Chào anh chị em,
Một học trò Tông Thiên Thai, một tông phái triết lý Phật giáo, đến thiền viện của Gasan học thiền. Vài năm sau cậu ra đi, Gasan cảnh báo cậu: “Học về sự thật bằng phỏng đoán thì lợi ích cũng chỉ như lượm lặt tài liệu giảng huấn. Nhưng nhớ rằng nếu con không thiền quán thường trực, ánh sáng chân lý của con có thể tắt.
Bình:
• 峨山慈棹 Gasan Jitō (1727-1797) một thiền sư thuộc phái Lâm Tế Nhật Bản. Ông được truyền Pháp từ sư phụ Lâm Tế là Gessen Zen’e trước khi gặp Hakuin. Ấn tượng sâu sắc, ông bắt đầu học công án với Hakuin, hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Tōrei Enji. Chúng ta đã gặp Gasan Jitô trong truyện Thiền Không Xa Phật Vị.
• Thiên Thai tông (zh. tiāntāi-zōng 天台宗, ja. tendai-shū) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh Diệu Pháp Liên Hoa, do đó phái còn được gọi là Pháp Hoa tông.
Thiên Thai tông xem Long Thụ (sa. nāgārjuna) là Sơ tổ vì ba quan điểm chính (Thiên Thai tam quán) của tông phái này dựa trên giáo lý của Long Thụ – đó là:
1. Chân lý thứ nhất cho rằng mọi pháp (sa. dharma) không có một thật thể và vì vậy trống rỗng (Không, 空).
2. Chân lý thứ hai cho rằng, tuy thế, các pháp vẫn có một dạng tồn tại tạm thời với thời gian và giác quan con người có thể nắm bắt được (Giả, 假).
3. Chân lý thứ ba tổng hợp hai chân lý đầu, cho rằng thể của sự vật lại không nằm ngoài tướng, không thể bỏ hiện tượng để tìm bản chất, thể và tướng là Một (Trung, 中).
Quan điểm này nhấn mạnh tính toàn thể và xuyên suốt của sự vật. Cái toàn thể và cái riêng lẻ là một. Toàn bộ các pháp có khác nhau nhưng chúng đan lồng vào nhau, cái này chứa đựng cái kia. Không, Giả và Trung chỉ là một và từ Một mà ra.
Các Đại sư của tông phái này hay nói “toàn thể vũ trụ nằm trên đầu một hạt cải” hay “một ý niệm là ba ngàn thế giới.” Tổ thứ hai của tông này là Huệ Văn, Tổ thứ ba là Huệ Tư và Tổ thứ tư là Trí Di. Dưới sự lĩnh đạo của Đại sư Trí Di, giáo lý của tông Thiên Thai đã đạt đến tuyệt đỉnh.
Phép tu của Thiên Thai tông dựa trên phép Thiền Chỉ Quán (Samatha-Vipassana meditation), và chứa đựng các yếu tố mật tông như Chân ngôn (thần chú, mantras) và Mạn-đà-la (maṇḍalas).
Tông này sau được Truyền giáo Đại sư Tối Trừng (767-822), đệ tử của Tổ thứ 10 Thiên thai tông, truyền qua Nhật trong thế kỉ thứ 9. Tại đây, Thiên Thai tông đóng một vai trò quan trọng. Ở Nhật, Thiên Thai tông (Tiantai) được gọi là Tendai.
Thiên Thai tông được xem như một tông phái rộng rãi vì tổng hợp, chứa đựng nhiều quan điểm của các phái khác. Sự tổng hợp này phản ánh trong quan điểm “năm thời, tám giáo” (Ngũ thời bát giáo 五時八教), trong quan niệm mọi loài đều có Phật tính và vì vậy Thiên Thai tông có đầy đủ phương tiện đưa đến giác ngộ.
Các bộ luận quan trọng của Thiên Thai tông là: Ma-ha chỉ quán ( mahā-śamatha-vipāśyanā), Lục diệu pháp môn, và những bài luận của Trí Di về kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Phép Thiền Chỉ Quán của Thiên Thai tông có hai mặt: “Chỉ” (samatha) là chú tâm và qua đó thấy rằng mọi pháp đều không. Nhờ đó không còn ảo giác xuất hiện. “Quán” (vipassana) giúp hành giả thấy rằng, tuy mọi pháp đều không, nhưng chúng có một dạng tồn tại tạm thời, một sự xuất hiện giả tướng và lại có một chức năng nhất định.
