Chào anh chị em,
Một sinh viên đại học thăm thiền sư Gasan và hỏi ông: “Đã bao giờ thầy đọc Thánh Kinh Thiên chúa giáo chưa?”

“Chưa, đọc cho tôi nghe đi,” Gasan nói.
Người sinh viên mở Thánh Kinh và đọc phúc âm Thánh Matthew: “Và tại sao lại lo áo quần? Hãy xem các bông huệ ngoài đồng mọc thế nào. Chúng không làm việc, không dệt vải, nhưng tôi nói thật với các bạn ngay cả vua Solomon trong tất cả vinh quang của mình cũng không mặc đẹp như các bông hoa đó… Đừng lo đến ngày mai, vì ngày mai sẽ tự lo cho nó.”
Gasan nói, “Ai nói những lời này, tôi xem đó là một người đã giác ngộ.”
Người sinh viên đọc tiếp: “Xin và bạn sẽ được, tìm và bạn sẽ thấy, gõ cửa và cửa sẽ mở cho bạn. Bởi vì ai xin thì sẽ nhận, ai tìm thì sẽ thấy, và ai gõ cửa sẽ được mở cửa.”
Gasan nói: “Tuyệt vời. Ai mà nói điều này thì không xa Phật vị.”
Bình:
• 峨山慈棹 Gasan Jitō (1727-1797)
Gasan Jitō là một thiền sư thuộc phái Lâm Tế Nhật Bản. Ông được truyền Pháp từ sư phụ Lâm Tế là Gessen Zen’e trước khi gặp Hakuin. Ấn tượng sâu sắc, ông bắt đầu học công án với Hakuin, hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Tōrei Enji.
Gasan được coi là pháp tử của Hakuin, mặc dù “ông không thuộc nhóm đệ tử thân cận và có lẽ thậm chí không phải là một trong những pháp tử của Hakuin. Khi Hakuin chấp thuận nhận Gasan Jitô làm đệ tử thì Hakuin đã 81 tuổi. Hakuin mất năm 83 tuổi. Nghĩa là Gasan chỉ học với Hakuin được dưới 3 năm, trong thời gian Hakuin bị bệnh.
Sau khi hoàn tất học tập, Gasan Jitō chuyển đến Rinsho-in, một ngôi chùa nhỏ ở Edo, nơi ông có hơn năm trăm học trò. Ông và/hoặc các học trò của mình là Inzan Ien và Takuju Kosen đã tạo ra chương trình giảng dạy công án Lâm Tế đương đại từ “hệ thống công án thô” mà ông đã kế thừa. (Source)
• Trong truyện Thiền Nếu yêu hãy yêu công khai – If you love, love openly mình có viết trong phần Annotation:
“Thiền sư Thiền cô thường không muốn nói về mình và thường không muốn ai biết mình. Nên những câu truyện về họ, chỉ là câu truyện, còn họ là ai thì họ và mọi người quanh họ đều hoàn toàn kín miệng. Vì thế mà trong 101 Truyện Thiền có rất nhiều truyện mà chúng ta chẳng thể biết các nhân vật chính là ai.
“Đó là truyền thống vô ngã của nhà Phật.”
• Gasan có hai thầy: Ông được truyền Pháp từ sư phụ Lâm Tế là Gessen Zen’e trước khi gặp Hakuin. Hakuin được xem là không truyền thừa cho Gasan, nhưng trong “Dòng Thiền thừa kế chính thức” Gasan vẫn được các thiền sư xem là người kế vị của Hakuin, vì những công sức ông dành ra để “truyền bá Thiền Hakuin” (Source)
• “Người sinh viên mở Thánh Kinh và đọc Phúc âm (Tin Mừng) Thánh Matthew.” Thánh Kinh Kitô giáo – gồm Công giáo, Chính thống giáo và các nhánh Tin lành – có hai phần: (1) Cựu Ước là từ khai thiên lập địa đến trước Giêsu of Nazareth. Cựu Ước cũng chính là Thánh Kinh Do Thái giáo. (2) Tân ước là từ Giêsu trở về sau.
