Vâng lời – Obedience

Chào anh chị em,

Các buổi thuyết giảng của thiền sư Bankei thu hút không chỉ thiền sinh mà đủ mọi hạng người của mọi giáo phái. Thiền sư chẳng bao giờ nhắc đến kinh kệ hay dùng các lý luận khoa bảng, mà chỉ nói trực tiếp từ trái tim đến thẳng trái tim của người nghe.

Một nhà sư của giáo phái Nichiren bực tức vì đám đông đến nghe thiền sư Bankei và vì một số tín đồ của nhà sư đã bỏ sư mà đi nghe Bankei giảng. Vị sư Nichiren tự ái, đi đến chùa, nhất định phải tranh luận với Bankei.

Bankei Yōtaku (1622-1693)

“Ê, thiền sư!” vị sư Nichiren gọi. “Đợi một tí. Ai kính trọng ông sẽ vâng theo lởi ông, nhưng người như tôi không kính trọng ông. Ông có thể làm tôi vâng lời ông không?”

“Đến bên cạnh tôi và tôi sẽ chỉ cho ông,” Bankei nói.

Nhà sư Nichiren hãnh diện bước qua đám đông đến cạnh thiền sư.

Bankei smiled. “Qua bên trái tôi.”

Vị sư làm theo.

“Không,” Bankei nói, “chúng ta nói chuyện dễ hơn nếu anh đứng bên phải. Bước qua đây.”

Nhà sư hãnh diện bước sang bên phải.

“Anh thấy không” Bankei nhận xét, “anh đang vâng lời tôi và tôi nghĩ rằng anh là một người rất hiền dịu. Bây giờ, anh ngồi xuống đây và nghe.”

Bình:

Bankei Yōtaku (Eitaku), Bàn Khuê Vĩnh Trác (Ban Kuei Yongzhu 盤珪永琢, 1622 – 1693, còn được gọi là Bàn Khuê Quốc Sư (Ban Kuei National Master (zh.盤珪國師, ja.bankei kokushi), là một thiền sư Nhật Bản thuộc trường phái Thiền Lâm Tế Myōshin-ji (妙心寺, ja. myōshin-ji). Ông là một trong những thiền sư nổi tiếng nhất trong lịch sử Phật giáo Nhật Bản với tư cách là người đã phổ biến Thiền đến đại chúng.

Bankei có lẽ nổi tiếng nhất với việc giảng dạy về Bất sinh (tiếng Nhật: fushō 不生). Bất sinh (còn gọi là fushō fumetsu 不生不滅, “không sinh và không diệt”, hay “không tạo và không hủy”) bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Phạn anutpāda (không sinh, không khởi, không sinh, không tạo, không khởi nguồn). Truyền thống Ấn Độ xem thuật ngữ “anutpāda” là một khía cạnh của chân lý tối hậu, tánh Không; vì tánh Không không sinh hay diệt, nên nó không sinh và không diệt. Thuật ngữ này cũng được sử dụng trong Kinh Lăng Già, nơi nó được coi là tánh Không. Theo D.T. Suzuki, “anutpāda” không phải là đối nghĩa của “utpāda”, mà vượt lên trên các đối nghĩa. Đó là nhìn thấy bản chất thực sự của hiện hữu, nhìn thấy rằng “tất cả các vật đều không có tự thể”. Cụm từ fushō fumetsu 不生不滅 (bất sinh bất diệt) cũng xuất hiện trong Bát Nhã Tâm Kinh.

Theo giáo lý của Bankei, Vô sinh là tâm Phật, “điều khiển mọi vật một cách trơn tru”. Tâm Phật này được Bàn Khuê mô tả trong suốt các bài thuyết pháp của ngài là “vô sinh và sáng suốt kỳ diệu” (reimei 霊明), vì nó hiện hữu trước khi có suy nghĩ, và nhờ nó mà chúng ta có thể nhìn, nghe, nhận biết và phân biệt vạn vật mà không cần “khai sinh” bất kỳ ý định nào. Bankei so sánh chức năng này với một tấm gương sáng, phản chiếu mà không cần ý định. Theo Bankei, tất cả những gì cần làm là thừa nhận điều này với đức tin: “…tất cả những gì bạn cần làm là thừa nhận với đức tin sâu sắc và nhận thức rằng, không cần bạn phải tạo ra một ý nghĩ nào hay dùng đến bất kỳ sự khôn ngoan hay xảo quyệt nào, mọi thứ đều được nhận biết và phân biệt một cách riêng biệt. Và tất cả là vì tâm Phật sáng suốt kỳ diệu là vô sinh và điều khiển mọi vật một cách trơn tru.”. (Source).