• Thiền Samantha-Vipassana thực sự được sử dụng trong tất cả các trường phái Phật giáo, không chỉ riêng Thiên Thai tông.
– Thiền Samantha (thiền chỉ), tập trung vào một điểm, chẳng hạn như Thiền Thở, Thiền Đi, Thiền Ăn, giúp chúng ta tập trung tâm trí vào một điều – giữ cho tâm trí tĩnh lặng và yên bình. Chúng ta có quá nhiều tiếng ồn trong tâm trí – lo lắng, tranh cãi, giận dữ, tính toán, sợ hãi… Thiền Samantha giúp tâm trí chúng ta tĩnh lặng và tương đối trống rỗng, bằng cách tập trung vào một điều và quên đi mọi thứ khác.
Nhất tâm bất loạn.
– Thiền Vipassana giúp chúng ta, với một tâm trí tĩnh lặng, nhìn mọi thứ một cách sâu sắc, để thực sự hiểu nó “như nó là”.
Samantha (Thiền chỉ) giúp chúng ta tĩnh lặng, để Vipassanacan (Thiền quán) có thể thực hiện công việc nhìn sâu.
• Thiên Thai tam quán (Tiantai Sanguan), cho là dựa trên tư tưởng của Long Thụ, gồm: Không, Giả, Trung
– Mọi thứ là Không.
– Những thứ ta lấy đều tạm thời và Giả, nhưng chúng vẫn có phần vụ của chúng.
– Trung Đạo là đường giữa của Phật gia – hòa hợp Không, Giả, và Trung làm Một.
• Gasan nói với cậu học trò:”Học về sự thật bằng phỏng đoán thì lợi ích cũng chỉ như lượm lặt tài liệu giảng huấn.” Đây là cảnh báo về cách học triết lý lệ thuộc nặng nề vào chữ nghĩa và lý luận của Thiên Thai Tông. Trong bài Cỏ cây giác ngộ thế nào chúng ta đã nói đến sự vô ích của các câu hỏi triết lý rắc rối của học trò Thiên Thai. Triết lý và lý luận là phỏng đoán sự thật bằng chữ nghĩa, cùng lắm thì cũng chỉ là như lượm lặt tài liệu để giảng bài. Giảng bài đã không phải là chân lý, lượm lặt tài liệu càng xa chân lý hơn.
• “Nhưng nhớ rằng nếu con không thiền quán thường trực, ánh sáng chân lý của con có thể tắt.” Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán… Chỉ nhìn mà thôi, và nhìn rất kỹ. Chính vì tĩnh lặng nhìn kỹ như thế cho nên chúng ta mới có thể “ngộ” (thấy rõ) chân lý trong sự vật.
Nếu ta không thiền quán mà lại thích triết lý, lý luận và thuyết giảng – tức là các thứ thuộc về chữ nghĩa – thì ánh sáng chân lý của ta có thể tắt.
• Khác biệt giữa “thiền quán” và “suy nghĩ”: Suy nghĩ hay suy tư là “nghĩ”. Thiền quán là chỉ “nhìn” (quán), nhìn sự vật “như nó là” mà chẳng “nghĩ” gì cả. Khác biệt về tính danh này đưa đến các khác biệt sau:
1. Khác biệt đầu tiên là tĩnh lặng về cảm xúc. Chúng ta có thể suy nghĩ với đủ loại cảm xúc trong đầu, nhưng thiền quán thì tâm ta phải rất tĩnh lặng,
Ví dụ: Suy nghĩ về cách trả đũa anh chàng mới chửi mình hồi chiều, vừa suy nghĩ vừa sôi máu. Nếu ta thiền quán về anh chàng này, thì tâm ta phải rất tĩnh lặng, không hờn giận, không một gợn sóng khi ta “nhìn” (quán) anh chàng trong tâm mình.
2. Khác biệt thứ hai là tĩnh lặng về tư tưởng. Suy nghĩ thì có câu hỏi, và chạy theo dòng lý luận để tìm câu trả lời; thiền quán thì chỉ “nhìn” thôi, rồi điều gì đến thì đến, không đến thì không đến, chẳng chạy theo điều gì, chẳng nhắm vào câu trả lời nào cả.
