Hồi ký Bảo Đại

Bảo Đại

Con Rồng Việt Nam


 

LỜI MỞ ĐẦU

Đây là cuốn sách do Hoàng Đế Bảo Đại viết. Ngài muốn phổ biến rộng rãi cho đồng bào Việt Nam, nhất là cho con cháu dòng Nguyễn Phước của Ngài, biết rõ cuộc sống của mình ra sao, từ khi sanh ra, đi học, làm Vua, chiến đấu cho đến cuộc đời lưu vong hiện nay, trong đó không hiết bao tình tiết, về thế cuộc mà chúng ta đều cần phải biết. Vi đó chính là những bí mật lịch sử của Việt Nam trong suốt sáu mươi năm, qua (1913-1975).

Do thể cuốn sách này được phổ biến ra là cần. Mà đây là thứ tiếng quan thoại, văn hoa, trang trọng, vào thời gian ấy, dùng văn phong, văn khí của nguyên tác, khác xa với loại từ ngữ nôm na, biến chất ngày nay.

Nguyễn Phước Tộc

Danh tắc chính
Ngôn tắc thuận
Khổng Tử

PHẦN THỨ NHẤT

NƯỚC VIỆT NAM NGÀY TRƯỚCÀ GẦN ĐÂY
1913-1932

Ngày thơ ấu ở Huế

– Thưa Điện hạ, Điện hạ còn trẻ, nhưng đã mang trong mình một hoài bão của một triều đại huy hoàng và tương lai của một dân tộc. Điện hạ rất đáng mến, mà trong giới cổ kính của nước Pháp, chỉ nhìn thấy Điện hạ, người ta đã sẵn sàng gọi Điện hạ là vị Đông cung Hoàng thái tử đáng yêu.

Viên Khâm sú Pierre Pasquier sửa lại cặp kính mũi, và tiếp theo:

– Điện hạ đã được thụ bẩm những đức tính vương quyền của Tổ tiên, do Phụ hqàng, ngày càng phát triển thêm bởi sự chăm sóc trọng hậu của hai vị Quốc thái. Ngày du học của Điện hạ tại Pháp lại càng mở mang thêm nữa. Nước Pháp sẽ giáo huấn Điện hạ thành một vì Vương sáng suốt, tiến bộ, nhân ái và vị tha, có nhãn quan rộng lớn, một vì Vương thông thái, thành thực trung chính và thẳng thắn. Thẳng thắn là tinh thần cao thượng của Pháp. Và bởi Phảp, Điện hạ sẽ là một anh quân, không một vết nhơ trong lịch sử.

Rất chăm chú và với khá nhiều khó khăn, tôi nghe lời phiên dịch của viên thông ngôn nói với cha tôi là Hoàng đế Khải Định, ngồi ở bên trái tôi.

Với bộ râu cằm xén vuông vắn, bộ ria cứng màu đen tỉa nhọn, áo veston trắng khuy cài trịnh trọng, quần đen có nẹp, viên Thượng sứ của Pháp quốc quả đã nghiêm chỉnh, uy nghi, khi đọc bản chúc tụng trong buổi lễ trang nghiêm này. Ông ta nhìn tận mắt tôi một giây lâu, rồi nhấn mạnh từng chữ:

– Xin Điện hạ luôn nhớ tới buổi lễ tấn phong này, đã có hai khuôn mặt vĩ đại cúi xuống nhìn Điện hạ, vừa để mỉm cười chúc mừng Điện hạ, vừa để che chở cho Điện hạ: Đó là khuôn mặt nghiêm chỉnh và đạo đức của nước Việt Nam cổ kính, và khuôn mặt hiền từ và rạng rỡ của nước Đại Pháp sáng lạn và vinh quang.

Viên Khâm sứ nói xong thì tiến tới một phía điện, đứng chung vào chỗ quí khách người Pháp được mời dự khán.

Cha tôi ngồi trên ngai, nghe ông ta nói xong, bấy giờ mới đứng lên đáp từ:

– Thưa quan Khâm sứ, Trẫm xin cảm tạ sự chúc mừng nồng nhiệt của quan Khâm sứ trong dịp đại lễ này. Lời chúc tụng đó làm cho Trẫm vô cùng vui sướng. Lẽ tự nhiên, người cha nào cũng hân hoan khi thấy con mình được tiên khởi thành nhân vật trọng đại mai sau. Đông cung Hoàng thái tử sẽ là bực Trừ quân, để mang một trọng trách cho nước Việt Nam mai sau, và sự bang giao chính thức với quốc gia bạn. Cho đến nay, vì con Trẫm còn nhỏ, nên Trẫm chưa thấy cần thiết lập lên làm Đông cung Thái tử, điều mà bên Tôn nhơn phủ và Cơ mật viện đều mong mỏi. Nhưng bên chính phủ Đại Pháp cũng như các vị quí quan thuộc chính phủ bảo hộ Đông Dương, đều có ý định tương đồng, khi nhớ tới những đức tính cao cả và sự trung tín của Đức Tiên đế, nên Trẫm rất sung sướng phong cho con Trẫm lên làm Đông cung Thái tử, hầu sẽ kế vị Trẫm mai sau, trong buổi lễ tấn phong vào ngày hôm nay. Trẫm nghĩ rằng như vậy là đã thỏa mãn được nguyện vọng của các quan trong triều đình cũng như trong dân gian nước Việt Nam vậy.

