm Giáng Sinh gồm 100 suất ăn cho những người tàn tật, trẻ em cơ nhỡ, người làm nghề đánh giày, bán vé số tại thôn Chi Lăng phường Khánh Xuân , TP Buôn Ma Thuột.
Đêm đông lạnh giá. Trong căn nhà ấm áp, người mẹ trẻ thủ thỉ với đứa bé mắt xoe tròn: Đố con, trời lạnh buốt như vầy làm sao những con thú trong rừng ngủ được?
Khi con lớn hơn một chút. Đêm đông giá lạnh, mẹ lại hỏi: Đố con, trời lạnh buốt như vầy, những người không nhà làm sao đỡ rét?
Con lớn hơn chút nữa, mẹ và con không nằm trong chăn ấm đố nhau nữa, mà đi ra đường. Noel, khi chuông giáo đường vang ngân trong tiếng nhạc Silent Night, là lúc đôi mẹ con phố núi, như những ông già Noel bên trời Tây, đem từng gói áo ấm to sụ như áo mình đang mặc tặng những kẻ bơ vơ, co ro nép mình bên góc chợ.
Từng tháng, từng năm, hạt giống hướng thiện mẹ gieo vào lòng con cứ lặng lẽ đâm chồi nẩy lộc, như đức bác ái Thiên Chúa gieo vào lòng con chiên qua Thánh lễ Misa. Mỗi khi hoa dã quỳ nở vàng rực trên lối vắng, mỗi người con ấy lại nhớ mùa đông đã về, không quên cuộc sống còn biết bao mảnh đời bất hạnh đang cần lắm dù chỉ một tấm áo, một chút tình chia sẻ yêu thương.
Để rồi chiều nay, văn phòng báo Tiền Phong nơi tôi đang làm việc, chuông điện thoại liên tục đổ. Người nói, người nghe thảy đều nghẹn ngào xúc động. Chuyện một Tổ ấm ở tận một xã vùng sâu tỉnh Kon Tum của các soeur dòng Ảnh Vảy đang nuôi dưỡng hàng trăm người già và trẻ mồ côi đang vô cùng khó khăn, do cơn bão số 11 vừa qua cuốn trôi nương rẫy hoa màu vừa đăng trên báo, đang tạo chuỗi hiệu ứng tích cực trong nhiều bạn đọc giàu lòng nhân ái. Nhiều người đã gọi trực tiếp cho soeur Liên qua số điện thoại đăng kèm bài, tâm tình cùng vị nữ tu người Bơhnar nhân từ mà quá đỗi mộc mạc chơn chất, rơi lệ tự hỏi sao họ chưa từng biết đến tấm lòng hy sinh cao cả mà lặng thầm đến như vậy?
Một nữ tiến sĩ đang công tác ở Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương cho biết tuần tới trong chuyến công tác vào Gia Lai, chị sẽ tìm đến tận Tổ ấm để chuyển những phần quà nhỏ do đồng nghiệp chị quyên góp. Vợ chồng giáo sư Chu Đình Thúy phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký hội Vật lý Việt Nam tuy đang gặp khó khăn về chuyện nhà đất, cũng bàn nhau giành hết phần lương hưu trong tháng mua áo phông và chuyển một khoản tiền góp vào bữa cơm ngày tết năm mới cho Tổ ấm. Và nhiều nữa, những con người nhiệt tâm không nề hà gian khó, đã cùng báo Tiền Phong giúp đỡ bao cảnh nghèo mà báo đã phát lời kêu gọi giúp đỡ trong mùa đông này, chỉ mong san sẻ được phần nào hơi ấm tình thương.
Trong đoàn độc giả thiện nguyện cùng báo Tiền Phong vừa đi tặng quà cho học sinh nghèo vượt khó nhân dịp Noel 2009, có một phụ nữ lớn tuổi được mọi người trân trọng gọi là Mẹ Simon. Vóc dáng bé nhỏ, áo sờn vai, dép mòn vẹt, trông bà chẳng khác gì người làm thuê lam lũ. Thế nhưng ít ai ngờ suốt nhiều năm qua ở tuổi ngoài bảy mươi, mẹ Simon vẫn chạy sô dạy Anh văn cho đủ mọi lứa tuổi, trong đó ngoài những khóa dạy miễn phí cho trẻ em nghèo, bao nhiêu học phí thu được mẹ dành cả để nuôi một nhóm trẻ vô gia đình, và nuôi cả những cô gái sa cơ lỡ bước vào bệnh viện toan phá thai mà bà đã thuyết phục đón về, nuôi dưỡng tới khi mẹ tròn con vuông …
Noel đang đến trong lời cầu nguyện vinh danh Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm! Nhưng từ khi Noel chưa đến trong chúng tôi, những đứa bé theo mẹ ra đường đêm đông năm nào, đã tràn ngập phúc lành nhờ soeur Liên, mẹ Simon, và nhiều độc giả nhân ái chưa từng được gặp mặt, chỉ nghe qua điện thoại đã rơi nước mắt bởi tình người chan chứa. Từ lâu rồi Noel không còn là Đêm Thánh của riêng Giáo dân, mà đã thành đêm hội chung của những trái tim rộng mở chào đón tin lành và mong ước tình thương sẽ ngự trị khắp thế gian. Như giai điệu bất hủ của những bài thánh ca như Jingle Bells của mục sư người Mỹ James Pierpoint, Silent Night của linh mục người Áo Joseph Mohr đã vượt thời gian, không gian và cả sự khác biệt về chủng tộc để được hát bởi hàng tỉ người không phân chia tôn giáo. Mong sao tinh thần tốt đẹp của mùa Giáng sinh này sẽ tràn ngập năm thánh 2010, như lời W.T. Ellis : Chính Giáng Sinh trong trái tim mình đã khiến Giáng Sinh lan tỏa nơi nơi.