Kì 1: http://tranmygiong.blogspot.com/2016/12/nhung-thanh-ngu-co-xuat-xu-tu-tho-co-va.html
Kì 2:http://tranmygiong.blogspot.com/2016/12/nhung-thanh-ngu-co-xuat-xu-tu-tho-co.html
Kì 3: http://tranmygiong.blogspot.com/2016/12/nhung-thanh-ngu-co-xuat-xu-tu-tho-co_21.html
Kì 4: https://tranmygiong.blogspot.com/2016/12/nhung-thanh-ngu-co-xuat-xu-tu-tho-co_25.html
TS Nguyễn Ngọc Kiên
1) Khái niệm về thành ngữ
Thành ngữ là cụm từ hay ngữ cố định có tính nguyên khối về ngữ nghĩa, tạo thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa chung khác tổng số ý nghĩa của các thành tố cấu thành nó tức là không có nghĩa đen và hoạt động như một từ riêng biệt trong câu.
Như vậy có thể hiểu thành ngữ là tổ hợp từ cố định, hoàn chỉnh, bền vững về hình thái – cấu trúc và bóng bẩy về ý nghĩa. Tức là nghĩa của chúng có tính hình tượng hoặc/và gợi cảm.
Thành ngữ tiếng Hán phần lớn có nguồn gốc từ những câu truyện lịch sử, những điển cố, và sau khi hình thành thì cấu trúc của nó thường ổn định từ cổ chí kim. Hay nói cách khác, thành ngữ được dùng trong tiếng Hán hiện đại phần lớn được giữ nguyên trạng từ thành ngữ trong tiếng Hán cổ.
Trong tiếng Việt, thành ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài chủ yếu là gốc Hán được đọc theo âm Hán Việt hoặc được dịch sang tiếng Việt.
Trong bài viết này chúng tôi sẽ giới thiệu một số thành ngữ tiếng Hán có xuất xứ từ thơ cổ và điển cố được dịch sang tiếng Việt.
2) Một số thành ngữ có nguồn gốc từ thơ cổ và điển cố
(1) Nghiêng nước nghiêng thành
Thành ngữ “倾国倾城” [khuynh quốc khuynh thành] (nghiêng nước nghiêng thành) có nguồn gốc từ bài “Giai nhân ca” (佳人歌) của Lý Diên Niên (李延年). Chuyện rằng, vua Vũ Đế đời Hán (40-86 trước Công nguyên) có một người hầu tên là Lí Diên Niên, anh ta rất giỏi múa hát và thông hiểu âm luật, được nhà vua yêu mến, cưng chiều. Nhà vua cho xây cung điện Minh Quang và tuyển chọn những người con gái đẹp tuổi từ 15 trở lên vào cung để hầu hạ vua. Trong cung có tới gần 10 ngàn mĩ nữ nhưng vua vẫn chưa thấy ai đẹp như ý và thường lắc đầu than thở: Đời nay thiên hạ không có giai nhân tuyệt sắc! Một hôm, Lí Diên Niên múa hát mua vui cho nhà vua xem. Lí hát rằng:
方有佳人,
绝世而独立。
一顾倾人城,
再顾倾人国。
宁不知,倾城与倾国;佳人难再得
Phiên âm:
Bắc phương hữu giai nhân,
Tuyệt thế nhi độc lập.
Nhất cố khuynh nhân thành,
Tái cố khuynh nhân quốc.
Ninh bất tri, khuynh thành dữ khuynh quốc, Giai nhân nan tái đắc.
Dịch nghĩa:
Ở phương Bắc có một người đẹp,
đẹp nhất đời mà đứng riêng một mình.
Quay đầu lại một lần thì làm nghiêng thành trì của người ta,
quay đầu lại nhìn lần nữa thì làm nghiêng nước người ta,
Thà chẳng biết nghiêng nước với nghiêng thành, chỉ biết là người đẹp thì khó gặP.
Dịch thơ:(bản khuyết danh)
Bắc phương có một giai nhân
Dung nhan tuyệt thế cõi trần đứng riêng
Liếc nhìn, thành quách ngả nghiêng
Liếc thêm lần nữa nước liền lung lay
Thành nghiêng nước đổ mặc bay
Giai nhân há dễ gặp hoài được sao
Chị của vua Vũ Đế là Bình Dương công chúa đứng hầu bên cạnh bèn tâu: “Lý Diên Niên có một người em gái giỏi múa hát và đẹp tuyệt trần như trong bài ca đó”. Nhà vua cho vời người đẹp vào cung, xem mặt. Quả nhiên nhà vua bỗng xao xuyến, rạo rực như có một luồng điện chạy khắp người khi nhìn thấy nàng mỹ nữ nhan sắc tuyệt trần, yêu kiều, diễm lệ. Vua liền phong nàng làm làm chánh cung hoàng hậu và ngày đêm si mê, đắm đuối bên nàng. Từ đó xuất hiện thành ngữ “倾国倾城” [khuynh quốc khuynh thành] (nghiêng nước nghiêng thành) để chỉ người con gái đẹp.
Nhà thơ Bạch Cư Dị đời Đường đã để lại kiệt tác “Trường hận ca” miêu tả mối tình giữa Đường Minh Hoàng và Dương Qúi Phi trong đó cũng sử dụng thành ngữ này:
漢皇重色思傾國
御宇多年求不得
Phiên âm:
Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc
Ngự vũ đa niên cầu bất đắc
Dịch nghĩa:
Vua Hán trọng sắc đẹp, muốn có một người “nghiêng nước nghiêng thành”.
Ở ngôi bao năm tìm kiếm không được.
Trong tiếng Việt, “nghiêng nước nghiêng thành” cũng được sử dụng với ý nghĩa như vậy như một thành ngữ thuần Việt. Trong kiệt tác “Truyện Kiều”, đại thi hào Nguyễn Du đã tả sắc đẹp của nàng Kiều:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành họa một tài đành họa hai.
(2) Chuồn chuồn đạp nước
Ông Đỗ Phủ (杜甫) là người làm thơ nổi tiếng đời Đường. Hầu hết mọi người Việt Nam đều biết tới ông qua “Di chúc” của Hồ Chí Minh với câu thơ nổi tiếng “人生七十古來稀” [Nhân sinh thất thập cổ lai hi](Người thọ bảy mươi xưa nay hiếm)trong bài “Khúc giang” (曲江). Nguyên văn:
朝回日日典春衣
每日江頭盡醉歸
酒債尋常行處有
人生七十古來稀
穿花蛺蝶深深見
點水蜻蜓款款飛。
傳語風光共流轉
暫時相賞莫相違。
Phiên âm:
Hồi triều nhật nhật điển xuân y
Mỗi nhật giang đầu tận tuý quy.