Nichiren (日蓮; phát âm tiếng Nhật: [ɲi.tɕiꜜ.ɾeɴ, ɲiꜜ.tɕi.ɾeɴ],[9] 6 tháng 4 năm 1222 – 13 tháng 10 năm 1282) là một nhà sư và triết gia Phật giáo người Nhật Bản của thời kỳ Kamakura. Giáo lý của ông tạo thành nền tảng của Phật giáo Nichiren, một nhánh độc đáo của Phật giáo Đại thừa Nhật Bản dựa trên Kinh Pháp Hoa.

Nichiren tuyên bố rằng chỉ riêng Kinh Pháp Hoa chứa đựng chân lý tối thượng của Phật giáo và là kinh duy nhất phù hợp với thời kỳ Mạt Pháp. Ông nhấn mạnh rằng Thiên hoàng Nhật Bản và nhân dân chỉ nên ủng hộ hình thức Phật giáo này và xóa bỏ tất cả các hình thức khác, nếu không họ sẽ phải đối mặt với sự sụp đổ xã hội và thảm họa môi trường. Nichiren chủ trương việc trì tụng thành tâm danh hiệu Kinh Pháp Hoa, Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, như con đường duy nhất hữu hiệu dẫn đến Phật quả ngay trong kiếp này, một con đường mà ông cho là dễ tiếp cận với tất cả mọi người, bất kể giai cấp, trình độ học vấn hay năng lực. Nichiren cho rằng Đức Thích Ca Mâu Ni và tất cả các vị thần Phật giáo khác là hiện thân của Đức Phật Nguyên Thủy Vĩnh Cửu (本仏 Honbutsu) của Kinh Pháp Hoa, mà ông coi là chính Kinh Pháp Hoa và danh hiệu của Kinh. Ông cũng tuyên bố rằng những người tin theo Kinh Pháp Hoa phải truyền bá Kinh Pháp Hoa mặc dù điều này sẽ dẫn đến nhiều khó khăn và thậm chí là bị đàn áp, mà Nichiren hiểu là cách “đọc” Kinh Pháp Hoa bằng chính thân mình. Nichiren tin rằng việc truyền bá giáo lý Kinh Pháp Hoa sẽ dẫn đến việc tạo ra một Tịnh Độ trên trái đất.

• Sân hận và kiêu căng làm vị sư Nichiren mù mắt, đầu óc hết nhậy bén và không thấy những gì đang xảy đến cho mình. Tâm loạn động thì rối rắm và mù quáng.

• Chấp. Khi tâm ta chấp vào một điều gì đó — như vị sư Nichiren quyết tâm chứng minh trước đám đông là thiền sư Bankei không điều khiển được ông – ta dễ bị mù mắt. Chấp trước làm ta thành si mê.

• Một tâm tĩnh và một tâm động. Tĩnh chỉ huy động, chứ động không chỉ huy tĩnh. Tướng ngồi trong trướng, quân chạy bên ngoài. Tướng chỉ huy quân, quân không chỉ huy tướng.

• Thời Đông Châu Liệt Quốc (từ 770 TCN đến 221 TCN), Quỷ Cốc Tử, thầy binh pháp của Tôn Tẫn và Bàng Quyên, cũng bị Tôn Tẫn thắng bằng trí. Quỷ Cốc Tử ngồi trên ghế và hỏi hai đệ tử làm cách nào cho ông rời ghế mà không đụng vào người ông. Bàng Quyên nói sẽ đốt lửa dưới ghế. Thầy cho là kế hay. Tôn Tẩn nói, “Con không làm cho thầy rời ghế được, nhưng nếu thầy đứng dậy con sẽ có cách làm thầy phải ngồi xuống ghế.” Quỷ Cốc Tử đứng dậy, và trúng kế học trò.

Một đệ tử sử dụng vũ lực thô bạo – lửa để đốt; một đệ tử sử dụng từ ngữ nhẹ nhàng thông minh. Ai là bậc thượng căn?

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

Với yêu thương,

Hoành

o0o

Vâng lời – Obedience

Dear Brothers and Sisters,

The master Bankei’s talks were attended not only by Zen students but by persons of all ranks and sects. He never quoted sutras nor indulged in scholastic dissertations. Instead, his words were spoken directly from his heart to the hearts of his listeners.

His large audiences angered a priest of the Nichiren sect because the adherents had left to hear about Zen. The self-centered Nichiren priest came to the temple, determined to debate with Bankei.

Bankei Yōtaku (1622-1693)

“Hey, Zen teacher!” he called out. “Wait a minute. Whoever respects you will obey what you say, but a man like myself does not respect you. Can you make me obey you?”

“Come up beside me and I will show you,” said Bankei.

Proudly the priest pushed his way through the crowd to the teacher.

Bankei smiled. “Come over to my left side.”

The priest obeyed.

“No,” said Bankei, “we may talk better if you are on the right side. Step over here.”

The priest proudly stepped over to the right

“You see,” observed Bankei, “you are obeying me and I think you are a very gentle person. Now sit down and listen.”