Ví dụ: Suy nghĩ “Có thượng đế không?” À, có cái bàn là có ông thợ mộc. Có quả là có nhân. Có vũ trụ phải có người làm ra vũ trụ. Vậy phải có thượng đế. Có thượng đế thì phải có người sinh ra thượng đế. Ai vậy?…
“Thiền quán” thì chỉ “nhìn.” Muốn quán vũ trụ thì cứ nhìn các tinh tú, không gian, các thiên hà…, đến các phân tử, nguyên tử li ti của vật thể…, rồi chân lý nào đến với mình thì đến, không thì thôi, chẳng đeo đuổi theo ý gì trong đầu cả…
3. Khác biệt thứ ba là sự tập trung và tự do của tâm trí. Đây chỉ là hệ quả của khác biệt thứ nhất và thứ hai bên trên.
Khi “suy nghĩ” ta có cả hàng trăm tư tưởng, cảm xúc, lý luận, kết luận, phán đoán chạy tới chạy lui. “Thiền quán” thì ta chẳng có gì trong đầu cả, ngoại trừ một “hình ảnh” của điều mà ta đang quán, như nó là, mà chẳng lý luận, phán đoán, kết luận gì cả.
Vi dụ: Suy nghĩ về chuyện cãi nhau hồi chiều với người bạn thân , ta có thể suy nghĩ: Cô ấy nói câu này, nói như vậy là rõ ràng làm mình đau, tại sao cô ấy làm mình đau, vì cô ấy ganh tị với mình, cô ấy đang cạnh tranh ảnh hưởng với mình…
Nếu thiền quán về chuyện cãi nhau này thì tâm mình thật tĩnh lặng, không sóng giận, cũng chẳng suy nghĩ gì, chỉ “nhìn” hình ảnh cãi nhau hồi chiều… và thấy… khuôn mặt cô ấy thật buồn vời vợi khi nói với mình câu này… và mình đã không thấy được các nét ấy lúc đó, và mình đã vội vã thọc cho cô ấy một quả đấm ngôn ngữ kinh hồn… và cô ấy đã nhìn mình với khuôn mặt vừa kinh ngạc vừa buồn vô tận… và lặng lẽ ra ngoài… và mình đã cho là cô ấy khinh thường mình… và mình đã chửi ngóng theo một câu cuối…
Một điểm nữa quan trọng ở đây là khi suy tưởng các vấn đề trừu tượng, chúng ta thường theo một trường phái lý luận triết lý nào đó, ví dụ: triết lý hiện sinh, hay duy vật biện chứng pháp… cho nên tư duy thường rất phiến diện, vì bị gò bó trong khung lý luận của trường phái ta đang dùng. Chính vì vậy mà các triết gia hay cãi nhau, ông nói gà bà nói vịt.
Khi “quán” ta chỉ “nhìn sự vật như nó là” cho nên ta chẳng theo trường phái nào cả. Cứ nhìn kỹ thôi. Vì vậy tâm trí ta thực sự tự do và độc lập, và cái nhìn rõ ràng hơn rất nhiều.
4. Khác biệt thứ tư là kết luận. Đây là hệ quả đương nhiên của ba khác biệt trên: Suy nghĩ chấm dứt bằng một kết luận của suy tưởng lý luận, thường theo công thức của luận lý học.
Quán chấm dứt khi nào mình biết là mình đã nhìn thấy toàn thể, thông suốt hoàn toàn điều mình nhìn, từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong, từ mọi hướng nhìn.
Ví dụ: Suy nghĩ về một tên trộm: Hắn vào nhà, lấy chiếc nhẫn hột xoàn bỏ túi, toàn vụ việc bị thâu vào hệ thống quan sát điện tử. Kết luận: Vậy hắn là tên trộm.
Quán về tên trộm thì nhìn hắn, nhìn hình ảnh hắn lấy hột xoàn, nhìn thái độ đầu hàng dịu dàng của hắn khi bị bắt, nhìn khuôn mặt buồn rười rượi tuyệt vọng của hắn, dáng đi thiểu não của hắn…
• Nếu chúng ta quán chiếu sâu sắc về đời sống và mọi thứ, mà không có ngôn ngữ và lý luận can thiệp, chúng ta sẽ thấy Phật tính đang hoạt động trong tâm mình. Đó chính là Giác Ngộ.