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,
Nhân sinh thất thập cổ lai hy.
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện,
Ðiểm thuỷ thanh đình khoản khoản phi.
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,
Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.
Dịch nghĩa:
Ngày ngày khi ở trong triều đình ra về ta đem cầm cái áo xuân để mua rượu.
Mỗi ngày ta uống thật say ở đầu sông rồi mới trở về.
Nợ rượu thường ở nơi nào cũng có.
Người đời xưa nay ít ai thọ được tới bảy mươi tuổi.
Nhiều con bươm bướm châm hoa thấp thoáng hiện.
Những con chuồn chuồn dỡn nước dập dờn bay.
Hãy nói cho mọi người biết rằng: theo thời gian phong cảnh đều thay đổi.
Ta hãy tạm cùng nhau thưởng ngoạn, đừng nên để lỡ dịp.
Dịch thơ:(Bản dịch của nhà thơ Khương Hữu Dụng)
Áo chầu tan buổi cởi cầm tay,
Hằng bữa đầu sông về khướt say.
Luồn hoa bươm bướm chen chen lượn,
Điểm nước chuồn chuồn thoáng thoáng bay.
Quang cảnh, nhắn cho thường biến đổi,
Tạm vui xuân với, kẻo e hoài.
Bài thơ này cũng là xuất xứ của thành ngữ tiếng Hán “蜻蜓點水” (chuồn chuồn đạp nước). Thành ngữ này có nghĩa bóng: làm ăn hời hợt, chiếu lệ, qua loa cho xong chuyện, không sâu sát, kĩ càng. Thành ngữ này đã được người Việt dịch ra và mượn vào tiếng Việt. Còn có các biến thể: “chuồn chuồn đạp nước”, hoặc các biến thể: “chuồn chuồn chấm nước”, “chuồn chuồn lẹo nước”.
(3) Sư tử Hà Đông
Long Khâu cư sĩ là Trần Tạo tự Quý Thường, người đời nhà Tống, quê ở Vĩnh Gia, Trung Quốc. Vợ của Trần Tạo là người họ Liễu có máu Hoạn Thư hay ghen kinh khủng lại hung hăng. Trần Tạo rất sợ vợ nhưng rất tôn sùng đạo Phật. Hằng ngày Trần Tạo ngồi đọc kinh, vợ lấy làm bực, la hét om sòm, nhưng ông vẫn điềm nhiên không dám phản ứng gì.Tính tình của Trần Tạo cũng hào hoa, bạn bè đông, nên ở nhà thường có yến tiệc.
Một lần, Quý Thường mở tiệc, để thêm hứng thú và long trọng, Trần Tạo chiều khách, mời ca kỹ về ca hát mua vui. Vợ Trần Tạo ở nhà sau nổi máu ghen, lấy gậy đập vào tường, gầm thét om sòm khiến khách kinh hãi bỏ về. Trần Tạo hốt hoảng, gậy cầm trong tay mà bỏ rơi mất. Tô Đông Pha là bạn thân của Trần Tạo, thấy vậy Tô Đông Pha làm bài thơ 24 câu vừa châm biếm vừa cảm thương cho tình cảnh bạn, trong đó có đoạn:
龙丘居士亦可怜
谈空说法夜不眠
忽闻河东狮子吼
拄杖落手心茫然
Phiên âm:
Long Khâu cư sĩ hiền diệc khả liên,
Đàm không thuyết pháp dạ bất miên.
Hốt văn Hà Đông sư tử hống,
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên
Dịch nghĩa:
Thật đáng thương cho Long Khâu cư sỹ,
Miệng nói không nói có đêm ngủ không được,
Chợt nghe tiếng gầm rú của sư tử Hà Đông,
Gậy văng ra khỏi tay tâm thần hoảng loạn.
Dịch thơ:
Thật đáng thương thầy đồ Long Khâu,
Đọc kinh thuyết pháp suốt đêm thâu,
Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống,
Kinh hoàng bỏ gậy rớt nơi đâu.
Hai chữ “Hà Đông” là do Tô Đông Pha mượn câu thơ của Đỗ Phủ: 河东女儿身性柳 [Hà Đông nữ nhi thân tính Liễu] (cô gái Hà Đông người họ Liễu)vì vợ của Trần Tạo cũng họ Liễu. Và “Sư tử” do lời trong kinh Phật: Sư tử là chúa loài thú, mỗi khi rống lên thì các thú vật đều khiếp đảm để vừa chỉ tính ghen dữ của Liễu Thị, vừa chỉ Quý Thường là một tín đồ đạo Phật.
Thành ngữ “Sư tử Hà Đông” có xuất xứ từ đó và được dùng để chỉ người đàn bà hay ghen tuông, hung hãn, đanh đá, hay ức hiếp chồng. Thành ngữ này được tiếng Việt mượn vào khiến nhiều người lầm tưởng Hà Đông là thủ phủ của tỉnh Hà Tây (cũ), nay thuộc Hà Nội.
Nhà thơ trào phúng Tú Xương trong bài thơ vịnh cảnh lấy lẽ, có câu:
Hậu hạ đã cam phiền cát lũy,
Nhặt khoan còn ỏi tiếng Hà Đông.
4) Gương vỡ lại lành
“破镜重圆” [phá kính trùng viên (gương vỡ lại lành)là một thành ngữ nói lên cảnh vợ chồng đã ly tán sau lại được sum họp, đoàn viên.
Giai thoại kể rằng, Từ Đức Ngôn (徐德言) là tài tử trứ danh ở Giang Nam đời Nam Bắc triều, sau làm phò mã lấy em gái của Trần Hậu Chủ Trần Thúc Bảo là Lạc Xương công chúa (樂昌公主), rồi nhập triều đình làm chức Thị trung (quan cận thần), bộc lộ tài năng chính trị. Đương thời ông cùng phu nhân phu xướng phụ tuỳ thành một cặp giai ngẫu mọi người ai cũng phải ngưỡng mộ.;Sách “Bản sự thi” (本事詩) nói Lạc Dương công chúa là người “tài sắc quán tuyệt”.