Annotation:

Bankei yōtaku (eitaku), Ban Kuei Yongzhu (盤珪永琢), 1622 – 1693, also known as Ban Kuei National Master (zh. 盤珪國師, ja. bankei kokushi), was a Japanese Zen master of the Rinzai sect of Zen. Myōshin-ji (妙心寺, ja. myōshin-ji). He is one of the most famous Zen masters in the history of Japanese Buddhism as the one who popularized Zen to the masses.

Bankei is perhaps most famous for his teaching of the Unborn (Japanese: fushō 不生). The Unborn (also fushō fumetsu 不生不滅, “unborn and undying,” or “no creation and no annihilation”) derives from the Sanskrit term, anutpāda (no-birth, no-arising, not-born, non-produced, no-origin). The Indian tradition sees the term “anutpāda” as an aspect of the ultimate truth, emptiness; since emptiness does not arise or cease, it is not born and never dies. The term is also used in the Lankavatara Sutra, where it is equated with emptiness. According to D.T. Suzuki, “anutpāda” is not the opposite of “utpāda,” but transcends opposites. It is the seeing into the true nature of existence, the seeing that “all objects are without self-substance.” The phrase fushō fumetsu 不生不滅 (unborn undying) also occurs in the Heart Sūtra.

According to Bankei’s teaching, the Unborn is the Buddha-mind which “smoothly manages each and every thing.” This Buddha-mind is described by Bankei throughout his sermons as “unborn and marvelously illuminating” (reimei 霊明), as it is before thought and it is by means of it that we are able to see, hear, recognize and distinguish all things without giving “birth” to any intention to do so. Bankei compares this function to a bright mirror which reflects without conscious intention.[18] According to Bankei, all that is required is to acknowledge this with faith: “…all you’ve got to do is acknowledge with profound faith and realization that, without your producing a single thought or resorting to any cleverness or shrewdness, everything is individually recognized and distinguished of itself. And all because the marvelously illuminating Buddha-mind is unborn and smoothly manages each and every thing.” (Source).

Nichiren (日蓮; Japanese pronunciation: [ɲi.tɕiꜜ.ɾeɴ, ɲiꜜ.tɕi.ɾeɴ], 6 April 1222 – 13 October 1282) was a Japanese Buddhist monk and philosopher of the Kamakura period. His teachings form the basis of Nichiren Buddhism, a unique branch of Japanese Mahayana Buddhism based on the Lotus Sutra.

Nichiren declared that the Lotus Sutra alone contains the highest truth of Buddhism and that it is the only sutra suited for the Age of Dharma Decline. He insisted that the sovereign of Japan and its people should support only this form of Buddhism and eradicate all others, or they would face social collapse and environmental disasters. Nichiren advocated the faithful recitation of the title of the Lotus Sutra, Namu Myōhō Renge Kyō, as the only effective path to Buddhahood in this very life, a path which he saw as accessible to all people regardless of class, education or ability. Nichiren held that Shakyamuni and all other Buddhist deities were manifestations of the Original Eternal Buddha (本仏 Honbutsu) of the Lotus Sutra, which he equated with the Lotus Sutra itself and its title. He also declared that believers of the Lotus Sutra must propagate it even though this would lead to many difficulties and even persecution, which Nichiren understood as a way of “reading” the Lotus Sutra with one’s very body. Nichiren believed that the spread of the Lotus Sutra teachings would lead to the creation of a Pure Land on earth.

• Anger and arrogance blind the Nichiren priest so much that his mind became blind and dull, and he couldn’t see what was happening to him. A disturbed mind is confused and blind.

• Attachment. When our mind is attached to something – such as the Nichiren priest’s determination to prove in public that Zen master Bankei was unable to control him — we can easily become blind.

• One mind is quiet, one mind is jumpy. The quiet controls the jumpy, not the other way around. The general sits in the headquarters, soldiers move outside in the field. General controls soldiers, soldiers do not control general.

• Similar to this story, in the Warring Period of China (770 BC to 221 BC), Quy Coc Tu (The Wise Cave Dweller), teacher of Sun Bin and Pang Juan – two great generals of the time – was defeated by the intelligence of his pupil Sun Bin. The teacher, sitting on a chair, asked the two students how to move him from the chair without touching his body. Pang Juan said he would make a fire under chair. The teacher said that was a good plan. Sun Bin said: “Master, I can’t make you move off the chair, but if you stand up I will have a way to force you to sit down on the chair.” The teacher fell into Sun Bin’s trick and stood up.

One student used crude force – fire to burn; one student used the intelligent gentle words. Who is superior?

(Trần Đình Hoành translated & annotated)

With compassion,

Hoành

o0o

© copyright 2025
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
http://www.dotchuoinon.com

#4

Leave a comment