Tại Việt Nam, nhu cầu chăm sóc sức khỏe và sinh hoạt tại viện dưỡng lão của người cao tuổi ngày càng tăng. Tuy nhiên, số lượng cơ sở và nhân lực có trình độ trong lĩnh vực này vẫn còn hạn chế. Bởi vậy, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ và đẩy mạnh mở rộng các mô hình viện dưỡng lão, qua đó giúp người cao tuổi dễ dàng tiếp cận các trung tâm chăm sóc sức khỏe chất lượng, phù hợp với khả năng chi trả. Ngoài ra, cần khuyến khích gia đình và xã hội quan tâm, chăm lo đến người cao tuổi, để họ sống vui khỏe, có ích và không rơi vào tình cảnh cô đơn.
An An
Cấp bách khơi thông cơ chế phát triển nhà dưỡng lão
Bài 1: Muốn vào viện dưỡng lão, không dễ!
Người già Việt Nam giữa khoảng trống an sinh
VNE – Việt Nam đang già hóa dân số nhanh nhất khu vực, nhưng hệ thống an sinh, cơ sở chăm sóc người cao tuổi chuyên nghiệp chưa theo kịp.
Ở một góc sân trong khuôn viên viện dưỡng lão ở Lĩnh Nam, Hà Nội, bà Đinh Như Loan ngồi ngắm hàng chục cụ ông, cụ bà tắm nắng, tập vận động với sự hỗ trợ của điều dưỡng. Người phụ nữ 75 tuổi quê Thái Bình đã ở đây được hai năm, kể từ khi chồng mất. Các con bà đều đã trưởng thành, có sự nghiệp ổn định ở Hà Nội nhưng bà không muốn sống cùng ai.
“Ở trong này ngày ăn bốn bữa, đo huyết áp ba lần, thích thì đọc sách, xem TV. Tuổi già thế là mỹ mãn”, bà nói.
Cách bà Loan hơn 40 km, tại Trung tâm bảo trợ xã hội tổng hợp Hưng Yên, bà Nguyễn Thị Lan, 61 tuổi, ngồi bên mép giường mày mò chiếc radio dò kênh yêu thích.
Trước kia, bà Lan, không chồng con, không lương hưu, sống một mình trong căn nhà cấp bốn đã xuống cấp. Vào trung tâm từ năm 2022, bà Lan ở phòng ba giường, có nhà vệ sinh khép kín, mỗi bữa được nhân viên hoặc bạn cùng phòng mang cơm đến tận nơi. “So với cảnh lủi thủi một mình ở quê, vào đây tôi thấy vui vẻ, an tâm hơn”, bà nói.
Bà Loan và bà Lan là hai thế giới khác biệt. Một người được lựa chọn nơi an hưởng tuổi già, một người có chỗ nương thân đã là hạnh phúc. Nhưng cả hai đều thuộc nhóm số ít may mắn trong khi còn hàng triệu người cao tuổi (NCT) không được quyền lựa chọn, cũng thiếu cả sự may mắn.
Dân số Việt Nam đang già nhanh hơn bao giờ hết. Từ năm 2011, khi nhóm dân số trên 60 tuổi vượt 10%, đất nước chính thức bước vào giai đoạn “già hóa”. Dự báo đến 2036, tỷ lệ này chạm mốc 20%. Quá trình này đang diễn ra nhanh hơn so bất kỳ quốc gia nào khác trong khu vực, theo Tổng cục Thống kê.
Số liệu từ Cục Bảo trợ xã hội (Bộ Y tế) cho thấy, cả nước hiện có 218 cơ sở chăm sóc NCT, gồm 79 trung tâm bảo trợ xã hội công lập và 134 trung tâm dưỡng lão tư nhân, chăm sóc khoảng 15.000 NCT. Mạng lưới y tế dành cho NCT cũng đang được hình thành với ba bệnh viện chuyên lão khoa, 14 bệnh viện trung ương và 48 bệnh viện tuyến tỉnh có khoa Lão.