Hai người yêu nhau, lấy nhau nhưng đúng vào lúc ấy giặc giã nổi lên, nhà Trần suy loạn. Ông nói với vợ rằng hai người thế nào cũng ly tán vì thời cuộc, rồi lấy tấm gương soi đập vỡ thành hai, mỗi người giữ một mảnh và hẹn nhau ngày rằm tháng giêng năm sau ra chợ Trường An tìm lại nhau. Nhà Trần mất, Lạc Dương công chúa bị bắt, bị bán làm nô tỳ cho Dương Tố (楊素) và được Dương Tố đặc biệt yêu mến. Một năm sau, Từ Đức Ngôn ra chợ thì gặp một thiếu nữ bán mảnh gương vỡ. Từ Đức Ngôn đem mảnh gương của mình ra ghép vào thì thấy vừa khít nên biết ngay đó là nửa gương của vợ. Người bán gương kể cho Từ Đức Ngôn nghe nỗi lòng của công chúa, Từ Đức Ngôn bèn lấy bút đề một bài ngũ ngôn:
鏡與人俱去,
鏡歸人不歸
無復嫦娥影,
空留明月輝。
Phiên âm:
Cảnh dữ nhân câu khứ
Cảnh quy nhân vị quy
Vô phục Hằng Nga ảnh
Không lưu minh nguyệt huy
Dịch nghĩa:
Người đi thì gương cũng đi,
Người về nhưng gương chưa về,
Bóng Hằng Nga đâu sao chẳng thấy,
Chỉ thấy ánh trăng mà thôi .
Lạc Dương công chúa đọc bài thơ, biết là thơ của chồng liền than khóc vật vã. Dương Tố hỏi nguyên do, khi biết chuyện, liền cho mời Từ Đức Ngôn đến, trả lại Lạc Dương công chúa cho chàng, vợ chồng lại được đoàn tụ. Đây cũng chính là điển cố “破镜重圆” [phá kính trùng viên] (gương vỡ lại lành).
Nhà thơ Tố Hữu đã viết trong bài “Ba mươi năm đời ta có Đảng”:
Đời ta gương vỡ lại lành
Cây khô cây lại đâm cành trổ hoa.
(5) Vật đổi sao dời
Vật đổi sao dời (物換星移 [vật hoán tinh di]) là một thành ngữ dùng để chỉ sự thay đổi to lớn, có nguồn gốc từ bài thơ Đằng Vương các (滕王閣) nổi tiếng của nhà thơ Vương Bột (王勃). Nguyên tác:
滕王高閣臨江渚,
佩玉鳴鸞罷歌舞。
晝棟朝飛南浦雲,
珠簾暮捲西山雨。
閒雲潭影日悠悠,
物換星移幾度秋。
閣中帝子今何在,
檻外長江空自流。
Phiên âm:
Đằng Vương cao các lâm giang chử
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
Họa đống triêu phi Nam phố vân
Chu liêm mộ quyển Tây sơn vũ
Nhàn vân đạm ảnh nhật du du
Vật hoán tinh di kỷ độ thu
Các trung đế tử kim hà tại ?
Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu.
Dịch nghĩa:
Gác Đằng Vương đứng cao ngất bên bờ sông,
ngày nay không còn nghe tiếng ngọc vàng rung của những người ca vũ nữa.
Những cột lớn vẽ mây như mây Nam phố lúc buổi sáng,
Những bức rèm cuộn lên như những trận mưa chiều ở vùng núi Tây sơn.
Bóng mây trên mặt đầm trôi đi mãi,
vật đổi sao dời đã biết bao mùa thu rồi.
Các bậc vương tôn ngày xưa ở trong gác này giờ ở nơi đâu,
Ngoài hiên sông Trường giang cứ trôi đi.
Dịch thơ:
Bên sông đây gác Đằng Vương,
Múa ca đã hết, ngọc vàng nào ai.
Rèm châu mưa cuốn ngàn Tây sớm chiều.
In đầm, mây vẩn vơ trôi,
Tang thương vật đổi, sao dời mấy thâu?
Đằng vương trong gác giờ đâu?
Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài.
(Bản dịch của Trần Trọng San)
Đọc kĩ bài thơ này ta sẽ hiểu sâu sắc hơn thành ngữ trên. Người Việt cũng hay sử dụng thành ngữ này. Nó gợi cho ta nhiều góc độ tâm trạng hoài cổ, bâng khuâng, thương tiếc một cái gì đẹp đẽ đã qua.
(6) Người đầu sông kẻ cuối sông
Thành ngữ “Người đầu sông kẻ cuối sông” dùng để chỉ sự xa xôi cách trở của đôi trai gái đang độ yêu nhau. Nó có xuất xứ từ một bài thơ Đường là “Trường tương tư” (長相思), của Lương Ý Nương (梁意娘) . Trong Tình sử chép rằng: Vào triều nhà Chu (周) đời Ngũ Quý (五季), có người con gái của Lương Tiêu Hồ (梁瀟湖) tên là Lương Ý Nương (梁意娘), cùng với Lý Sinh (李生) là họ hàng con cô con cậu. Lý Sinh thường qua lại rất nhiều lần. Nhân ngày trung thu ngắm trăng, ngầm hẹn ước với Ý Nương, hai người lưu luyến không rời. Sự việc lâu ngày lộ ra, Tiêu Hồ nổi giận, ngăn cấm hai người gặp nhau. Gặp ngày trời thu, Ý Nương viết bài thơ này. Bài thơ được nhiều người nhắc đến trong đó có hai đoạn trích dưới đây:
人道湘江深,
未抵相思畔。
江深終有底,
相思無邊岸。
我在湘江頭,
君在湘江尾。
相思不相見,
同飲湘江水。
Phiên âm:
Nhân đạo Tương Giang thâm
Vị để tương tư bạn
Giang thâm chung hữu để
Tương tư vô biên ngạn
Ngã tại Tương Giang đầu
Quân tại Tương Giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương Giang thủy
Dịch nghĩa:
Người bảo sông Tương sâu,
Nhưng chưa sâu bằng lòng thương nhớ.
Sông sâu còn có đáy,
Lòng thương nhớ thì không bến bờ.
Chàng ở đầu sông Tương,
Thiếp ở cuối sông Tương.
Nhớ nhau mà không thấy nhau,
Cùng uống nước sông Tương.
