Thừa thầy, thiếu thợ

TĐH: Các quý vị nói về “trường nghề” rất nhiều ở đây. “Trường nghề” ở VN hiện nay là một bế tắc cho chính trường nghề (vì vào trường nghề là không ngóc đầu lên cao hơn được, và các em không muốn học trường nghề) và cũng là bế tắc cho phổ cập giáo dục đại học nước nhà.

Giải pháp là có nhiều cử nhân với các bộ môn chuyên ngành, như cử nhân kỹ sư cơ khí, kỹ sư xây dựng, kế toán, kỹ sư IT, kỹ sư giao thông…

Hoặc nếu chưa muốn xóa bỏ cao đẳng nghề, thì phải có cơ chế liên thông đương nhiên và dễ dàng với các đại học để các em tốt nghiệp cao đẳng nghề chỉ cần học thêm 2 năm là có cử nhân, mà không bị đòi hỏi lôi thôi gì cả – hoàn toàn không kỳ thị các em cao đẳng nghề.

Phổ cập giáo dục đại học phải là ưu tiên giáo dục số một của Việt Nam, nếu ta muốn đuổi kịp thế giới.

***

Nhân lực Việt Nam trước bài toán “thừa thầy thiếu thợ”

 15:35 28/06/2025

Trong khi nhiều sinh viên đại học ra trường loay hoay tìm việc, thì không ít doanh nghiệp lại “đỏ mắt” săn tìm lao động kỹ thuật lành nghề. Nghịch lý “thừa thầy, thiếu thợ” không chỉ phản ánh sự mất cân đối trong đào tạo, mà còn gióng lên hồi chuông báo động về những lỗ hổng nghiêm trọng trong hệ thống giáo dục đại học hiện nay.

Tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” không chỉ là câu chuyện về những con số, mà còn là biểu hiện rõ nét cho sự mất cân đối nghiêm trọng trong quy hoạch và tổ chức đào tạo nhân lực. Không ít bạn trẻ sau khi tốt nghiệp đại học đã phải rời bỏ ngành được đào tạo, làm công việc thời vụ, hoặc thất nghiệp kéo dài. Trong khi đó, các ngành công nghiệp mũi nhọn như cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, xây dựng, logistics… lại rơi vào tình trạng thiếu hụt lao động kỹ thuật trầm trọng. Hệ quả là nhiều doanh nghiệp rơi vào thế bị động, khó nâng cao năng suất, trì trệ trong đổi mới công nghệ và giảm năng lực cạnh tranh.

Căn nguyên của thực trạng này xuất phát từ cả tư duy và cơ chế vận hành hệ thống giáo dục. Trong nhiều năm, mô hình đào tạo đại học của Việt Nam vẫn nặng về lý thuyết, hàn lâm, thiếu thực hành, chưa gắn kết chặt chẽ với nhu cầu thực tế của thị trường lao động. Mô hình đào tạo “thầy” được ưu ái phát triển, trong khi đào tạo nghề – vốn được xem là xương sống của nền kinh tế thực – lại chưa được đầu tư đúng mức.

Một điểm nghẽn quan trọng nữa là định hướng nghề nghiệp còn mang nặng tính hình thức. Trong tư duy xã hội, bằng đại học vẫn được xem là tấm vé thông hành quan trọng nhất để vươn tới thành công. Nhiều gia đình và học sinh ngần ngại lựa chọn học nghề, coi đó là “lựa chọn hạng hai”, bất chấp nhu cầu thực tế đang lên tiếng mạnh mẽ rằng: nền kinh tế cần thợ giỏi hơn là cử nhân thất nghiệp.

Hệ quả của sự lệch pha này là đáng báo động. Theo số liệu từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tỷ lệ thất nghiệp trong nhóm lao động có trình độ đại học và trên đại học hiện vẫn ở mức cao, trong khi đó Việt Nam đang thiếu khoảng 40% nhân lực kỹ thuật trình độ trung cấp và cao đẳng. Báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Ngân hàng Thế giới (WB) cũng đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, muốn xây dựng nền kinh tế năng suất và bền vững, Việt Nam cần chuyển hướng mạnh mẽ sang đào tạo nghề, phát triển lực lượng lao động kỹ năng, thay vì tiếp tục đào tạo dàn trải cử nhân lý thuyết.

Tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” không chỉ là câu chuyện về những con số, mà còn là biểu hiện rõ nét cho sự mất cân đối nghiêm trọng trong quy hoạch và tổ chức đào tạo nhân lực. Ảnh minh hoạ
Tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” không chỉ là câu chuyện về những con số, mà còn là biểu hiện rõ nét cho sự mất cân đối nghiêm trọng trong quy hoạch và tổ chức đào tạo nhân lực. Ảnh minh hoạ

Câu hỏi đặt ra là: làm thế nào để khắc phục tình trạng này một cách căn cơ?

Trước tiên, cần một sự thay đổi toàn diện trong tư duy phát triển giáo dục và quy hoạch nhân lực quốc gia. Đào tạo không thể tiếp tục chạy theo số lượng đầu vào đại học, mà phải căn cứ vào nhu cầu thị trường, vào chiến lược phát triển ngành nghề và năng lực hấp thụ lao động của nền kinh tế.

Chính sách giáo dục đại học cần được điều chỉnh mạnh mẽ theo hướng giảm lý thuyết, tăng thực hành, lồng ghép kỹ năng nghề và kỹ năng mềm ngay trong chương trình đào tạo. Các trường đại học phải gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp, tổ chức thực tập theo đơn đặt hàng, bảo đảm sinh viên không chỉ “học để biết” mà còn “học để làm”.

Bên cạnh đó, giáo dục nghề nghiệp cần được nâng tầm, cả về chất lượng đào tạo lẫn giá trị xã hội. Cần đầu tư vào các trường nghề chất lượng cao, áp dụng mô hình đào tạo kép (học lý thuyết gắn với thực tiễn tại doanh nghiệp), đồng thời nâng cao hình ảnh, vị thế và thu nhập của người lao động kỹ thuật để tạo sức hút thật sự với người học.

Song song với đó, công tác dự báo nhân lực cần được nâng cao, xây dựng hệ thống dữ liệu liên thông giữa ngành giáo dục và thị trường lao động, để từ đó hoạch định chính sách đào tạo hiệu quả, tránh tình trạng dôi dư ngành nghề hoặc thiếu hụt kéo dài như hiện nay.

Cuối cùng, truyền thông cần vào cuộc mạnh mẽ để thay đổi nhận thức xã hội về giá trị thực chất của học nghề, xóa bỏ tâm lý sính bằng cấp, giúp phụ huynh và học sinh lựa chọn con đường phù hợp với năng lực, điều kiện và xu hướng phát triển của thời đại.

Nếu không hành động kịp thời và quyết liệt, tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” sẽ tiếp tục là rào cản lớn, làm trì hoãn mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia, khiến nền kinh tế lệch nhịp với nhu cầu chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và hội nhập toàn cầu.

Bài học lớn nhất từ thực trạng này chính là: giáo dục chỉ thực sự có giá trị khi phục vụ sự phát triển của con người và sự tiến bộ của xã hội. Đào tạo đúng, trúng và thực chất – đó mới là mục tiêu tối thượng của một nền giáo dục hiện đại, đồng thời là điều kiện tiên quyết để Việt Nam vững bước đi lên bằng chính sức mạnh của nguồn nhân lực tự thân.

Hà Trần

***

Khắc phục tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”

Khắc phục tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”
Ảnh minh hoạ.