Tuy nhiên, mạng lưới chăm sóc vẫn còn quá nhỏ so với tốc độ già hóa dân số. Phần lớn cơ sở tập trung tại các đô thị lớn, trong khi ở nông thôn và miền núi, NCT gần như không có lựa chọn nào khác ngoài các trung tâm bảo trợ xã hội.
Theo ông Tô Đức, Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội, với hơn 16,5 triệu người cao tuổi, trong đó có khoảng 2,6 triệu người từ 80 tuổi trở lên, tuổi thọ trung bình đạt 74,7 tuổi nhưng số năm sống khoẻ là 65,4 năm, nhu cầu chăm sóc của người cao tuổi rất lớn.

Chờ ‘dài cổ’ vào trung tâm bảo trợ
Tại Trung tâm bảo trợ xã hội tổng hợp tỉnh Hưng Yên, danh sách chờ thường xuyên có khoảng 50 người. Ông Bùi Kim Thắng, Phó giám đốc trung tâm, cho biết theo quy định chỉ những NCT thuộc diện hộ nghèo, không có người phụng dưỡng và không còn khả năng sống độc lập mới được tiếp nhận.
Hưng Yên cũng như nhiều vùng nông thôn khác, cuộc sống của người già đang thay đổi nhanh hơn mạng lưới chăm sóc dành cho họ. Con cái phần lớn đi làm xa, người già ở lại làng trong căn nhà trống, ít giao tiếp, ít hoạt động tinh thần. Nhiều người không có lương hưu, hoặc lương thấp trong khi con cái không đủ điều kiện gửi cha mẹ vào các viện dưỡng lão tư nhân.
Thực trạng cơ sở vật chất khiến bài toán thêm phức tạp. Hai dãy nhà cấp bốn đã xuống cấp nặng, mùa mưa phải di tản các cụ. Hai dãy nhà mới chưa thể đưa vào sử dụng vì thiếu kinh phí hoàn thiện. “Năm ngoái bão, chúng tôi phải chuyển các cụ vào dãy nhà mới, dùng bạt che tạm ở từ đó đến nay”, ông Thắng cho hay.
Nỗi mong mỏi tìm một chỗ nương thân tuổi già hiện lên rõ trong câu chuyện của bà Nguyễn Thị Nhâm, 80 tuổi, sống một mình ở ngoại ô TP Hưng Yên. Không lương hưu, bà dự định mỗi tháng góp một, hai triệu đồng để vào trung tâm, vừa để yên thân, vừa để các con đỡ lo lắng.
Vài tháng trước, bà bị ngã bong gân, nằm một chỗ hơn ba tuần. May có hàng xóm phát hiện đưa đi trạm xá. “Tôi chỉ mong được vào trung tâm cho đỡ cô quạnh. Nhưng họ nói phải thuộc diện hộ nghèo mới được”, bà nói.

Dưỡng lão tư nhân – kẻ lấp chỗ trống
Khi hệ thống chăm sóc công lập chỉ có thể cưu mang một phần rất nhỏ NCT, khoảng trống dần được lấp bởi khu vực tư nhân.
Năm 2000, ông Nguyễn Tuấn Ngọc, trợ lý giám đốc Bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội chứng kiến nhiều cụ già rủ nhau mang cơm, cùng ăn, trò chuyện khi đi khám bệnh và chờ con cháu tới đón về. Với sự khích lệ của giáo sư Ngô Hi, nguyên Phó giám đốc Bệnh viện rằng “nhà dưỡng lão sẽ là nhu cầu tất yếu của tương lai”, ông Ngọc bắt tay xây dựng Thiên Đức, cơ sở dưỡng lão tư nhân đầu tiên của Việt Nam.
Ý tưởng này vấp phải sự phản đối của gia đình. “Vợ không cho, bố mẹ cấm cản, ai cũng bảo sao đi làm cái ngành bất hiếu”, ông nhớ lại.
Những năm đầu, Thiên Đức gần như không có khách. Ông Ngọc phải mời các cụ ở miễn phí. Giấy phép hoạt động chưa có, cơ quan chức năng không biết xếp loại hình này vào đâu.