Dịch thơ:
Người bảo sông Tương sâu
Tương tư sâu gấp bội
Sông sâu còn có đáy
Tương tư chẳng bến bờ
Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau không gặp mặt
Cùng uống nước sông Tương.
(Bản dịch của Vũ Ngọc Khánh)
Thành ngữ “Người đầu sông kẻ cuối sông không chỉ nói lên sự cách trở bởi không gian mà còn nói lên được cái hoàn cảnh trớ trêu, ngang trái của hai kẻ yêu nhau mà vì một lí do nào đó phải xa nhau, nói lên một nỗi ưu hoài vạn kiếp của nhân tình thế thái.
Ở Việt Nam, trong những năm kháng chiến chống Mĩ, xuất hiện bài hát nổi tiếng “Anh ở đầu sông, em cuối sông” của Phan Huỳnh Điểu phổ thơ Hoài Vũ, trong đó có hai câu:
Anh ở đầu sông em cuối sông
Uống chung dòng nước Vàm
Thương nhau đã chín ba mùa lúa
Chưa ngày gặp lại, nhớ mênh mông!
Không biết khi sáng tác các tác giả có tham khảo thành ngữ hoặc tứ thơ trên không hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên?
(7) Một đi không trở lại
Một đi không trở lại (一去不復返) [nhất khứ bất phục phản]) là thành ngữ nói lên sự mất mát vĩnh viễn, không thể tìm thấy lại được và nó có xuất xứ từ bài Hoàng Hạc lâu (黃鶴樓) bất hủ của nhà thơ Thôi Hiệu đời Đường. Nguyên tác:
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
Phiên âm:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch nghĩa:
Người xưa đã cỡi hạc vàng bay đi mất,
Chỉ còn trơ lại Lầu Hoàng hạc tại mảnh đất này.
Hạc vàng một đi không trở lại,
Ngàn năm mây trắng vẫn bay dằng dặc,
Hàng cây đất Hán Dương rực rỡ bên dòng sông tạnh,
Cỏ thơm bãi Anh Vũ vẫn tốt tươi.
Lúc trời chiều đứng trông về làng cũ tự hỏi:
Quê hương ở chốn nào?
Khói sóng mịt mờ trên sông nước
Khiến cho người nổi mối ưu sầu.
Dịch thơ:
Người xưa cưỡi hạc đã lên mây,
Lầu hạc còn suông với chốn này.
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Ngàn năm mây bạc vẩn vơ bay.
Vàng gieo bên Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngắt châu Anh, lớp cỏ dày.
Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây!
(Bản dịch: Ngô Tất Tố)
Nếu ta hiểu được bài thơ trên thì ta thấy thành ngữ “Một đi không trở lại” không đơn thuần chỉ nói lên sự lên sự mất mát vĩnh viễn, không thể tìm thấy lại được mà nó còn nói lên tâm trạng cảm hoài trước quy luật của tạo vật là không có gì tồn tại vĩnh cửu.
Trong tiếng Việt, thành ngữ “một đi không trở lại” được sử dụng rộng rãi hơn, đôi khi nó được dùng trong các “tít” báo theo cả nghĩa đen. Chỉ cần bấm vào google.com trong vòng 0,17 giây cho ra 710.000 kết quả; chẳng hạn “Tại sao du khách nước ngoài đến Việt Nam một đi không trở lại”, nói về sự làm ăn chộp giật của ngành du lịch nước ta.
(8) Thanh mai trúc mã
Thanh mai trúc mã (青梅竹马) (thanh mai: mai xanh, trúc mã: ngựa trúc), thành ngữ này dùng để chỉ sự đẹp đôi hoặc duyên nợ lứa đôi và nó có nguồn gốc từ bài thơ Trường Can hành (長干行) của Lý Bạch. Bài thơ có 30 câu, có thể nói là một thiên diễm tình. Nguyên văn:
妾髮初覆額
折花門前劇;
郎騎竹馬來,
繞床弄青梅。
同居長千里,
兩小無嫌猜。
十四為君婦,
羞顏未嘗開;
低頭向暗壁,
千喚不一回。
十五始展眉,
願同塵與灰,
常存抱柱信,
豈上望夫台?
十六君遠行,
瞿塘灩澦堆;
五月不可觸,
猿聲天上哀。
門前遲行跡,
一一生綠苔。
苔深不能掃,
落葉秋風早。
八月蝴蝶黃,
雙飛西園草;
感此傷妾心,
坐愁紅顏老。
早晚下三巴,
預將書報家;
相迎不道遠,
直至長風沙
Phiên âm:
Thiếp phát sơ phú ngạch
Chiết hoa môn tiền kịch
Lang kỵ trúc mã lai
Nhiễu sàng lộng thanh mai
Đồng cư Trường Can lý
Lưỡng tiểu vô hiềm sai
Thập tứ vi quân phụ
Tu nhan vị thường khai
Đê đầu hướng ám bích
Thiên hoán bất nhất hồi
Thập ngũ thuỷ triển mi
Nguyện đồng trần dữ hôi
Thường tồn bão trụ tín
Khởi thướng Vọng Phu đài
Thập lục quân viễn hành
Cù Đường, Diễm Dự đôi
Ngũ nguyệt bất khả xúc
Viên thanh thiên thượng ai
Môn tiền trì hành tích
Nhất nhất sinh lục đài
Đài thâm bất năng tảo
Lạc diệp thu phong tảo
Bát nguyệt hồ điệp hoàng
Song phi tây viên thảo
Cảm thử thương thiếp tâm
Toạ sầu hồng nhan lão
Tảo vãn há Tam Ba
Dự tương thư báo gia
Tương nghênh bất đạo viễn
Trực chí Trường Phong Sa
Dịch nghĩa:
Khi tóc vừa buông trán,
hái hoa trước cổng chơi.
Chàng cưỡi ngựa tre đến,
quanh giường tung trái mai.
Trường Can cùng chung xóm,
cả hai đều thơ ngây.
Mười bốn, về làm vợ,
thiếp còn e lệ hoài.
Cúi đầu vào vách tối,
Gọi mãi, chẳng buồn quay.
Mười lăm, mới hết thẹn,
Thề cát bụi không rời.
Bền vững lòng son sắt,
há lên Vọng phu đài.
Mười sáu, chàng đi xa,
Cù Đường, Diễm Dự đôi.
Tháng năm không đến được,
Vượn buồn kêu trên trời.
Trước cổng vết chân cũ,
rêu xanh mọc um tùm.