(Trần Đình Hoành dịch và bình)
Với yêu thương,
Hoành
o0o
Ánh sáng của con có thể tắt – Your light may go out
Dear Brothers and Sisters,
A student of Tendai, a philosophical school of Buddhism, came to the Zen abode of Gasan as a pupil. When he was departing a few years later, Gasan warned him: “Studying the truth speculatively is useful as a way of collecting preaching material. But remember that unless you meditate constantly you light of truth may go out.”
Annotation:
• 峨山慈棹 Gasan Jitō (1727-1797) was Rinzai Zen master. He received Dharma transmission from the Rinzai master Gessen Zen’e before meeting Hakuin. Deeply impressed, he began studying koans with Hakuin, completing it under the guidance of Tōrei Enji. We hae met Gasan Jitô in Zen story Not far from Buddahood.
• Tiantai School (zh. tiāntāi-zōng 天台宗, ja. tendai-shū) is a Chinese Buddhist sect founded by Zhiyi (538–597). Its teachings are based on the Lotus Sutra, and hence it is also known as the Lotus School.
Tiantai considers Nagarjuna (sa. nāgārjuna) as its first patriarch because its three main views (Tiantai Sanguan) are based on Nagarjuna’s teachings – namely:
1. The First Truth states that all dharmas (sa. dharma) have no real entity and are therefore empty (Emptiness, 空).
2. The second truth holds that, however, dharmas still have a temporary form of existence with time and human senses that can grasp it (False, 假).
3. The third truth synthesizes the first two truths, holding that the essence of things is not outside of their appearance, that one cannot abandon the phenomenon to find their essence, that the essence and appearance are One (Middle, 中).
This view emphasizes the wholeness and continuity of things. The whole and the individual are one. All dharmas are different but they intertwine, one contains the other. Emptiness, False and Middle are only One and come from One.
The great masters of this sect often say “the entire universe rests on the tip of a mustard seed” or “one thought is three thousand worlds.” The second patriarch of this sect was Huiwen, the third patriarch was Huishui, and the fourth patriarch was Zhiyi. Under the leadership of the great master Zhiyi, the teachings of the Tiantai sect reached their peak.
The practice of the Tiantai school is based on Samatha-Vipassana meditation, and contains esoteric elements such as mantras and maṇḍalas.
This school was later transmitted to Japan in the 9th century by the Great Master Toi-chong (767-822), a disciple of the 10th Patriarch of the Tiantai school, where the Tiantai school played an important role. In Japan, Tiantai school is called Tendai.
The Tiantai school is considered a broad school because it synthesizes and contains many views of other schools. This synthesis is reflected in the view of “five times, eight teachings” (Ngũ thời bát giáo 五時八教), in which all beings have Buddha nature and therefore the Tiantai school has all the means to enlightenment.
The important treatises of the Tiantai school are: Mahā-śamatha-vipāśyanā, the Six Wonderful Dharma Doors, and Zhiyi’s treatises on the Lotus Sutra.
The Tiantai school’s method of Zhiguan has two aspects: Samatha is focusing the mind and thereby seeing that all dharmas are empty. Thanks to that, no illusions arise. Vipassana helps the practitioner see that, although all dharmas are empty, they have a temporary form of existence, a false appearance, and a certain function.
• Samantha-Vipassana mediation actually is used in all Bhuddist schools, not just Tendai.
– Sammatha meditation, concentrating on one point, such as Breathing Zen, Walking Zen, Eating Zen, helps us concentrate our mind on one thing – to keep the mind still. We have too many noises in our minds – worries, arguments, angers, calculations, fears… Samantha Zen helps our mind calm and relatively empty, by concentration on one thing and forgeting everthing else.
Nhất tâm bất loạn – One mind unperturbed.
– Vipassana meditation helps us, with a calm mind, look at everything deeply, to truly understand it “as it is”.
Samantha helps calm us down, so that Vipassana can do the job of looking deeply.
• The Three Contemplations of Tiantai, (Tiantai Sanguan), which is said to be based on Nagarjuna’s thought, includes: Emptiness, Falsehood, Middle Way.
– Everything is Emptiness.
– The things we see are temporary and False, but they still have their function.
– The Middle Way is the middle path of Buddhism – harmonizing Emptiness, Falsehood, and Middle Way into One.