Tân ước gồm 27 cuốn sách nhỏ. Bốn cuốn đầu tiên quan trọng nhất, gọi là bốn Gospels (bốn Phúc Âm hay bốn Tin Mừng) do bốn đệ tử của Giêsu viết về cuộc đời và lời dạy của thầy mình.
01. Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu (Gospel of Matthew). Matthew làm nghề thu thuế là nghề được bị dân Do Thái khinh bỉ nhất, cho là phản quốc, vì thu thuế từ dân Do Thái để nộp cho chính quyền đô hộ La Mã.
02. Tin Mừng theo Thánh Mác-cô (Gospel of Mark). Mark là bạn đồng hành và là thông dịch viên của Peter, đệ tử trưởng tràng của Giêsu.
03. Tin Mừng theo Thánh Lu-ca (Gospel of Luke). Luke là bác sĩ từ Hy Lạp và là môn đệ của Saint Paul, người tự gọi mình môn đệ của Giêsu.
04. Tin Mừng theo Thánh Gio-an (Gospel of John). John, làm nghề đánh cá, là môn đệ nhỏ tuổi nhất của Giêsu. John luôn tự gọi mình là “the one Jesus loves” – người Giêsu yêu mến.
Nhứng câu người sinh viên đọc là các câu nói của Giêsu do Matthew ghi lại trong Gospel of Matthew.
• Giêsu nói: “Đừng lo đến ngày mai, vì ngày mai sẽ tự lo cho nó.” Đó chính là sống “ở đây, lúc này” (here and now) của Thiền tông. Quá khứ và tương lai chỉ là tư tưởng, không là sống. Chúng ta chỉ có thể sống “ở đây, lúc này.” Đời là một cuộc hành trình dài hàng triệu bước chân, nhưng chỉ bước “ở đây, lúc này” là “thật” lúc này. Mọi bước đã qua và mọi bước sẽ qua chỉ là tư tưởng trong đầu ta.
Tập trung vào mỗi bước “ở đây lúc này” thì mỗi bước đều tốt, và sau rất nhiều bước, đoạn đường ta đã đi qua đương nhiên là đoạn đường tốt.
• “Tìm thì sẽ thấy”: Đó là kinh nghiệm của Thái tử Tất-đạt-đa Cồ-đàm (Siddhartha Gautama, tức Phật Thích Ca sau này) trên đường tìm Chân lý.
Năm 29 tuổi, sau bốn lần ra bốn cửa thành và thấy cảnh người già, người bệnh, người chết và một vị tu sĩ, thái tử Tất-đạt-đa phát tâm tu hành. Rồi trong một đêm, ông lặng lẽ từ biệt hoàng cung, quyết định sống cảnh không nhà của một tu sĩ.
Tất-đạt-đa bắt đầu thử cùng tu khổ hạnh với nhiều nhóm tăng sĩ khác nhau. Ông quyết tâm tìm cách diệt khổ và tìm mọi đạo sư với các giáo phái khác nhau. Theo truyền thống Ấn Độ bấy giờ chỉ có con đường khổ hạnh mới đưa đến đạt đạo. Tất-đạt-đa nhanh chóng đạt đến cấp Thiền Vô sở hữu xứ (sa. ākimcanyāyatana, pi. ākiñcaññāyatana), và cấp Phi tưởng phi phi tưởng xứ (sa. naivasamjñā-nāsaṃñāyatana, pi. nevasaññā-nāsaññāyatana), là trạng thái siêu việt nhất của thiền định.
Nhưng Tất-đạt-đa cũng không tìm thấy nơi đó lời giải cho thắc mắc của mình. Ngay cả cấp độ thiền định cao nhất là “Phi tưởng phi phi tưởng xứ” cũng chưa đạt đến mức độ triệt để cho việc giải thoát khỏi khổ đau, không phải là chân lý tối hậu, nên ông quyết tâm tự mình tìm đường giải thoát. Có 5 Tỳ-kheo (năm anh em ngài Kiều Trần Như, (Kondañña) đồng hành cùng ông.