Rêu nhiều không quét hết,
Gió thổi, lá vàng rơi.
Tháng tám bươm bướm vàng,
trên cỏ vườn bay đôi.
Cảnh ấy đau lòng thiếp,
Má hồng buồn phôi pha.
Khi chàng xuống Tam Ba,
nhớ gởi thư về nhà.
Thiếp sẽ mau đi đón,
Đến thẳng Trường Phong Sa.
Dịch thơ:
XÓM TRƯỜNG CAN
Tóc em vừa chấm bờ vai
Bẻ hoa dưới ánh ban mai trước nhà
Chàng từ cưỡi ngựa trúc qua
Nghịch đùa tung quả mơ hoa quanh giường.
Trường Can cùng ngụ lân hương
Hai ta đâu biết vấn vương là gì !
Mười bốn em bước vu quy
Về bên chàng có biết chi là tình
Nên thường cúi mặt lặng thinh
Mặc cho chàng gọi trăm nghìn không quay
Mười lăm rạng rỡ mày ngài
Nguyện cùng chàng hết trần ai tro tàn
Lòng tin ôm cột giữ giàng
Thì đâu em phải lên đàng vọng phu ?
Muời sáu chàng bước viễn du
Cù Đường, Diễm Dự mịt mù xa khơi
Tháng năm không thể đến nơi
Vượn buồn hót thảm bên trời bi ai
Trước sân còn đậm dấu hài
Nay rêu kín phủ đơn sai mấy lần
Rêu dày không quét được sân
Lá thu theo gió trải ngần thềm xưa
Tháng tám bướm dập dìu đưa
Phía tây vườn cỏ cho vừa nhớ thương
Cảnh vui lòng luống đọan trường
Đếm từng ngày tháng phấn hương phai nhòa
Bao giờ chàng đến Tam Ba
Nhớ thư tin báo về nhà đợi mong.
Đón chàng đâu ngại núi sông
Nguyện vì nhau, mặc Trường Phong …dãi dầu.
(Bản dịch của Đào Thái Sơn)
Như vậy có thể thấy, cả bài thơ của Lý Bạch tả mối tình thơ ngây của chàng trai và cô gái, hai người cùng ngụ trong xóm Trường Can, thuở nhỏ luôn luôn nô đùa quấn quít cùng nhau, bằng hai câu thơ: “Lang kị trúc mã lai. Nhiễu sàng lộng thanh mai.” (Chàng cưỡi ngựa tre đến, quanh giường đùa với trái mai xanh). Do đó, nói: “trúc mai” là chỉ tình yêu thắm thiết của một đôi trai gái.
Theo cách giải thích của học giả An Chi trên báo Sài gòn giải phóng online thì có khác đôi chút. Chẳng hạn: “Trúc mã” ở đây là gậy tre mà trẻ con lấy giả làm ngựa để cưỡi chứ không phải “ngựa tre”, “sàng” là ghế chứ không phải là giường.
(9) Mài sắt nên kim
Thành ngữ “mài sắt nên kim” (铁棒磨成针 / 铁柱磨成针) [thiết bổng ma thành châm / thiết trụ ma thành châm] được lưu truyền rộng rãi như một lời dạy, lời giáo huấn mọi người về ý chí bền bỉ trong công việc nói riêng, trong cuộc đời nói chung.
Đến như sắt mài mãi cũng thành kim, thì bất cứ việc gì cũng có thể làm được, miễn là chúng ta biết chịu khó khổ luyện, biết kiên trì nhẫn nại, không quản gian lao vất vả. Lời giáo huấn biểu hiện qua câu thành ngữ “mài sắt nên kim”, một mặt được nhận thức qua ngôn từ của nó mà mấu chốt là sự đối lập giữa hai hình ảnh sắt và kim, mặt khác, thông qua sự liên hệ tới giai thoại về cuộc đời của nhà thơ nổi tiếng đời Đường ở Trung Quốc – nhà thơ Lý Bạch.
Tương truyền, thuở niên thiếu, Lý Bạch là cậu bé không chịu khó học hành, ham chơi như bao đứa trẻ bình thường khác. Một hôm, cậu bé chán học, lẻn sang chơi ở chân núi phía Đông. Kỳ lạ quá! Trước mắt cậu bé là một bà lão đang cắm cúi mài một thanh sắt bên một tảng đá lớn. “Bà già tóc bạc đến dường kia mà lại chăm chắm mài một thanh sắt để làm gì nhỉ?” Cậu bé hết sức phân vân, bèn rón rén đến bên cạnh cụ già rồi cất tiếng hỏi:
– Cụ ơi, cụ mài sắt để làm gì vậy?
Bà lão ngoảnh mặt lên, hiền từ trả lời:
– Để làm kim khâu cháu ạ.
– Làm kim khâu ư? Thanh sắt thì làm thế nào mà trở thành cái kim khâu được? Cậu bé chất vấn bà lão.
– Mài mãi cũng phải được. Kẻ có công mài sắt thì có ngày nên kim chứ
– Bà lão trả lời một cách tin tưởng như vậy.
Lý Bạch nửa tin nửa ngờ hỏi lại
– Liệu hôm nay có xong được không hở cụ?
Bà lão thong thả trả lời hoà nhịp với động tác mài kim:
– Hôm nay không xong thì mai lại làm tiếp vậy, năm nay không xong thì sang năm tiếp tục làm, ngày lại ngày, già nhất định mài xong.
Nghe đến đây, Lý Bạch chợt hiểu ra và im lặng. Về nhà Lý Bạch thường ngẫm nghĩ về những lời của bà lão mà càng chuyên tâm học tập. Chẳng bao lâu, Lý Bạch trở thành nhà thơ lỗi lạc với những áng thơ Đường tuyệt mĩ, có một không hai trong nền văn học Trung Quốc.
Từ đó, trong dân gian lưu truyền câu tục ngữ “Chỉ yếu công phu thâm/ Thiết trụ ma thành châm” (只要功夫深, 铁柱磨成针), nghĩa là “có công mài sắt, có ngày nên kim”; trong đó có chứa thành ngữ “mài sắt nên kim”. Thoạt đầu, nó như một nhận xét về cuộc đời, văn nghiệp của Lý Bạch: từ chỗ lười học, nhờ sự tỉnh ngộ qua cuộc gặp gỡ với cụ già mà siêng năng, kiên trì học tập và cuối cùng trở thành tài. Nhưng dần dần câu tục ngữ “có công mài sắt, có ngày nên kim” được lưu truyền rộng rãi, vượt qua phạm vi của một cuộc đời, một sự nghiệp, trở thành một lời dạy, lời giáo huấn mọi người về ý chí bền bỉ trong công việc nói riêng, trong cuộc đời nói chung.
