Tiểu luận về Bát Nhã Tâm Kinh – A brief exposition on the Heart Sutra (13)

Bài cùng chuỗi Tiểu luận về BNTK:
(1)(2)(3)(4)(5)(6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14). Done.

Nhưng tại sao phủ nhận tất cả mọi giáo lý? Sự phủ nhận này có ý nghĩa gì?

Chúng ta cần nhớ rằng, trong Bát Nhã, phủ định và khẳng định là một—sắc tức thị không, không tức thị sắc; phủ định là khẳng định, khẳng định là phủ định. Và như ta đã thấy Bát Nhã khẳng định tất cả mọi thứ như chính nó là (Bát Nhã affirms every thing as it is).

Hãy nhìn ra biển, nếu ta chỉ chú tâm vào nước, ta có thể nói rằng sóng không hiện hữu – sóng chỉ là chuyển động của nước. Tuy nhiên, nếu ta chỉ chú tâm vào sóng thôi, ta có thể nói rằng sóng thực sự hiện hữu, nhưng chỉ trong thoáng chốc. Vì thế, khi ta nói mà ta chú tâm vào Không, ta nói: “Trong Không chẳng có giáo lý nào”. Nhưng nếu ta chú tâm vào chính bản thân giáo lý, ta nói, “Đúng, có những giáo lý, nhưng chúng là vô thường.”

Sự tập trung mạnh mẽ vào Không trong Bát Nhã là một cách nói thực tiễn để tập trung tư tưởng của chúng ta vào vô thường. Khẳng định lẽ vô thường của những giáo lý có nghĩa là “Đúng, có những giáo lý, hãy học tập và tu luyện chúng. Nhưng chúng cũng là vô thường, là nhất thời, vì thế đừng bị chấp vào chúng.” Điều đó có nghĩa rằng:

Mỗi giáo lý kể trên đều quan trọng, xứng đáng được nhắc đến đích danh và đặc biệt trong Bát Nhã Tâm Kinh. Vì thế, hãy tu học và thực tập mỗi giáo lý một cách nghiêm túc.

Giáo lý là tạm thời để giúp đỡ, như chiếc bè dùng để qua sông. Khi đã vượt qua được bờ bên kia rồi, đừng mang theo chiếc bè trên vai. 

“Trong Không chẳng có giáo lý” cũng miêu tả trạng thái giác ngộ. 

Tất cả giáo lý là để giúp hành giả tu tập đạt đến giác ngộ, đạt đến niết bàn (nirvana). 

Nhưng niết bàn là gì?

Niết bàn (nirvana) có nghĩa là “lửa đã tắt”—tâm hoàn toàn thanh tịnh, tâm tuyệt đối không còn dính mắc, tâm nhìn thấy tất cả mọi thứ nhưng không dính mắc vào bất cứ thứ gì, tâm của Không. 

Tâm hiểu được rằng Không là bản thể của nó cũng như là bản thể của mọi thứ khác trong vũ trụ. Tâm đã tìm thấy bản chất tự nhiên chân thực của nó – Không, cái tuyệt đối, cái chẳng bao giờ sinh ra, chẳng bao giờ mất đi, chẳng bao giờ dơ, chẳng bao giờ sạch, chẳng bao giờ tăng, chẳng bao giờ giảm, cái thanh tịnh tuyệt đối, cái Chân Như, Phật tánh. Cái tâm này đã nhận ra bản chất tự nhiên chân thật của nó, và giờ đây là Phật. Minh tâm kiến tánh thành Phật.  Soi sáng tâm, nhìn thấy bản chất chân thật, trở thành Phật.

Nhưng có phải là tâm này trong thực tế đã chuyển từ tâm của một người bình thường thành Phật? 

Đúng và không. Nếu chúng ta tư duy theo cách chúng ta thường nghĩ với một dòng thời gian có quá khứ, hiện tại và tương lai, thì “đúng”, tâm này đã chuyển từ tâm một người bình thường thành một vị Phật. Năm phút trước đây nó đã từng là một tâm vô minh, giờ đây nó là Phật. 

Tuy nhiên, đứng trên quan điểm giác ngộ, tâm chẳng trở thành gì cả. Tâm luôn ở đó, luôn là Không. Tâm đã không biết rằng nó là Không, nhưng giờ đây nó biết rằng nó là Không. Chỉ vậy thôi.  Tâm chẳng trở thành cái gì khác tốt hơn hay cao hơn.

Khi vô minh vẫn còn, vô minh hành động như bức màn che ngăn cản tầm nhìn của tâm; vì thế, tâm không thể nhìn thấy chính mình rõ ràng. Khi tâm không còn dính mắc, bức màn vô minh được tháo ra, và tâm có thể nhìn thấy chính nó thực sự là Không. Tâm bây giờ trở về bản chất chân thực của nó – Không, thanh tịnh tuyệt đối, niết bàn, Phật. Niết bàn luôn luôn ở đó, Phật luôn luôn ở đó. Vấn đề là ta có nhận thấy hay không.

