Chào các bạn,
Mạ, người anh chị em của chúng ta, có rất nhiều điều chúng ta không biết. Chị Phượng đã giới thiệu ở đây – Dân ca Dân nhạc VN – Dân ca Mạ:. Dưới đây sẽ trích dẫn lời giới thiệu trong bài chị Phượng.
Mong sao văn hóa của anh chị em Mạ được gìn giữ đến mai sau.
PTH
***
“Người Mạ (có tên gọi khác Chau Mạ, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung, Mạ Ngăn, Cqâu Mạ, Chi Hạ. Mạa) là dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Tiếng dân tộc Mạ thuộc ngữ chi Ba Na của ngữ tộc Môn-Khmer. Người Mạ có gốc tích Indonésien.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Mạ ở Việt Nam có dân số 41.405 người, cư trú tại 34 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Mạ cư trú tập trung tại các tỉnh: Lâm Đồng (31.869 người, chiếm 77,0% tổng số người Mạ tại Việt Nam), Đắk Nông (6.456 người), Đồng Nai (2.436 người), Bình Phước (432 người), Sài Gòn (72 người).
Bản đồ các dân tộc nằm trong thị trấn ĐẠTẺH – huyện DATEH – tỉnh Lâm Đồng.
Rất ít người biết rằng trước đây cả vùng Đồng Nai thượng thuộc Tỉnh Lâm Đồng có một “Tiểu vương quốc” của người “Mạ” nằm giữa “Chân Lạp (Khmer)” và “Chiêm Thành (Champa)“.
“Tiểu vương quốc” này mờ dần trên con đường Nam tiến của người Việt và bị xoá nhòa vào thế kỷ 17 khi cả một vùng của “Chân Lạp” và “Chiêm Thành” thuộc về “Việt Nam“.
“Tiểu quốc Mạ” là một “cổ vương quốc” của các bộ tộc mà phần lớn là người Mạ ở khu vực cao nguyên Di Linh thuộc nam Tây Nguyên, Việt Nam, được hình thành từ khoảng cuối thế kỷ 15 và chấm dứt sự tồn tại sau khi phân rã ra thành các bộ tộc riêng biệt vào khoảng cuối thế kỷ 17.


Lãnh thổ người Mạ đã từng ổn định trong lịch sử, khiến cho một số tài liệu gọi nó là “Tiểu vương quốc Mạ” hoặc “Xứ Mạ“. Lãnh thổ người Mạ rất rộng, nhưng đến cuối thế kỷ 17 và đặc biệt là dưới ách thống trị của người Pháp, người Mạ đã rút sâu vào rừng núi để bất hợp tác và chống chính quyền này. Địa bàn vùng Mạ đã bị thu hẹp lại trong phạm vi một số xã của huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng ngày nay.
Tộc người Mạ đã xác lập được chế độ phụ hệ vững chắc trong hôn nhân gia đình. Đây là điều khác nhau giữa người Mạ với người K’ho, Chil, Lạt và Mnông. Trong tập tục hôn nhân của tộc người Mạ nhà trai làm chủ động, nhưng sau lễ cưới chú rể phải sang ở nhà vợ, đến khi nộp đủ đồ sính lễ cho nhà gái mới được đưa vợ về ở hẳn nhà mình.


Người Mạ sống thành từng bon (làng), mỗi bon có từ 5 đến 10 nhà sàn dài (nhà dài là nơi ở của các thế hệ có chung huyết thống). Đứng đầu bon là quăng bon (già trưởng làng). Người Mạ làm nương rẫy trồng lúa và cây khác như ngô, bầu, bí, thuốc lá, bông… Công cụ sản xuất thô sơ, có các loại xà-gạt, xà-bách, dao, rìu, gậy chọc lỗ. Trong tỉnh Lâm Đồng (huyện Cát Tiên), người Mạ có làm ruộng nước bằng kỹ thuật lùa cả đàn trâu xuống ruộng để trâu giẫm đất đến khi sục bùn thì gieo lúa giống (xạ lúa).
Người Mạ nuôi trâu, bò, gà, vịt, ngan… theo cách thả trâu, bò vào rừng sống thành đàn, chỉ khi cần giết thịt hoặc giẫm ruộng mới tìm bắt về. Phụ nữ Mạ nổi tiếng về nghề dệt vải truyền thống với những hoa văn tinh vi hình hoa lá, chim thú với nhiều màu sắc. Nghề rèn sắt nổi tiếng ở nhiều làng. Họ tự luyện quặng lấy sắt để rèn các công cụ sản xuất và vũ khí như xà gạt lưỡi cong, lao… Ở vùng ven Đồng Nai, người Mạ làm thuyền độc mộc để đi lại, vận chuyển và đánh cá trên sông.