(Theo chuyện kể của Trịnh Mạnh)
Ở Việt Nam, ngoài thành ngữ “mài sắt thành kim” còn có tục ngữ “có công mài sắt, có ngày nên kim” cũng được sử dụng rộng rãi như một lời khuyên, răn dạy về đức tính kiên trì sẽ dẫn đến thành công, nhưng trên thực tế, ít người biết đến nguồn gốc của nó.
(10) Buôn tảo bán tần
Thành ngữ “buôn tảo bán tần” có xuất xứ từ bài thơ “Thái Tần” (采蘋) của Khổng Tử. Nguyên văn:
<于以采蘋?
南澗之濱。
于以采藻?
于彼行潦。
Phiên âm:
Vu dĩ Thái Tần,
Nam gián chi tân
Vu bỉ Thái Tảo
Vu bỉ hàng lạo
Dịch nghĩa:
Đi hái rau Tần,
Bên bờ khe phía nam,
Đi hái rau Tảo,
bên lạch nước kia.
Chú giải:
Tần: rau lục bình nổi trên mặt nước, người Giang Đông gọi là bèo.
Tân: bờ nước.
Tảo: rong tụ, tảo ở đáy nước, cọng như ngọn cây thoa, lá như cỏ bồng.
Hành lão: cái rãnh nước mưa chảy cuốn đi.
Nước ở phía nam chịu sự giáo hoá của Văn Vương, vợ của quan đại phu năng đi việc cúng tế, người nhà của nàng mới kể lại việc ấy mà khen tặng.
(Theo chú giải của Chu Hy /于以采蘋?)
Dịch thơ:
Để mà đi hái rau tần,
Núi nam hay mọc ở gần bờ khe.
Tảo kia ta hái luôn về,
Bên đường nước chảy dầm dề sau mưa.
(Bản dịch Tạ Quang Phát)
Theo cách chú giải truyền thống thì câu thơ trên ca ngợi người “vợ hiền dâu thảo”, chăm chỉ hái rau Tần, rau Tảo về làm cỗ cúng tổ tiên. Trong truyền thống văn hóa Trung Quốc, “Tảo Tần” tượng trưng cho đức tính siêng năng, chịu khó, hay làm hay làm của người phụ nữ. Thành ngữ “buôn tảo bán tần” đã xuất hiện trong Kinh Thi.
Ở Việt Nam, ý biểu trưng của “Tảo Tần” cũng được sử dụng nhiều trong văn học cổ. Chẳng hạn, trong truyện Phạm Tải – Ngọc Hoa:
Sớm khuya chăm việc tảo tần
Thờ cha kính mẹ đôi lần chẳng sai
Về sau: thành ngữ “buôn tảo bán tần” được dùng với nghĩa rộng hơn, chỉ đức tính đảm đang việc nhà của người phụ nữ. Chẳng hạn:
Cô Hai buôn tảo bán tần
Cô Ba đòi nợ chỗ gần chỗ xa
(Ca dao)
(11) Bãi bể nương dâu
Thành ngữ “bãi bể nương dâu” nói về những thay đổi lớn trong cuộc đời và trong xã hội. Thành ngữ này bắt nguồn từ thành ngữ tiếng Hán “滄海桑田” [thương hải tang điền], liên quan tới câu chuyện tiên Phật được lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Tương truyền, thời Đông Hán có ông Phương Bình, học giỏi tài cao, thi đỗ đạt và được bổ nhiệm làm quan. Sau một thời gian thi thố với đời, Phương Bình đã bỏ quan đi tu. Sau đó, ông đắc đạo và trở thành Phật. Một lần Phật Phương Bình giáng xuống nhà Thái Kinh (người đời Hậu Hán) cho mời tiên nữ Ma Cô đến. Ma Cô nói với Phương Bình rằng: “接侍以来已见,东海三为桑田” [Tiếp thị dĩ lai dĩ kiến, Đông hải tam vi tang điền]; nghĩa là “Từ khi hầu chuyện với ông, tôi đã thấy bể Đông ba lần biến thành ruộng dâu”.
Câu chuyện này được lưu truyền rộng rãi trong dân gian và được người đời chắt lọc lấy cái tinh chất để phản ánh sự đổi thay của trời đất và cuộc sống. Trong văn học Trung Quốc, hình ảnh “bãi bể nương dâu” trở thành tứ cho nhiều câu thơ, bài thơ nổi tiếng. Chẳng hạn, trong một bài thơ của Tô Thức đời Tống có câu: “不惊渤澥桑田变” [Bất kinh bột giải tang điền biến]. Nghĩa là: “Không sợ bể Đông biến thành ruộng dâu”. Cũng nhờ câu chuyện trên mà về sau trong tiếng Hán xuất hiện thành ngữ “滄海桑田” [thương hải tang điền].
Bài hát mở đầu và kết thúc bộ phim “Tây du kí” của đạo diễn Dương Khiết có tên “Ngũ bách niên tang điền thương hải”, nhạc Hứa Cảnh Thanh, lời Diêm Túc có đoạn:
五百年桑田滄海,
頑石也長滿青苔,
長滿青苔。
五百年桑田滄海,
頑石也長滿青苔,
長滿青苔。
只一顆心兒未死,
往看逍遙自在,
逍遙自在。
哪怕是野火焚燒
Ngũ bách niên tang điền thương hải,
Ngoan thạch dã trường mãn thanh đài,
Trường mãn thanh đài.
Ngũ bách niên tang điền thương hải,
Ngoan thạch dã trường mãn thanh đài,
Trường mãn thanh đài
Chỉ nhất khoả tâm nhi vị tử,
Hướng vãng khán tiêu dao tự tại,
Tiêu dao tự tại.
Na phạ thị dã hoả phần thiêu
Dịch thơ:
Năm trăm năm vật đổi sao dời
Đá vô tri cũng ngậm ngùi rêu xanh,
Năm trăm năm! năm trăm năm!
Ngũ hành Sơn nặng, giam cầm thân ta.
Bao ngày bão tuyết sương sa
Chim bay hút bóng, mắt nhoà cánh chim…
Còn đây rừng rực trái tim,
Thương về chốn cũ dõi tìm tiêu dao.