Những năm qua, thực trạng thị trường lao động cho thấy tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” vẫn còn chưa được giải quyết rốt ráo. Một số cử nhân sau khi tốt nghiệp chưa tìm được việc làm phù hợp nên đã chạy xe ôm công nghệ, thậm chí có trường hợp đi học nghề sau khi đã tốt nghiệp đại học. Có những dự án như sân bay Long Thành, được đánh giá khi đi vào hoạt động tới đây, sẽ rất “khát” nhân lực thợ lành nghề…

Thứ Năm 04/09/2025 07:09 (GMT+7)

Nguyên nhân dẫn tới thực tế trên, trước tiên đến từ quan niệm. Khi nhắc đến “học nghề”, không ít người vẫn mang tâm lý e dè, bởi định kiến cho rằng chỉ có đại học mới mở ra cơ hội thành công, “đã mất công thì học làm thầy luôn chứ không học làm thợ”. Chính quan niệm này khiến không ít người bỏ qua lựa chọn phù hợp với năng lực, điều kiện, sở trường của mình; để rồi làm “thầy” không đạt, mà làm “thợ” cũng không xong. Một lý do nữa đến từ việc một số trường nghề được đánh giá chất lượng dạy và học chưa thực sự cao, chưa thực sự chuyên nghiệp… 

Để giải quyết những vấn đề này, Bộ GD&ĐT đang đề xuất dự thảo sửa đổi Luật Giáo dục nghề nghiệp. Một giải pháp quan trọng là đưa vào luật mô hình trung học nghề được thiết kế để tích hợp các môn học và kiến thức phổ thông với kỹ năng nghề, giúp học sinh trong 3 năm vừa nắm vững một số kỹ năng nghề cơ bản, vừa đạt được khối lượng kiến thức tối thiểu cần thiết để mở ra nhiều lựa chọn sau tốt nghiệp. Tốt nghiệp các trường này, học sinh có thể đi làm ngay, học tiếp lên cao đẳng hoặc đại học. Bằng trung học nghề sẽ được công nhận tương đương bằng tốt nghiệp THPT, từ đó thu hút người học và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.

Cách tiếp cận này được cho là sẽ giải quyết đồng thời nhiều vấn đề tồn tại lâu nay. Ví dụ với khối ngành nghệ thuật, mô hình đào tạo trung cấp có thể được chuyển sang trung học nghề, mang tên như “trường trung học nghệ thuật” hoặc “trường trung học năng khiếu”. Điều này không chỉ tháo gỡ vướng mắc trong đào tạo mà còn mở rộng cơ hội để người học lựa chọn con đường phù hợp nhất với năng lực, sở trường của mình. Đây là cách tạo dựng hệ thống giáo dục nghề nghiệp linh hoạt, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người học.

Dự thảo Luật cũng bổ sung các quy định nhằm khuyến khích DN tham gia sâu hơn vào quá trình đào tạo, qua đó nâng cao chất lượng và tăng tính trách nhiệm của các bên liên quan. Khi DN vừa có quyền lợi, vừa có trách nhiệm tham gia vào quá trình đào tạo, sẽ giúp học sinh, sinh viên trong các chương trình giáo dục nghề nghiệp có cơ hội “học qua làm”, học ngay tại môi trường làm việc và rèn luyện kỹ năng nghề thực tế. Đây không chỉ là giải pháp hiệu quả để nâng cao chất lượng đào tạo nghề, mà còn tạo điều kiện để DN sớm thu hút nhân lực cho những vị trí mong muốn, thay vì phải tuyển rồi đào tạo lại từ đầu. 

Một điều quan trọng không kém, là cần thay đổi cách nhìn nhận. Học nghề không phải là lựa chọn “thấp hơn” hay “kém hơn” so với học đại học, cũng như học đại học không đương nhiên “hơn” học nghề. Một người thợ giỏi được đào tạo bài bản, rèn luyện nhiều kỹ năng, tích lũy nhiều kinh nghiệm thực tiễn, sẽ tự tin bước vào thị trường lao động không kém cử nhân, kỹ sư…

Làm được những việc như trên, giáo dục nghề nghiệp chắc chắn sẽ trở thành một trong những trụ cột của hệ thống giáo dục quốc gia, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động hiện đại. 