Vì thế, thực ra, không có việc trở thành Phật, cũng không có thành tựu giác ngộ, không có dòng sông nào để vượt qua, không có vượt qua. Phật đã luôn luôn có mặt ở đó.  Đó là tại sao ở phần đầu của tiểu luận này, chúng ta nói rằng “Tất cả sự vượt qua đều chỉ là hiện tượng nhất thời của tâm trí.”

Lưu ý về “cái thấy” 

Khi ta nói rằng “tâm nhìn thấy chính nó là Không”, chúng ta có thể nghĩ về “thấy” như một chức năng của tri thức, một khả năng tri thức của bộ óc để hiểu biết. Nhưng cái thấy chân thực còn liên quan đến nhiều điều khác nữa, chứ không phải chỉ là tri thức. Ví dụ như: Người vợ hỏi người chồng đã say xỉn, “Anh có biết em khổ chừng nào không?” Người chồng trả lời, “Tất nhiên… Anh biết… Anh xài hết… tiền…vào chầu nhậu say sưa… Anh về trễ… anh xỉn tối ngày… Anh ói ra sàn… Em bị căng thẳng suốt… Có gì đâu mà… khó hiểu…?” Và anh ta cứ tiếp tục uống say ngày qua ngày. Đó là cái hiểu hay cái thấy của tri thức.

Cho đến một ngày, người chồng cảm nhận được trong từng sợi cơ của thân thể và trong từng tế bào não của mình rằng anh ta đã vô trách nhiệm như thế nào. Anh ta giờ đây cảm nhận được từng milligram nỗi khổ của người vợ, và nỗi khổ của cô ấy đốt cháy từng tế bào trong cơ thể và tâm trí anh ta như một lò thiêu.  Anh ta tỉnh dậy, như thể từ một giấc mơ. Và thế là anh ta bỏ rượu mãi mãi. Đó chính là cái thấy chân thực.

Vì thế, khi chúng ta nói về cái thấy và hiểu biết của giác ngộ, chúng ta nói về một kinh nghiệm “thức tỉnh” toàn bộ, liên quan đến tất cả mọi phương diện của đời sống tinh thần – tri thức (intellect), ý chí (will) , cảm tính (emotion), tự thể (id), tự ngã (ego), siêu ngã (super-ego), ý thức (consciousness), tiềm thức (subconsciousness), vô thức (unconscious) và bất kỳ cái gì khác nữa của tinh thần—một sự chuyển hóa trọn vẹn, một sự tái sinh toàn bộ, nâng tâm thức ta đến một tầm cao hoàn toàn mới của cái thấy, cái biết, cảm giác, tư duy và hành động.

Đây là sự tỉnh thức trọn vẹn, vì thế, không thể đạt được bằng tri thức thông thường – tức là không thể đạt được chỉ bằng đọc tụng kinh sách, triết lý Phật pháp. Con đường Phật pháp để đạt đến sự tỉnh thức hoàn toàn này bao gồm ba yếu tố chính: Giới (các quy tắc hành xử, rules of conduct), định (thiền định, tập trung tâm trí, meditation, concentrating the mind), huệ (trí tuệ, wisdom). Một ví dụ kinh điển là Bát Chánh Đạo (The Noble Eightfold Path). Tám nhánh của Bát Chánh Đạo được gộp thành ba nhóm như sau: 

Huệ (wisdom): 1. Chánh kiến (right view), 2. Chánh tư duy (right thought). 

Giới (rules of conduct): 3. Chánh Ngữ (right speech), 4. Chánh Nghiệp (right action), 5. Chánh mạng (right livelihood). 

Định (meditation): 6. Chánh tinh tấn (right effort), 7. Chánh niệm (right mindfulness), 8. Chánh định (right concentration). 

Giới định huệ được gọi là tam học (three studies) và đi cùng với nhau. Hành xử tốt, thái độ điềm tĩnh và kiến thức thông tuệ đi cùng với nhau; chúng ta không thể bỏ qua một cái nào mà hy vọng đạt được sự thấu hiểu chính xác về Phật pháp, chưa kể đến giác ngộ. Đọc kinh sách Phật pháp trong khi tham ô tiền của nhà nước hay say xỉn tối ngày sẽ không đem đến cho chúng ta sự thấu hiểu chính xác về Phật pháp. Phật pháp không chỉ là một triết lý tri thức, mà nó là một nghệ thuật sống bao hàm toàn diện. Và sống thì luôn luôn cần thực hành.

o0o

Tiểu luận về Bát Nhã Tâm Kinh – A brief exposition on the Heart Sutra (13)

Series A brief exposition on the Heart Sutra:
(1)(2)(3)(4)(5)(6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14). Done.

But why negate all the teachings? What does this negation mean?

We need to keep in mind that, in prajana language, negation and affirmation are the same—form itself is emptiness, emptiness itself is form; negation is affirmation, affirmation is negation.  And as we have seen, prajna affirms all things as they truly are. 