“Mất 7 năm tôi mới có giấy phép của Sở Kế hoạch và Đầu tư, rồi thêm ba năm nữa của Sở Lao động”, ông nói. Đến nay trung tâm có 6 cơ sở tại Hà Nội và Vũng Tàu, chăm sóc hơn 500 cụ.
Gần chục năm sau sự ra đời của Thiên Đức, thị trường dưỡng lão tư nhân Việt Nam dần định hình với sự xuất hiện các cơ sở như Phù Đổng (2007), Tuyết Thái (2010), Diên Hồng (2014) ở Hà Nội và Bình Mỹ (2014), Tâm An (2019) ở TP HCM.
Trong đó, nhiều trung tâm có sự phát triển mạnh, như Diên Hồng đến nay đã có 10 cơ sở ở miền Bắc, chăm sóc khoảng 700 cụ. Ngoài cung cấp các hình thức nội trú, bán trú, chăm sóc ngắn ngày, trung tâm này còn mở rộng dịch vụ đến tận nhà và bệnh viện qua mô hình “Viện chăm sóc gia đình”.
Khảo sát của VnExpress cho thấy, các viện dưỡng lão tư nhân hiện có giá từ 8 đến 30 triệu đồng một tháng, tùy mức độ chăm sóc và loại phòng. Một số cơ sở cao cấp thu phí tới 50 triệu đồng mỗi tháng. Thị trường này cũng bắt đầu thu hút doanh nghiệp nước ngoài.
Sau 25 năm trong nghề, ông Nguyễn Tuấn Ngọc nói điều tâm đắc nhất không phải là mở được 6 cơ sở, mà là nhìn thấy xã hội đổi thay trong cách nghĩ về tuổi già.
“Trước đây, người ta coi việc đưa cha mẹ vào dưỡng lão là bất hiếu. Giờ, người già sống ở viện dưỡng lão trở thành lựa chọn tất yếu, thậm chí là một ngành dịch vụ xã hội đang lớn mạnh, được Nhà nước quan tâm phát triển nền kinh tế bạc trong tương lai”, ông nói.
Nhưng “cánh tay nối dài” của hệ thống an sinh xã hội này vẫn đang đối mặt với những nút thắt kéo dài, như đất đai, nhân lực và hành lang pháp lý. Phần lớn các viện dưỡng lão tư nhân hiện phải thuê đất và gần như không có cơ hội tiếp cận các vị trí đẹp. Để tối ưu chi phí và cạnh tranh, trong tình cảnh nguồn thu nhỏ giọt và có thể bị đòi đất bất cứ lúc nào, các trung tâm không dám đầu tư đồng bộ, hiện đại. Hệ quả là nhiều nơi phải hoạt động trong những cơ sở cải tạo tạm bợ, thiếu tiêu chuẩn thiết kế thân thiện với NCT, thậm chí tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn.
“Trong hệ thống của chúng tôi, chi phí thuê đất chiếm 40% mức phí phải đóng của các cụ”, ông Ngọc tiết lộ. “Đây là một con số rất lớn và thiệt thòi cho người cao tuổi”.
Vướng mắc thứ hai là chưa có một chuẩn thống nhất cho hoạt động chăm sóc NCT, đặc biệt trong việc phân định giữa chăm sóc y tế và phi y tế. Nếu coi viện dưỡng lão là dịch vụ xã hội, các trung tâm không đủ điều kiện để can thiệp khi NCT gặp vấn đề sức khỏe. Nhưng nếu coi là dịch vụ y tế, lại không có khung pháp lý nào quy định rõ ràng phạm vi được phép thực hiện. Sự thiếu vắng chuẩn mực khiến nhiều cơ sở lúng túng, còn NCT dễ bị bỏ rơi giữa hai hệ thống.