Anh hùng ngang dọc Trời cao,
Sá chi lửa đốt, sợ nào giá băng.
(Bản dịch Hoàng Tâm)
Tiếng Việt đã mượn thành ngữ này theo lối mượn ý dịch lời. Về ý nghĩa, “bãi bể nương dâu” cũng nói đến sự đổi thay thế sự với bao nỗi nuối tiếc, ngậm ngùi. Nó thường xuất hiện trong văn học cổ điển. Chẳng hạn, trong bài “Ai tư vãn” của Lê ngọc Hân khóc vua Quang Trung:
Phút giây bãi bể nương dâu
Cuộc đời là thế biết hầu nài sao.
Hoặc:
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu.
(Nguyễn Gia Thiều – Cung oán ngâm khúc)
Trong khi sử dụng, các tác giả thường rút gọn “bãi bể nương dâu” thành “bể dâu” hay “dâu bể”. Dạng thức này sở dĩ tồn tại được vì nó vẫn có khả năng khiến cho người đọc liên tưởng tới điển tích đã nói trên. Trong kiệt tác “Truyện Kiều” Nguyễn Du đã không dưới hai lần dùng thành ngữ này ở dạng rút gọn:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
Cơ trời dâu bể đa đoan
Một nhà để chị riêng oan một mình
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
Gần nghĩa với “bãi bể nương dâu”, trong tiếng Việt còn có các thành ngữ “sông cạn đá mòn” và “vật đổi sao dời”. Những thành ngữ này đều nói về sự thay đổi lớn lao của cuộc đời, của sự thế, nhưng không có sắc thái ngậm ngùi, nuối tiếc như “bãi bể nương dâu”. Về phạm vi sử dụng, các thành ngữ “vật đổi sao dời”, “sông cạn đá mòn” thường chỉ nói về sự thay đổi của thiên nhiên, của trời đất trong sự so sánh với cái bất biến của tấm lòng son sắt, chung thủy. Chẳng hạn: “Bắc Nam ta vẫn là con một nhà” (Ca dao)
Đặc biệt, những thành ngữ này thường dùng trong những lời thề ước, chẳng hạn:
Dẫu rằng vật đổi sao dời
Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
Dù cho sông cạn đá mòn
Còn non còn nước vẫn còn thề xưa
(Tản Đà – Thề non nước)
(12) Muôn hồng nghìn tía
Thành ngữ “muôn hồng nghìn tía” (万紫千红) [vạn tử thiên hồng], hình dung trăm hoa đua nở, nhiều màu rực rỡ, tạo nên cảnh sắc lộng lẫy, vô cùng tươi đẹp. Nghĩa bóng: vạn vật phong phú đa sắc màu ; cảnh tượng xã hội phồn vinh, thịnh vượng. Nó có xuất xứ từ bài thơ “春日” [Xuân nhật] của Chu Hy đời Nam Tống. Nguyên văn:
勝日尋芳泗水濱,
無邊光景一時新。
等閒識得東風面,
萬紫千紅總是春。
Phiên âm:
Thắng nhật tầm phương Tứ thuỷ tân,
Vô biên quang cảnh nhất thời tân.
Đẳng nhàn thức đắc đông phong diện,
Vạn tử thiên hồng tổng thị xuân.
Dịch nghĩa
NNgày đẹp trời, đi tìm hoa ở bến Tứ.
Quang cảnh bao la mỗi lúc một đổi mới.
Dễ gì nhìn thấy mặt gió đông.
Muôn hồng nghìn tía đều thuộc về mùa xuân cả.
Dịch thơ
Bến Tứ trời quang dạo gót chân,
Cảnh nào là cảnh chẳng thanh tân.
Gió xuân đã để người xem mặt,
Muôn tía ngàn hồng một sắc xuân.
(Bản dịch của Nam Trân)
Trong tiếng Việt, “muôn hồng nghìn tía” thường xuất hiện trong các tác phẩm thơ hiện đại với các biến thể “nghìn tía muôn hồng”, “trăm tía nghìn hồng”. Chẳng hạn:
Tay em ôm ấp bên lòng
Thân em, nghìn tía muôn hồng cũng thua
(Xuân Diệu – Thân em)
Phố xá thênh thang mùa lễ hội
Trăm hồng nghìn tía vẽ tranh xuân
Riêng em yểu điệu màu thiên lý
Nón múa cho trời bỗng thêm duyên
(Mường Mán – Hương sắc tháng Giêng)
Người viết bài này, trong một lần thăm động Ngườm Ngao ở Trùng Khánh Cao Bằng, đã bị “hút hồn”, choáng ngợp trước vẻ đẹp kỳ bí của hang động, đã cảm tác:
Thác vàng, bạc giữa đài sen
Muôn hồng ngàn tía đua chen diệu kì!
(Nguyễn Ngọc Kiên – Thơ viết ở Ngườm Ngao)
(13) Tan xương nát thịt
“Tan xương nát thịt” là thành ngữ gốc Hán 粉身碎骨 [phẩn thân toái cốt], nghĩa là nghiền vụn xương, làm nát thân mình. Nghĩa bóng: vì một mục đích nào đó hoặc vì nghĩa cả mà liều hi sinh xương thịt không tiếc thân mình.
Thành ngữ “粉身碎骨” có xuất xứ từ bài thơ “石灰吟” [Thạch hôi ngâm] của 于谦 (Vu Khiêm) đời Minh. Nguyên tác:
千錘萬擊出深山,
烈火焚燒若等閒。
粉身碎骨全不怕,
要留清白在人間。
Phiên âm:
Thiên chuỳ vạn kích xuất thâm san,
Liệt hoả phần thiêu nhược đẳng nhàn.
Phẩn thân toái cốt toàn bất phạ,
Yếu lưu thanh bạch tại nhân gian.)
(Đầu đề có bản chép là: “詠石灰” [Vịnh thạch hôi], nghĩa là Vịnh đá vôi. Câu thứ ba là: 粉身碎骨全不顧[Phẩn thân toái cốt toàn bất cố]).
Dịch thơ:
Đục tận non xanh lấy đá về
Lửa hồng thiêu đốt có hề chi
Nát thịt xương tan nào có sợ
Chỉ mong thanh bạch tiếng còn ghi.