Nguyễn Duy Khương

***

Giải pháp cho tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” khi đào tạo nhân lực

Nhật Dương

20/08/2024, 11:11

Theo các chuyên gia, việc các trường nghề kết hợp chặt chẽ với doanh nghiệp trong đào tạo là giải pháp tiên quyết để khắc phục tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” hiện nay. Điều này cũng tạo ra lợi ích cho cả hai bên, vừa nâng cao chất lượng nhân lực, vừa bảo đảm việc làm cho người học…

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Đây là thông tin được các chuyên gia chia sẻ tại Tọa đàm “Xu thế đào tạo nghề: Góc nhìn đa chiều”, diễn ra ngày 19/8. 

XU HƯỚNG CHỌN HỌC NGHỀ NGÀY CÀNG TĂNG

Tại Hà Nội – một trong những thị trường lao động sôi động nhất cả nước, ông Lê Minh Thảo, Trưởng phòng Giáo dục nghề nghiệp, thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội, cho biết hiện thành phố có hơn 300 đơn vị tham gia đào tạo nghề. Hằng năm, có khoảng hơn 200 nghìn người lao động tham gia thị trường được đào tạo từ các cơ sở này.

Chất lượng đào tạo nghề của Hà Nội ngày càng được khẳng định, khi “Chỉ số đào tạo lao động” trong “Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh – PCI” của Hà Nội liên tục xếp thứ hạng cao trong những năm qua.

Tuy nhiên, ông Thảo cũng thừa nhận thực tế hiện nay, Hà Nội có rất ít trường được đầu tư một cách đồng bộ, hiện đại, nhất là trong bối cảnh xu hướng hội nhập quốc tế.

“Nguồn nhân lực trực tiếp tham gia sản xuất đóng vai trò quan trọng, yếu tố quyết định trong sự cạnh tranh của mỗi quốc gia. Vì vậy, các trường phải tập trung đào tạo theo hướng chất lượng chứ không theo đại trà, số lượng, để nguồn lực lao động có thể vươn ra thị trường thế giới. Từ đó, các bạn sinh viên sẽ có nhiều cơ hội để có việc làm với mức thu nhập tốt”, ông Thảo nói.

TS. Phạm Xuân Khánh, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội, đánh giá thế hệ trẻ hiện nay đang chuyển mình cùng công nghệ số, đón đầu xu hướng toàn cầu. Các em dễ dàng nắm bắt thời cuộc và dám vượt ra khỏi những quan niệm khuôn mẫu, những lối mòn trong tư tưởng cũ như “phải đậu đại học, học đại học mới có thể thành công”.

Do đó, nhiều em đạt điểm cao trong Kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia 2024 vừa qua, có thể đỗ vào những trường đại học thuộc top đầu cả nước nhưng vẫn quyết định rẽ hướng chọn trường nghề.

“Việc thí sinh chủ động chọn học nghề là xu hướng tốt. Bởi chọn học cao đẳng hoặc trung cấp nghề là các em đã có suy nghĩ thực tế hơn. Hiện nay, chất lượng đào tạo của các trường cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục nghề nghiệp đã được nâng cao. Nhiều trường đã được kiểm định trong nước và quốc tế, được doanh nghiệp đánh giá tốt”, ông Ngọc thông tin.

Do đó, một tỷ lệ lớn sinh viên các trường cao đẳng, trung cấp sau khi tốt nghiệp, đã có việc làm ngay theo đúng ngành nghề đào tạo.

Mặt khác, các chuyên gia giáo dục cũng cho rằng, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, cơ hội việc làm đối với sinh viên các trường cao đẳng, trung cấp đang ngày càng trở nên phong phú.

“Thu nhập của sinh viên sau tốt nghiệp từ trường nghề “không thấp”, đặc biệt là những em có tay nghề trong những ngành “khát” nhân lực, như công nghệ thông tin, tự động hóa, cơ điện tử…”, TS. Phạm Xuân Khánh cho hay.

LỢI ÍCH “KÉP” KHI DOANH NGHIỆP – TRƯỜNG NGHỀ HỢP TÁC ĐÀO TẠO

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, để thực sự là “lựa chọn tin cậy” của thí sinh và phụ huynh, các nhà trường cần tập trung nâng cao chất lượng đào tạo, theo hướng bám sát nhu cầu của thị trường lao động trong và ngoài nước.