Đặc biệt, bài toán nhân lực ngày càng trở nên nan giải. Công việc chăm sóc người già đòi hỏi sức khỏe và sự kiên nhẫn, nhưng thu nhập chỉ ở mức trung bình. Không ít người bỏ việc sau vài năm vì kiệt sức. Còn những người có tay nghề thì chọn ra nước ngoài để bảo hiểm và chế độ tốt hơn. Trong nước, nghề này chưa có khung chứng chỉ nghề thống nhất, khiến chất lượng dịch vụ phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của từng cơ sở.
Từ an sinh xã hội đến ‘nền kinh tế bạc’
Để từng bước giải quyết những khoảng trống này, Chính phủ đã ban hành Quyết định 966 phê duyệt quy hoạch mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, trong đó yêu cầu mỗi tỉnh, thành có ít nhất một cơ sở chăm sóc NCT. Các địa phương đã triển khai Quy hoạch quốc gia, đưa vào Quy hoạch của tỉnh, bố trí quỹ đất, xây dựng Đề án phát triển cơ sở dưỡng lão trên địa bàn.
Tại tỉnh Hưng Yên, ông Thắng cho biết, địa phương đã có kế hoạch đầu tư 57 tỷ đồng để cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất, dự kiến thêm khoảng 120 chỗ ở. Điều cần làm ngay là sớm hoàn thiện khung pháp lý, cho phép tiếp nhận người tự nguyện đóng phí; cùng chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút nhân lực y tế.
Trong xu hướng chung của thế giới, Việt Nam đang hướng tới xây dựng “nền kinh tế bạc”, tức nền kinh tế bao gồm toàn bộ hoạt động sản xuất, dịch vụ, sáng tạo gắn với nhu cầu và tiềm năng của NCT.
“Để phát triển nền kinh tế bạc, điều quan trọng nhất là thay đổi quan niệm NCT không phải là ‘gánh nặng’ cần được chăm lo, mà là nguồn lực trong sự nghiệp phát triển đất nước”, ông Tô Đức, cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội, nhấn mạnh.
Đây cũng là một trong hai phương pháp tiếp cận già hóa dân số cho Việt Nam được hai chuyên gia Phạm Thị Lan và Đoàn Hữu Minh của Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) khuyến nghị.
Trong nhiều hành động cần phải làm, các chuyên gia từ UNFPA gợi ý cần sớm xây dựng hệ thống chăm sóc dài hạn (LTC) toàn diện. Mô hình này đã được triển khai thành công ở Đức và Nhật Bản thông qua bảo hiểm LTC bắt buộc. Với điều kiện xã hội tương đồng, Thái Lan được xem là hình mẫu khả thi cho Việt Nam, khi họ tích hợp LTC vào hệ thống Bảo hiểm y tế toàn dân.
Chăm sóc NCT cũng có thể chuyển từ gánh nặng xã hội thành cơ hội kinh tế bằng cách xây dựng và vận hành “nền kinh tế chăm sóc”. Ở Thụy Điển và Nhật Bản, nghề chăm sóc được công nhận chính thức trong khu vực công, có chương trình đào tạo chuẩn hóa, lộ trình nghề nghiệp và chế độ phúc lợi rõ ràng.
“Những kinh nghiệm này cho thấy, chính sách của Nhà nước có thể trở thành chất xúc tác cho một nền kinh tế chăm sóc chính thức – nơi nhu cầu xã hội được chuyển hóa thành động lực cho việc làm, đổi mới và tăng trưởng”, chuyên gia UNFPA nói.
Cuối tháng 7, ông Đinh Xuân Linh, 68 tuổi, ở Ba Đình (Hà Nội), nhập viện vì viêm bàng quang tái phát, trong khi đang điều trị tiểu đường, suy thận và trầm cảm. Ông đã ly hôn, sống một mình nhiều năm.
Trong những ngày nằm viện, ông khước từ mọi can thiệp. Bác sĩ khuyên gia đình nên tìm một hướng khác, bởi việc ở lâu trong viện dễ nhiễm khuẩn.