• Gasan told his student: “Studying the truth speculatively is useful as a way of collecting preaching material.” This is a warning about learning philosophy and depending heavily on words and arguments of the Tendai school. In How grass and trees became enlightened we have talked about the futility of Tendai students’ entangling philosophical questions. Philosophy and argument, at most, are similar to collecting materials to preach. Preaching itself is not the truth, collecting materials is much further from the truth.
• “But remember that unless you meditate constantly you light of truth may go out.” The meditation here is Samantha Vipassana – looking deeply and quietly at something in the mind, looking deeply at something “as it is”, without reasoning, without explanation, without criticizing… Only looking, and looking very deeply. Thanks to such quiet and deep looking, we may attain Enlightenment – seeing the truth in everything.
If we don’t look deeply, but only like to philosophize and preach – things belonging to the realm of words – then our light of truth may go out.
• Difference between “looking deeply” and “thinking”: Looking deeply means we only look at something as it is and don’t think about anything. This difference leads to the following differences.
1. The first difference is the quietness of emotion. We can think with all kinds of emotion in our mind, but when we look deeply our mind has to be very quiet.
Example: I think about this guy who insulted me this afternoon, thinking and my blood boiling. But if I look deeply at home, then my mind must be quiet, no anger, not a wave, when I look deeply at him in my mind.
2. The second difference is the quietness of thought. Thinking means we have questions and we run after the flow of logics to find the answers. Looking deeply means only looking, and whatever will come will come, whatever will not come will not come; we don’t run after anything, we don’t look for any answer.
Example: We think and ask “Is there a God?” Ah, if there is a table, there must be a carpenter. If there is an effect, there must be a cause. If there is a universe, there must be a creator of the universe. Hence, there must be a God. If there is a God, there must be someone who creates God. Who?…
If we look deeply then we look only. If we want to look deeply at the universe, then we look at the space, the stars, the galaxies…, we look at the unit cells, the atoms of materials…, and whatever truth will come to us will come, if nothing comes then it’s OK, we don’t go after any thought in mind.
3. The third difference is the concentration and the freedom of the mind: This is the consequence of the two preceding differences. When we think, we have hundreds of things – thoughts, emotions, arguments, conclusions, judgments running in our mind. When we look deeply we don’t have anything in our mind except for one image of what we are looking at, as it is, without the interference of arguments, judgments, or conclusions.
Example: Thinking about the verbal fight with the friend this afternoon, I can think: She said this, that was clearly intended to hurt me, why did she hurt me, because she is jealous with me, she is competing against me for influence…
Looking deeply about this fight, my mind is very quiet, not an angry wave, not a thought. I simply look at the images of the fight this afternoon… and see… her very sad face when she said this to me… and I couldn’t see those sad traces then, and I quickly gave her a horrible verbal punch… and she looked at me full of surprise and infinite sorrow… and walked out silently… and I decided that she ignored me… and I threw a following insult at her…
Another important point here is that when we think about the abstract subjects, we tend to follow some school of philosophical reasoning, such as existentialism or dialectical materialism, hence our thinking process is often narrowed and one-sided, because it is restricted within a reasoning framework of our school of thought. That is the reason why philosophers like to argue—one says “chicken”, the other says “ducks”.
When looking deeply, we only look at a thing as it is, hence we don’t follow any school of thought. Only deeply looking. Thus our mind is truly free and independence and our vision is much clearer.
4. The fourth difference is the conclusion: This is simply the results of the three previous differences: Thinking usually ends with a conclusion drawing from the line of reasoning, usually following the formulas of logics.
Looking deeply ends when we know that we have seen the entire picture, have wholly understood what we have been looking at, from inside out, from outside in, from every angle.
Example: Thinking about a thief: He entered the house, took the diamond ring and put it in his pocket, the whole thing was recorded in the security camera system. Conlusion: he is a thief.
Looking deeply at the thief means looking at him, seeing him take the diamond, looking at his gentle attitude when he surrendered himself to the authority, looking at his greatly sorrowful and desperate face, looking at the despondent way he walked…
• If we look deeply at life and everything, without the interference of language and logic, we will see the Buddha-nature currently working in our heart. That is Enlightenment.
(Trần Đình Hoành translated and annotated)
With compassion,
Hoành
o0o
© copyright 2025
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
http://www.dotchuoinon.com
# 52