Các chuyên gia chia sẻ tại tọa đàm. Ảnh: Duy Khánh.
Các chuyên gia chia sẻ tại tọa đàm. Ảnh: Duy Khánh.

Đặc biệt, thực hiện tốt phương châm “gắn nhà trường với doanh nghiệp”, nâng cao tính thực tiễn trong quá trình đào tạo; tăng cường kết nối với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động để gia tăng cơ hội việc làm cho người học sau khi tốt nghiệp…

Từ đó hướng đến mô hình đào tạo trong thời gian ngắn (không quá 3 năm), song vẫn chất lượng và bảo đảm phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động.

Từ góc độ doanh nghiệp, ông Phan Quyết Long, Giám đốc Công ty TNHH Xây lắp chế tạo và cung cấp thiết bị công nghiệp Thành Long, cho biết là đơn vị hoạt động chính trong lĩnh vực sản xuất phụ trợ công nghiệp cho đa ngành nghề, tiêu chí lựa chọn lao động của công ty dựa trên các khả năng đáp ứng cơ bản của sinh viên mới ra trường, nhất là kỹ năng mềm trong nhà máy.

Ngoài ra, để đảm bảo chất lượng sản phẩm, công ty sử dụng 100% lao động đã qua đào tạo. Những lao động đã qua đào tạo có kỹ năng về lý thuyết chuyên môn. Và cuối cùng là kỹ năng về nghề. Ba yếu tố này là rất cần thiết đối với doanh nghiệp.

Hiện công ty đang có một số dự án phát triển mới cho năm 2025, nên trong thời gian tới, dự tính cần số lượng lao động chất lượng cao trên 500 người.

Theo ông Long, để thu hút lực lượng lao động chất lượng cao, công ty không nhất thiết lấy xuất phát điểm là các kỹ sư, mà vẫn có thể sử dụng nguồn lao động trung cấp kỹ thuật, miễn đáp ứng được yêu cầu.

Để chủ động nguồn lao động này, ông Long cho hay đơn vị đã phối hợp với một số cơ sở đào tạo nghề đồng hành với sinh viên từ những ngày đầu, đến khi tốt nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp sẽ cùng nhà trường đào tạo thực hành 2 năm trong nhà máy, tham gia vào tất cả các chuỗi hoạt động.

Ngoài ra, sinh viên được thực tập, nâng cao trình độ bởi các chuyên gia tại công ty và được hưởng lương trong quá trình thực tập. Sau tốt nghiệp, sinh viên có thể được nhận vào làm việc ngay.

Theo Trưởng phòng Giáo dục nghề nghiệp Lê Minh Thảo, việc các trường đào tạo nghề kết hợp chặt chẽ với doanh nghiệp, nhất là những ngành nghề thay đổi liên tục theo công nghệ cũng là giải pháp hiệu quả để khắc phục tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” hiện nay.

Từ thực tiễn đơn vị đào tạo, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội Phạm Xuân Khánh, cho biết bằng việc xây dựng mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với hơn 400 doanh nghiệp trong và ngoài nước, nhà trường đã giải quyết hiệu quả mục tiêu kép, đó là nâng cao chất lượng đào tạo và đảm bảo việc làm sau tốt nghiệp cho sinh viên.

“Nguồn lực từ việc hợp tác với doanh nghiệp không chỉ giúp sinh viên có thêm địa điểm thực hành, thực tập và giải quyết việc làm sau tốt nghiệp, mà còn hỗ trợ nhà trường trong đào tạo bồi dưỡng giáo viên; phát triển chương trình, giáo trình, cơ sở vật chất; hợp tác về nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ; liên kết đào tạo, công nhận văn bằng, chứng chỉ… đóng góp hiệu quả vào chất lượng đào tạo”, TS. Phạm Xuân Khánh nhấn mạnh.

Leave a comment