Chị Hạnh, con ông Linh cho biết gia đình đứng trước hai lựa chọn: đón bố về nhà thuê người chăm, hoặc đưa vào viện dưỡng lão. Sau khi họp bàn, các con gửi ông vào một trung tâm chăm sóc NCT ở phường Minh Khai.
“Không ngờ, bố tôi hồi phục rất nhanh” chị Hạnh kể. “Từ chỗ không chịu thay quần áo, không tắm, không ăn uống, giờ ông tự xúc ăn, uống thuốc đều, tỉnh táo hơn trước nhiều”.
Trong quá trình tìm nơi chăm sóc bố, chị Hạnh nhận ra có nhiều gia đình lúng túng như mình. Nơi chăm tốt thì chật, nơi rộng rãi lại xa; còn trung tâm bảo trợ xã hội thì không đủ điều kiện nhận. Cuối cùng, chị chấp nhận gửi bố vào viện dưỡng lão cách nhà hơn chục km, với chi phí khoảng 16 triệu đồng mỗi tháng.
“Tôi mong mỗi phường có một nhà dưỡng lão, có thể tận dụng lại trụ sở chính quyền cũ không dùng tới”, chị đề xuất. “Chỉ cần gần nhà để con cháu qua lại, người già vẫn thấy được thuộc về nơi quen thuộc”.
Giữa một xã hội đang già đi, mong muốn có một nơi cha mẹ được chăm sóc chu đáo, con cái yên lòng đang trở thành khát vọng chung của nhiều gia đình Việt.
Phan Dương – Quỳnh Nga
***
Định hướng phát triển mô hình dưỡng lão
Trong bối cảnh già hóa dân số đang diễn ra ở Việt Nam, việc xây dựng một mô hình dưỡng lão phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội trở nên cấp thiết và cần được xem là một trong những trụ cột của chính sách an sinh xã hội bền vững.
Tuy nhiên, mô hình chung vẫn chưa được định hình, bởi việc dựa vào gia đình hoàn toàn hay các trục chuyên môn trong mô hình dưỡng lão bán trú – nội trú chưa được xác lập rõ ràng.
Cần một tầm nhìn chiến lược
Hiện nay, hệ thống dịch vụ chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi tại Việt Nam còn nhỏ lẻ, phân tán và thiếu chuyên nghiệp. Số lượng các trung tâm dưỡng lão công lập rất hạn chế, chủ yếu tập trung tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Trong khi đó, các trung tâm tư nhân có mức chi phí cao, vượt ngoài khả năng chi trả của đa số người cao tuổi hoặc các gia đình có thu nhập trung bình. Đội ngũ nhân lực làm công tác chăm sóc người cao tuổi cũng đang thiếu hụt nghiêm trọng.
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, đến năm 2023, cả nước chỉ có khoảng 3.000 nhân viên công tác xã hội được đào tạo bài bản làm việc trong lĩnh vực chăm sóc người cao tuổi, trong khi nhu cầu thực tế cần ít nhất 10.000 người [1]. Chất lượng chăm sóc, tư vấn tâm lý và hỗ trợ phục hồi chức năng do đó chưa được bảo đảm, đặc biệt ở các vùng nông thôn hoặc khu vực khó khăn. Chúng ta đang cố gắng vận hành để đáp ứng nhu cầu hiện tại vẫn chưa đủ nhưng phải có những định hướng mô hình dưỡng lão cho bối cảnh mới và nhất là dữ liệu dự báo cho thấy đây là thách thức rất lớn.