Sau 6 năm tu khổ hạnh, có lúc gần kề cái chết, Tất-đạt-đa nhận ra đó không phải là cách tu dẫn đến giác ngộ, nên ông bắt đầu ăn uống bình thường, 5 Tỳ-kheo kia thất vọng bỏ đi. Tất-đạt-đa quyết định ăn uống bình thường trở lại và phát nguyện rằng: sẽ nhập định không rời chỗ ngồi cho đến lúc đắc đạo, tìm ra nguyên nhân và cơ chế của Khổ.
Theo sử Phật giáo, ngày mùng 8 tháng chạp âm lịch năm 589 TCN, ở tuổi 35, Tất-đạt-đa đã đạt tới giác ngộ, trở thành Phật toàn giác, là bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (anuttara samma sambodhi), là đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) với Thập hiệu:
– Như Lai (如來) (tathāgata), là “Người đã đến như thế” hoặc “Người đã đến từ cõi Chân như”; tuệ giác của Đức Phật như Mặt Trời soi sáng khắp thế gian, xóa tan đêm tối vô minh.
– Ứng Cúng (應供) (arahant), dịch nghĩa là A La Hán, là “Người đáng được cúng dường”, đáng được tôn kính.
– Chánh Biến Tri (正遍知) (samyaksaṃbuddha), dịch theo âm là Tam-miệu-tam-phật-đà, là “Người hiểu biết đúng tất cả các pháp”.
– Minh Hạnh Túc (明行足) (vidyācaraṇasaṃpanna), là “Người có đủ trí huệ và đức hạnh”, tức là có đầy đủ tam minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh).
– Thiện Thệ (善逝) (sugata), là “Người đã đi một cách tốt đẹp”.
– Thế Gian Giải (世間解) (lokavid), là “Người đã thấu hiểu thế giới”.
– Vô Thượng sĩ (無上士) (anuttarapuruṣa), là “bậc tu hành tối cao, không ai vượt qua”.
– Điều Ngự Trượng Phu (調御大丈夫) (puruṣadamyasārathi), nghĩa là có khả năng điều phục những người hiền và ngự phục những kẻ ác theo về chính đạo.
– Thiên Nhân Sư (天人師) (devamanuṣyānāṃ śāstṛ), là “Bậc thầy của cõi người và cõi trời”.
– Phật Thế Tôn (佛世尊) (buddhalokanātha, buddhalokajyeṣṭha, bhagavān), là “Bậc giác ngộ được thế gian tôn kính”.
Từ thời điểm đó, Siddhārtha biết mình là Phật, là một bậc Giác ngộ, và biết rằng mình sẽ không còn tái sinh một lần nào nữa. (Nguồn).
• “Không xa Phật vị”: Giác Ngộ, Mở Mắt, Tỉnh Thức, Phật, Thánh Linh… không chỉ dành riêng cho Phật giáo. Đó là hiện tượng tâm trí ta được khai mở và soi sáng sâu sắc và toàn diện, dù là ngôn ngữ dùng để chỉ hiện tượng đó có thể khác nhau.
Mọi người trên thế giới, dù thuộc đạo nào hay không thuộc đạo nào, đều có thể được Khai Mở.
Đó là một điều huyền diệu tâm linh của loài người – anh em cùng tổ cùng tông, cùng trí tuệ.
Các lời nói của Giêsu của Nazareth hay Phật Thích Ca đều là MỘT chân lý và MỘT nghệ thuật sống vượt mọi biên giới không gian, thời gian, tôn giáo, và văn hóa.
Người ta thường tưởng rằng các tôn giáo rất khác nhau, và người ta tập trung vào những điều khác nhau bên ngoài, như trang phục hay lễ bái, để chia rẽ và đôi khi chống báng nhau. Rất tiếc! Rất tiếc! Những khác nhau bên ngoài cũng như màu da – con người có nhiều màu da khác nhau, nhưng tất cả đều là người có Phật tính bên trong, có Thánh Linh Chúa bên trong.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu ni Phật.
(Trần Đình Hoành dịch và bình)
Với yêu thương,
Hoành
o0o
Không xa Phật vị – Not Far From Buddhahood
Dear Brothers and Sisters,
A university student while visiting Gasan asked him: “Have you even read the Christian Bible?”