Tiếng Việt đã mượn thành ngữ này theo lối mượn ý dịch lời là “tan xương nát thịt”. Ngoài cách hiểu như trên, theo giải thích của Từ điển tiếng Việt, (NXB Đà Nẵng, 2006, tr. 888): “Chết một cách thê thảm. Ví dụ: Dù tan xương nát thịt cũng cam lòng.”
Thành ngữ này thường được sử dụng trong thơ ca, trong đó các từ có thể hoán đổi vị trí cho nhau. Đầu thế kỉ XX, nhà thơ Phạm Tất Đắc đã viết tập thơ “Chiêu hồn nước” bất hủ, gồm 198 câu song thất lục bát, với lời lẽ thống thiết dấy lên lòng yêu nước của người Việt trước cảnh nước mất nhà tan. Bài thơ đã trở thành tài sản vô giá trong kho tàng văn học cách mạng Việt Nam, trong đó có đoạn:
Hồn hỡi Hồn, con Hồng cháu Lạc!
Bấy lâu nay giặc giả chiến tranh,
Bấy lâu thịt nát xương tan,
Bấy lâu tím ruột thâm gan vì Hồn.
(Phạm Tất Đắc – Chiêu hồn nước)
Nhà thơ Tố Hữu cũng đã không dưới hai lần sử dụng thành ngữ này trong các tác phẩm của mình. Chẳng hạn:
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn xương tan, thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh…
(Tố Hữu – Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
Đứng lên thân cỏ, thân rơm
Búa liềm không sợ súng gươm bạo tàn!!
Máu có chảy, xương tan thịt nát
Bớ công nông! Tiếng hát càng cao
(Tố Hữu – Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Trong bài thơ sau của Luân Tâm cũng sử dụng thành ngữ “tan xương nát thịt” ở dạng đảo trật tự từ cho phù hợp để diễn tả ý nghĩa “cho dù có thế nào chăng nữa thì cũng không bao giờ sai lời thề ước”:
Thăm lại vườn xưa thăm bờ tre
Cỏ cây còn nhớ chân lưu lạc
Thịt nát xương tan chẳng lỗi thề?
(Luân Tâm – Hoa tàn)
(14) “Phiên vân phúc vũ” (翻云、覆雨)
Thành ngữ “Phiên vân phúc vũ” (翻云、覆雨) là dạng rút gọn của “Phiên thủ vi vân, phúc thủ vi vũ” (翻手为云、覆手为雨). Ý nghĩa của thành ngữ này là chỉ sự thay đổi như chong chóng, không biết đâu mà lần. Nghĩa bóng chỉ những người hay thủ đoạn, phản phúc, lèo lái, đảo điên. Nó có xuất xứ từ bài thơ “贫交行” [Bần giao hành] của 杜甫 (Đỗ Phủ). Nguyên tác:
翻手为云复手雨,
纷纷轻薄何须数。
君不见管鲍贫时交,
此道今人弃如土。
Phiên âm:
Phiên thủ vi vân, phúc thủ vũ,
Phân phân khinh bạc hà tu sổ ?
Quân bất kiến Quản Bão bần thì giao,
Thử đạo kim nhân khi như thổ.]
Dịch nghĩa:
Nghiêng bàn tay làm mây, úp bàn tay làm mưa.
Bọn người khinh bạc cần chi đếm.
Bạn chẳng thấy Quản Trọng và Bão Thúc Nha bạn với nhau lúc nghèo.
Đạo ấy người đời nay vứt đi như vứt hòn đất.
Dịch thơ:
Mây mưa tráo trở bàn tay,
Những tuồng khinh bạc đời này biết bao.
Không coi giao nghị Quản Bào,
Mà nay đạo ấy rẻ sao như bùn.
(Bản dịch của Trần Trọng Kim)
Câu thơ trong bài sử dụng thủ pháp khoa trương đặc sắc: “翻手为云复手雨”, sau biến ra thành ngữ: “翻手为云、覆手为雨” nói rút gọn là “翻云、覆” hàm ý là ngửa bàn tay là mây, úp bàn tay là mưa, với ý nghĩa như đã phân tích ở trên.
Tương tự như “Phiên vân phúc vũ”, tiếng Việt có thành ngữ “sớm nắng chiều mưa”.Thành ngữ này có thể tả thực, chẳng hạn khi nói về thời tiết Sài Gòn “sớm nắng chiều mưa, Còn giữa trưa thì chỗ mưa chỗ nắng.”Nó thường được dùng để miêu tả tính khí thất thường của con người nhất là phụ nữ và sử dụng nhiều trong các đầu báo. Chẳng hạn: Sol Campbell: sớm nắng chiều mưa, (Việt báo, 31/7/2006); Bạn gái “sớm nắng chiều mưa” (Vnexpress, 17/10/2013).
Không những thế, “sớm nắng chiều mưa” còn được dùng để biểu thị sự thay đổi, diễn biến thất thường của sự vật. Chẳng hạn: Sớm nắng chiều mưa như… giá dầu, (Thái Nguyên online, 15/01/2009); Giá ớt “sớm nắng chiều mưa” (Tin tức nông nghiệp, 25/4/2014), sau đó được các báo “Công thương điện tử” và “NN thị trường” dẫn lại.
Thành ngữ “sớm nắng chiều mưa” cũng được sử dụng nhiều trong thơ ca. Chẳng hạn, trong bài thơ sau của Tố Hữu:
Thù bạn đời nay có khác xưa,
Nghĩa tình e sớm nắng chiều mưa?
Chợ trời thật giả đâu chân lý?
Hàng hoá lương tâm cũng thiếu thừa?
(Tố Hữu – Tâm sự)
Hoặc:
Anh đừng về nữa cánh đồng sim
Đã chín lịm nhưng người quên không hái
Em lang thang trong thực tại
Vơ vẩn trách trời sao sớm nắng chiều mưa.
Anh đừng về nữa những buổi chiều thưa
Nắng ngưng chảy bóng mình như mờ ảo
(Thuỳ Dương – Anh đừng về)
Các tác giả cũng thường hay hoán đổi vị trí các từ vì lí do hiệp vần. Chẳng hạn:
Tình em nắng sớm mưa chiều
Tâm em còn có bao nhiêu đường tròn
(Nguyễn Ngọc Kiên – Tình anh và em)
Khi để nói về những người hay thủ đoạn, tráo trở, lật lọng, người Việt cũng dùng thành ngữ “trở mặt như trở bàn tay”…
(Hết)
Nguyễn Ngọc Kiên