Một khảo sát của Sở Y tế TP Hồ Chí Minh năm 2023 cho thấy, trong số hơn 13.000 người cao tuổi được khám sàng lọc tại cộng đồng, có tới 52,27% mắc cao huyết áp, 29,99% có nguy cơ mắc đái tháo đường, 3,05% có dấu hiệu trầm cảm, 19,8% có nguy cơ té ngã và gần 10% phải phụ thuộc
vào người khác trong sinh hoạt hằng ngày [2]. Những con số này cho thấy nhu cầu chăm sóc y tế và hỗ trợ dài hạn là vô cùng lớn, đòi hỏi phải có một hệ thống dịch vụ bài bản, dài hạn và chuyên biệt dành cho người cao tuổi. Đòi hỏi này không chỉ là những biện pháp nhỏ lẻ mà phải là các giải pháp có tầm nhìn như một chiến lược. Mô hình dưỡng lão như thế nào từ góc độ chính sách đến vận hành, quản trị chất lượng, bảo đảm phát triển bền vững, công bằng xã hội… là những yêu cầu rất lớn dành cho nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách, người làm đào tạo…
Mô hình chăm sóc công cộng ở Nhật Bản
Bằng cách đối sánh cho thấy Nhật Bản – quốc gia có tỷ lệ dân số già cao nhất thế giới với 28,7% dân số hơn 65 tuổi vào năm 2020 – đã triển khai từ năm 2000 hệ thống Bảo hiểm chăm sóc dài hạn toàn dân (Long-Term Care Insurance), nhằm tách trách nhiệm chăm sóc khỏi gia đình, xây dựng một hệ thống dịch vụ công – tư kết hợp, lấy cộng đồng làm nền tảng [3]. Hệ thống này bảo đảm quyền được chăm sóc của người cao tuổi, thúc đẩy sự chuyên môn hóa trong dịch vụ và minh bạch trong quản lý.
Người dân Nhật Bản từ 40 tuổi trở lên bắt buộc phải tham gia đóng bảo hiểm chăm sóc dài hạn, và khi đủ điều kiện (từ 65 tuổi hoặc mắc bệnh mạn tính liên quan đến lão hóa), họ được tiếp cận một hệ thống chăm sóc phân tầng, bao gồm: Chăm sóc tại nhà, bán trú, nội trú, hỗ trợ sinh hoạt, phục hồi chức năng, tư vấn tâm lý và các hoạt động cộng đồng. Chính quyền địa phương là đơn vị điều phối, cấp phép và giám sát chất lượng dịch vụ, giúp gắn kết các nguồn lực tại chỗ để hình thành mô hình “chăm sóc cộng đồng toàn diện” [4].
Một điểm đặc biệt của mô hình Nhật Bản là việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ trong chăm sóc: Từ robot hỗ trợ vận động, AI dự đoán rủi ro té ngã, đến các thiết bị theo dõi giấc ngủ và hệ thống cảnh báo sớm. Chính phủ Nhật không chỉ khuyến khích mà còn hỗ trợ tài chính cho các cơ sở ứng dụng công nghệ, giúp giảm tải gánh nặng cho nhân viên và người thân, đồng thời tăng cường chất lượng sống cho người cao tuổi [5].
Là chiến lược để bảo đảm an sinh xã hội bền vững
Kinh nghiệm của Nhật Bản ở trên cho thấy, Việt Nam cần phát triển một mô hình dưỡng lão mang tính tích hợp, linh hoạt, phù hợp với bối cảnh địa phương và điều kiện ngân sách cũng như đặc trưng văn hóa và sự tương tác xã hội. Trước hết, phải có sự đa dạng trong loại hình dịch vụ: Từ chăm sóc tại nhà, chăm sóc bán trú, lưu trú ngắn ngày đến các trung tâm dưỡng lão toàn thời gian. Mỗi dịch vụ cần gắn với đánh giá nhu cầu cụ thể, có hệ thống sàng lọc và phân loại mức độ cần chăm sóc. Việc chăm sóc không chỉ dừng lại ở y tế mà cần kết hợp phục hồi chức năng, chăm sóc tinh thần và hỗ trợ xã hội. Song song đó, việc huy động xã hội hóa cần được cụ thể hóa bằng các chính sách khuyến khích tài chính cho doanh nghiệp, tổ chức phi lợi nhuận và cá nhân tham gia lĩnh vực dưỡng lão. Có thể áp dụng mô hình hợp tác công – tư (PPP), nơi Nhà nước bảo đảm cơ sở hạ tầng và giám sát chất lượng, còn tư nhân cung cấp dịch vụ.