“No, read it to me,” said Gasan.
The student opened the Bible and read from St. Matthew: “And why take ye thought for raiment? Consider the lilies of the field, how they grow. They toil not, neither do they spin, and yet I say unto you that even Solomon in all his glory was not arrayed like one of these…Take therefore no thought for the morrow, for the morrow shall take thought for the things of itself.”
Gasan said: “Whoever uttered those words I consider an enlightened man.”
The student continued reading: “Ask and it shall be given you, seek and ye shall find, knock and it shall be opened unto you. For everyone that asketh receiveth, and he that seeketh findeth, and to him that knocketh, is shall be opened.”
Gasan remarked: “That is excellent. Whoever said that is not far from Buddhahood.”
Annotation:
• 峨山慈棹 Gasan Jitō (1727-1797)
Gasan Jitō was a Japanese Rinzai Zen master. He received the Dharma from his Rinzai master Gessen Zen’e before meeting Hakuin. Deeply impressed, he began studying koans with Hakuin, completing it under the guidance of Tōrei Enji.
Gasan is considered Hakuin’s Dharma susscessor, although “he was not among Hakuin’s close disciples and perhaps not even one of Hakuin’s Dharma successor. Hakuin was 81 years old when Hakuin accepted Gasan Jitô as a disciple. Hakuin died at 83, meaning Gasan studied with Hakuin for less than 3 years, during which time Hakuin was ill.
After completing his studies, Gasan Jitō moved to Rinsho-in, a small temple in Edo, where he had over five hundred students. He and/or his students Inzan Ien and Takuju Kosen created the contemporary Rinzai koan curriculum from the “rough koan system” he inherited. (Source)
• In the Zen story If you love, love openly – If you love, love openly I wrote in the Annotation section:
“Zen masters usually do not want to talk about themselves and usually do not want anyone to know them. So the stories about them are just stories, but who they are, they and everyone around them are completely secretive. That is why in 101 Zen Stories there are many stories in which we cannot know who the main characters are.
“That is the Buddhist tradition of non-self.”
• Gasan had two teachers: He received the Dharma from the Rinzai master Gessen Zen’e before meeting Hakuin. Hakuin is not considered to have passed on to Gasan, but in the “Official Zen Succession Lineage” Gasan is still considered by Zen masters to be Hakuin’s successor, because of his efforts to “propagate Hakuin Zen” (Source)
• “The student opened the Bible and read the Gospel of Matthew.” The Bible of the Christians – including Catholics, Orthodox and Protestants – has two parts: (1) The Old Testament is from the beginning of the world to before Jesus of Nazareth. The Old Testament is also the Jewish Bible. (2) The New Testament is from Jesus onwards.
The New Testament consists of 27 small books. The first four are the most important, called the four Gospels (or four Good News) written by four disciples of Jesus, about the life and teachings of their teacher.
01. Gospel of Matthew. Matthew was a tax collector, a profession most despised by the Jews, considered treasonous, because he collected taxes from the Jews to pay to the Roman colonial government.
02. Gospel of Mark. Mark was a companion and interpreter of Peter, Jesus’ chief disciple.
03. Gospel of Luke. Luke was a Greek physician and a disciple of Saint Paul, who called himself a disciple of Jesus.
04. Gospel of John. John, a fisherman, was the youngest disciple of Jesus. John always called himself “the one Jesus loves.”
The sentences the student read were Jesus’ sayings recorded by Matthew in the Gospel of Matthew.
• Jesus said: “Do not worry about tomorrow, for tomorrow will worry about itself.” That is the Zen “here and now” life. The past and the future are just thoughts, not life. We can only live “here and now.” Life is a journey of millions of steps, but only the “here and now” steps are “real” now. Every step that has passed and every step that will pass are just thoughts in our heads.
Focusing on each step of “being here now” is good, and after many steps, the path we have walked is naturally a good path.
• “Seek and you will find”: That is the experience of Prince Siddhartha Gautama (later Buddha Shakyamuni) on his way in search for the Truth.