Hút thuốc là một thói quen của người dân tộc Mạ cũng như uống rượu. Họ hút bằng ống điếu, quấn lá, đàn bà ưa ăn thuốc.
Nhà người Mạ không chỉ có những đặc trưng đáng chú ý mà còn có thể “đại diện” cho nhà của người K’Ho, Chil trên cao nguyên Lâm Đồng. Mạ là cư dân lâu đời trên mảnh đất này. Hiện nay nhà người Mạ đã có rất nhiều thay đổi. Nhà sàn chỉ còn ở những vùng cao, vùng thấp nhà đất đã chiếm ưu thế. Nhà ở cổ truyền của người Mạ là nhà sàn dài tới 20–30 m (nay đã hiếm). Nay vẫn là nhà sàn nhưng là nhà ngắn của các gia đình nhỏ.
Bộ khung nhà với ba vì, hai hoặc bốn cột. Kết cấu đơn giản thường là ngoãm tự nhiên và buột lạt. Mái hồi khum tròn nhưng không có “sừng” trang trí. Hai mái chính cũng hơi khum nên mặt cắt của nóc có hình “parabôn”. Mái nhà rất thấp nên phần mái bên trên cửa, người ta phải làm vồng lên để ra vào khỏi đụng đầu.


Tổ chức mặt bằng sinh hoạt cũng có những đặc điểm đáng chú ý: khu vực giữa nhà là nơi sinh hoạt chung của mọi gia đình (tiếp khách, cúng bái…), nơi này có bàn thờ thần bếp và có một cái cột để buộc ché rượu cần khi tiếp khách. Còn dưới chân vách hậu là một dãy dài những ú, ché đựng rượu cần… Các hộ gia đình ở về hai bên của khu trung tâm.
Phần diện tích và không gian trong nhà dành cho các gia đình cũng có những đặc điểm rất dễ nhận: giữa nhà là một kho thóc, mặt sàn kho các mặt sàn nhà khoảng trên 1 mét.
Dưới gầm kho thóc đặt bếp. Trên bếp có dựa treo. Giáp vách hậu là sạp dành cho mọi thành viên trong gia đình. Giáp vách tiền là một sạp nhỏ và thấp (khoảng 70–80 cm) trên để bát, đĩa, vỏ bầu khô và các thứ lặt vặt khác.

Nhà người K’Ho hoặc Chil về hình thức thì nhà của họ cũng giống nhà người Mạ. Cái khác ở cách bố trí trong nhà là giáp vách tiền, cái sạp ở nhà người Mạ thì người K’ho còn kết hợp làm chuồng hà.
Trang phục người Mạ nam thường để tóc dài búi sau gáy, ở trần, đóng khố. Khố cũng có nhiều loại khác nhau về kích thước và hoa văn trang trí. Loại khố trang trọng có đính hạt cườm, tua dài. Bên cạnh đó họ còn mặc áo chui đầu, xẻ tà, vạt sau dài hơn vạt trước che kín mông. Áo có các loại: tay ngắn, tay dài . Thủ lĩnh búi tóc cắm lông chim có bộ khiên giáo kèm theo.
Phụ nữ người Mạ để tóc dài búi sau gáy. Xưa họ ở trần mặc váy, có bộ phận mặc áo chui đầu. Áo nữ mặc vừa sát thân, dài tới thắt lưng, không xẻ tà, vạt trước và sau áo bằng nhau; cổ áo tròn thấp. Tổng thể áo chỉ là hình chữ nhật màu trắng. Nửa thân dưới áo trước và sau lưng được trang trí hoa văn các màu đỏ, xanh là chính trong bố cục dải băng ngang thân với các mô típ hoa văn hình học là chủ yếu. Chiều dọc hai bên mép áo được dệt viền các sọc trang trí. Váy là loại váy hở được dệt trang trí hoa văn với những phong cách bố cục đa dạng. Về cơ bản là các sọc: màu xanh, đỏ, vàng, trắng trên nền chàm chủ yếu là hoa văn hình học theo nguyên tắc bố cục dải băng ngang truyền thống. Có trường hợp nửa trên váy dệt trang trí hoa văn kín trên nền sáng (trắng) với hoa văn hình học màu đỏ xanh.


Nam nữ thường thích mang vòng đồng ở cổ tay có những ngấn khắc chìm – ký hiệu các lễ hiến sinh tế thần cầu mát cho chủ nhân nó. Nam nữ đều đeo hoa tai cỡ lớn bằng đồng, ngà voi, gỗ; cổ đeo hạt cườm. Phụ nữ còn mang vòng chân đồng nhiều vòng xoắn.
Kho tàng văn học dân gian Mạ gồm nhiều truyện cổ, truyền thuyết, huyền thoại độc đáo và những bài dân ca trữ tình “Tam bớt”. Nhạc cụ truyền thống có bộ chiêng đồng 6 chiếc không núm. Khi hoà tấu có trống bịt da trâu đánh giáo đầu, giữ nhịp và đổ hồi trước khi kết thúc. Con trai Mạ thường thổi khèn bầu, sáo trúc, tù và sừng trâu, khèn sừng trâu, đàn lồ ô, sáo trúc 3 lỗ gắn vào trái bầu khô.”
***
1. Cồng chiêng trong lễ cúng đường lên rẫy || Dân tộc Mạ, Việt Nam 2. Nghi thức cầu Giàng và Bài múa Mừng lúa mới – Cồng chiêng Tây Nguyên dân tộc Châu Mạ 3. Chauma Dambri (Người Châu Mạ ở Dambri) (Chú ý: con voi dances theo tiếng trống)