Một vấn đề cấp thiết là xây dựng hệ thống bảo hiểm chăm sóc dài hạn, tách biệt khỏi bảo hiểm y tế hiện nay. Chính sách này cần có sự đồng chi trả giữa người dân, Nhà nước và tổ chức xã hội. Hệ thống bảo hiểm được triển khai theo hướng đó giúp người cao tuổi giảm gánh nặng chi phí, tạo động lực cho các cơ sở dịch vụ hoạt động chuyên nghiệp, có trách nhiệm và minh bạch hơn.
Đội ngũ nhân lực cũng phải được chú trọng cả về số lượng và chất lượng. Các trường đại học cần mở rộng chỉ tiêu đào tạo chuyên ngành điều dưỡng lão khoa, công tác xã hội, tâm lý học và trị liệu phục hồi chức năng cũng như một số ngành khác có liên quan. Bên cạnh đó, cần xây dựng khung năng lực nghề nghiệp, chế độ đãi ngộ hợp lý và chương trình bồi dưỡng thường xuyên để giữ chân nhân lực. Vấn đề dự báo nguồn lực, các quy định đạo đức nghề nghiệp cũng là bài toán cần quan tâm giải quyết, bởi đây là lĩnh vực có thể xem là nhạy cảm và người cao tuổi là đối tượng “ranh giới yếu thế”…
Về phương diện chính sách, có thể quan tâm đến hai đề xuất: Thứ nhất, Quốc hội nên ban hành Luật Chăm sóc người cao tuổi, với các quy định rõ ràng về quyền lợi, nghĩa vụ, tiêu chuẩn dịch vụ, phân tầng chăm sóc và cơ chế tài chính [6]. Thứ hai, Chính phủ cần giao các địa phương thí điểm xây dựng mô hình “khu dân cư thân thiện với người cao tuổi” – nơi tích hợp y tế cơ bản, dịch vụ xã hội, không gian sinh hoạt cộng đồng và hỗ trợ công nghệ. Mô hình dưỡng lão bán trú, nội trú hay mô hình “các ngày trong tuần” cần được đối sánh, xây dựng và khai thác.
Mô hình dưỡng lão không chỉ là vấn đề riêng của ngành y tế hay phúc lợi xã hội mà còn là thước đo mức độ văn minh của một quốc gia. Trong bối cảnh già hóa dân số không thể đảo ngược, kéo giãn thì việc đầu tư xây dựng mô hình chăm sóc người cao tuổi bài bản, hiện đại và nhân văn là một trong những chiến lược quan trọng để bảo đảm an sinh xã hội bền vững. Việt Nam cần sớm chuyển từ tư duy “trợ giúp người già yếu” sang tư duy “trao quyền và hỗ trợ sống độc lập cho người cao tuổi”. Đây không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là sự chung tay của toàn xã hội vì một tương lai an toàn, nhân ái và có chất lượng cho mọi thế hệ trong bối cảnh không thể trì hoãn hơn.
Theo Tổng cục Thống kê, tính đến năm 2021, Việt Nam có khoảng 12,8% dân số từ 60 tuổi trở lên. Dự báo đến năm 2038, nhóm dân số này sẽ chiếm hơn 20% và vượt ngưỡng 25% vào năm 2050, tương đương hơn 27 triệu người. Sự thay đổi cơ cấu dân số này đặt ra hàng loạt thách thức cho hệ thống chăm sóc y tế, dịch vụ xã hội, đặc biệt là mô hình dưỡng lão.
[1] Bộ LĐ-TB&XH (2023), Thống kê nhân lực chăm sóc người cao tuổi.
[2] Sở Y tế TP Hồ Chí Minh (2023), Báo cáo kết quả khám sàng lọc người cao tuổi.
[3] Ikegami, N. (2007), “Public long-term care insurance in Japan”.
[4] MHLW Japan (2017), Comprehensive Community Care System.
[5] Rathmann, C. (2020), “Technology and eldercare in Japan”.
[6] Dự thảo Luật Người cao tuổi (sửa đổi) – Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2024).