At the age of 29, after going out of the four city gates four times and seeing the old, the sick, the dead and a monk, Prince Siddhartha decided to cultivate himself spiritually. Then one night, he quietly left the palace, deciding to live the homeless life of a monk.
Siddhartha began to practice asceticism with many different groups of monks. He was determined to find a way to end Suffering and sought out teachers of different sects. According to the Indian tradition at that time, only the path of asceticism could lead to enlightenment. Siddhartha quickly reached the level of the state of nothingness (Skt. ākimcanyāyatana, pi. ākiñcaññāyatana), and the state of neither perception nor non-perception (Skt. naivasamjñā-nāsaṃñāyatana, pi. nevasaññā-nāsaññāyatana), which is the most sublime state of meditation. But Siddhartha did not find the answer to his question there either. Even the highest level of meditation, “Neither perception nor non-perception”, did not reach the ultimate level of liberation from Suffering, it was not the ultimate truth, so he determined to find the way to liberation himself. There were 5 monks (the five brothers of Kondanna) accompanying him.
After 6 years of ascetic practice, at times near death, Siddhartha realized that this was not the way to enlightenment, so he started eating normally, the other 5 monks were disappointed and left. Siddhartha decided to eat normally again and vowed that he would enter meditation without leaving his seat until he attained enlightenment, finding the cause and mechanism of Suffering.
According to Buddhist history, on the 8th day of the 12th lunar month in 589 BC, at the age of 35, Siddhartha attained enlightenment, becoming the fully enlightened Buddha, the Supremely Enlightened One (anuttara samma sambodhi), the Buddha Shakyamuni (Shakyamuni) with the Ten Titles:
– Tathāgata (如來), is “He who has come thus” or “He who has come from the realm of Suchness”; the Buddha’s wisdom is like the sun illuminating the entire world, dispelling the darkness of ignorance.
– Arahant (應供), is “One who is worthy of offerings”, worthy of respect.
– Samyaksaṃbuddha (正遍知), is “One who understands all dharmas correctly”.
– Vidyācaraṇasaṃpanna (明行足), is “A person with sufficient wisdom and virtue”, that is, having the three knowledges (Knowledge of Past Lives, Divine Eye Knowledge, and Knowledge of the Extinction of Asavas) and the five virtues (Holy Conduct, Brahma Conduct, Divine Conduct, Child Conduct, and Sick Conduct).
– Sugata (善逝), is “One who has gone well”.
– Lokavid (世間解), is “One who has understood the world”.
– Anuttarapuruṣa (無上士), is “the supreme practitioner, unsurpassed by anyone”.
– Puruṣadamyasārathi (調御大丈夫), is “able to subdue the virtuous and to tame the wicked to the right path.”
– Devamanuṣyānāṃ śāstṛ (天人師), is “The Master of the human and heavenly realms”.
– The World-Honored One (佛世尊) (buddhalokanātha, buddhalokajyeṣṭha, bhagavān), is “The Enlightened One revered by the world”.
From that moment, Siddhārtha knew that he was a Buddha, an Enlightened One, and knew that he would not be reborn again. (Source).
• “Not far from Buddhahood”: Enlightenment, Opening of the Eyes, Awakening, Buddha, Holy Spirit… are not exclusive to Buddhism. It is the phenomenon of our mind being opened and enlightened deeply and completely, although the language used to refer to that phenomenon may be different.
Everyone in the world, regardless of religion or not, can be enlightened.
It is a spiritual miracle of humanity – brothers and sisters of the same ancestors, the same wisdom.
The words of Jesus of Nazareth or Buddha Shakyamuni are ONE truth and ONE art of living that transcends all boundaries of space, time, religion, and culture.
People often think that religions are very different, and they focus on external differences, such as clothing or rituals, and so they divide and sometimes oppose each other. Pity! Pity! External differences are like skin color – people have many different skin colors, but all are people with Buddha-nature inside, with the Holy Spirit of God inside.
Namo Sakyamuni Buddha.
(Tran Dinh Hoanh translated & annotated)
With compassion,
Hoành
o0o
© copyright 2025
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
http://www.dotchuoinon.com
#16