Looking at the sea, if we focus our attention on the water only, we can say that the waves don’t exist—waves are just the movement of water. However, if we focus our attention on the waves themselves, we can say that the waves do exist, but only briefly.  Thus, when we are talking with our attention focused on emptiness, we say, “In emptiness there is no teaching.” If our attention is focused on the teachings themselves, we say, “Yes, there are teachings, but they are impermanent.”

The strong focus on emptiness in the Heart Sutra is a practical way to help us focus our attention on impermanence. Affirmation of the impermanence of the teachings means “Yes, there are teachings, so learn them and practice them. But they are impermanent, temporary, so don’t be attached to them.” That means:

Each listed teaching is important and deseves to be mentioned individually and specifically in the Heart Sutra.  So, please practice each teaching seriously. 

But each teaching is also impermanent and temporary.  So, please don’t attach yourself to it.  That means, be flexible with the teachings.  Don’t follow them rigidly like a robot.  Teachings are guidelines; use your mind/heart and be flexible when applying the teachings to life.

Teachings are there temporarily to help, like a raft used to cross the river.  When you have crossed to the other shore, don’t carry the raft on your shoulder.

“In emptiness there is no teaching” also describes the state of enlightenment.

All the teachings are there to help the practitioner achieve enlightenment, achieve nirvana.

But what is nirvana?

Nirvana means “the fire is out”—the completely pure and tranquil mind, the mind that has absolutely no attachment, the mind that sees all things but is attached to nothing, the mind of emptiness.

This mind understands that emptiness is its substance as well as the substance of everything else in the universe This mind has found its true nature — emptiness, the absolute, the never-born never-destroyed nerver-dirty never-clean never-increasing never-diminishing, the absolute tranquility, the Buddha. This mind, which has found its true nature, is now Buddha. “Point straight to the mind, see your true nature, and become Buddha,” as the Sixth Zen patriarch Huineng has said.

But has this mind just, in fact, turned itself from an ordinary human mind to a Buddha?

Yes and no. If we think the way we normally think with a time line of past, present and future, then “yes,” this mind has just turned from a regular human mind to a Buddha. Five minutes ago it was an ignorant mind, now it is a Buddha.

However, from the stand point of enlightenment, the mind has not become anything. The mind has always been there, has always been emptiness. It didn’t know that it is emptiness, but now it knows that it is emptiness. That’s all. It did not become something else better or higher.

When ignorance is still around, ignorance acts like a veil that obstructs the mind’s vision; therefore, the mind cannot see itself clearly. When the mind has no attachment, the veil of ignorance is lifted, and the mind can see itself truly as emptiness. The mind is now back to its true nature — emptiness, the absolute tranquility, nirvana, Buddha. Nirvana has always been there, Buddha has always been there. It is just a matter of seeing or not-seeing.

So, indeed, there is no becoming Buddha, no attaining enlightenment, no river to cross, no crossing over. The Buddha has always been there. This is why at the beginning of this exposition, we say, “All the crossing is just a fleeting phenomenon of the mind.”

A note on “seeing”

When we say “the mind sees itself as emptiness,” we may think of the word “see” as a function of the intellect, an intellectual capacity of our brain to understand.  But true seeing involves much more than the intellect.  Example:  Wife tells drunken husband, “Do you know how miserable I am?”  Husband answers, “Of course… I know…  I spend all… the money… on booze…  I get home late… and drunk every night… I mess … up the floor with… my vomit…  You… are stressed all the time…  What is… so hard to understand… about that …?” And he continues drinking day after day. That is the understanding or seeing of the intellect.

Until one day, the husband feels in every fiber of his body and in every cell of his brain how irresponsible he has been.  He now feels every single miligram of his wife’s pain, and her pain burns every cell in his body and mind like a holocaust. He wakes up, as if from a dream. Then he just quits drinking, forever. That is true seeing.

So, when we talk about seeing or understanding in the sense of enlightenment, we talk about a total “awakening” experience that involves every single aspect of our mental existence – the intellect, the will, the emotion, the id, the ego, the super-ego, the consciousness, the subconsciousness, the nonconscious and what have you – a total transformation, a total rebirth, that brings the mind to a completely new level of seeing, understanding, feeling, thinking and acting.

This total awakening, therefore, cannot be achieved merely by the intellect – i.e. not merely by reading Buddhist philosophy. The Buddhist road to achieve this total awakening contains three major elements: discipline, meditation, wisdom. A typical example is the Noble Eightfold Path. The eight lanes of this path are grouped into three groups as follows:

Wisdom: 1. Right view, 2. Right thought.

Discipline: 3. Right speech, 4. Right action, 5. Right livelihood.

Meditation: 6. Right effort, 7. Right mindfulness, 8. Right concentration.

Discipline, meditation and wisdom are called three studies and work together. Disciplined conduct, calm attitude and wise knowledge go together; we cannot leave one out and hope to gain an accurate understanding of Buddhism, not mentioning enlightenment. Reading Buddhist books while embezzling government money or getting drunk every day will not give us an accurate understanding of Buddhism. Buddhism is more than an intellectual philosophy. It is a comprehensive way of living. And all living needs practice.

o0o

© copyright 2025
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
http://www.dotchuoinon.com

Leave a comment