Đấy là vào ngày 28 tháng 4 năm 1922, tức ngày mùng 2 tháng 4 năm thứ 7 đời Khải Định, lúc ấy tôi mới lên chín tuổi.

Từ tảng sáng, khi tiếng thần công nổ vang, báo hiệu giờ khai triều, các quan đủ mọi phẩm trật, vận đại trào đều đến chật sân chầu, trong khi các quan thuộc bộ Lễ âm nhạc dẫn đầu, kéo đến điện Cần Chánh, để mang các bảo vật dành cho tôi, xếp để lên bàn: một sắc phong khắc lên giấy bằng vàng, ấn vàng. Sắc để trong một ống quyển, có giá sơn son, đầu giá có hình đầu chim Phụng, bằng vàng.

Sắc chiếu này có kềm ngọc tỉ của Hoàng triều, và đề ngày 10 tháng 3 năm 1922, chứng tỏ đường lối chính trị khôn khéo của cha tôi:

“Để tập hợp các phương hướng dị biệt trên toàn quốc, đưa non sông về một mối duy nhất, cần phải có một chính quyền trung ương vững mạnh. Để đặt chính thể vào một vị trí vững chãi, bất khả xâm phạm, cần phải bảo đảm cho Ngai Vàng một căn bản liên tục, đã được dự trù hoàn hảo. Căn cứ vào đường lối ấy, Hoàng triều liệt thánh trước đây bao giờ cũng chọn lựa. Sẵn ngôi Đông cung Thái tử, để nối ngôi và phụng thờ tôn miếu.

“Con trai cả Trẫm, Vĩnh Thụy, được giáo huấn nơi cung điện, hãy còn nhỏ tuổi. Học vấn mới sơ khai, ngọc còn chưa dũa đến nơi đến chốn. Trẫm vẫn muốn chờ đợi đến một ngày khác, khi Hoàng tử đã khôn lớn, có đủ Đức, Tài, mới tấn phong cho làm Đông cung Thái tử.

“Tuy nhiên, gần đây, Hội đồng Tôn nhơn phủ và Cơ mật viện Đại thần đều đồng thanh khẩn cầu Trẫm làm lễ tấn phong cho Thái tử lên chức Đông cung kế vị Trẫm sau này. Các vị Đại thần đã bảo nhau rằng: Một vấn đề trọng đại cho triều đình như vậy, cần phải được hoàn tất ngay, hầu ban bố cho toàn thể dân chúng biết là tương lai của họ đã được trao cho ai. Như vậy, sẽ tránh được những dòm ngó của kẻ vô chính thức, khỏi sinh lòng kia khác.

“Sau những suy tư tương tự, Trẫm cũng nhận thấy rằng, việc nối ngôi vốn là một trách nhiệm nặng nề, việc tấn phong sẽ là một sự cần thiết, có tầm quan trọng lớn lao.

“Bởi vậy, Trẫm nghĩ rằng nên tham khảo ý kiến bên quốc gia bảo hộ về vấn đề này.

“Ngày 25 tháng giêng năm nay (ngày 21 tháng 2 năm 1922), quan Toàn quyền Đông Pháp đã tới yết kiến Trẫm tại kinh đô Huế, và cho biết là chính phủ Cộng hòa Pháp quốc cũng như chính phủ Bảo hộ Nam triều, đều hân hoan chấp nhận dự định tấn phong này.

“Quan Khâm sứ Trung kỳ cũng nhận định y như quan Toàn quyền Đông Pháp là nước Pháp bảo hộ thân hữu rất quan tâm đến sự củng cố tình hữu nghị giữa hai nước, và sự thịnh vượng của Việt Nam, nên chính thức loan báo công nhận đề cử con Trẫm lên làm người kế vị Trẫm sau này.

“Dĩ nhiên, nào ai biết chắc được tương lai của mình? Nhưng nếu được chuẩn bị sẵn sàng, thì bao giờ cũng dễ dàng đối phó trước mọi bất trắc bất ngờ.

“Trước sự đồng nhất thỉnh cầu của các bậc Đại thần, và sự tha thiết của quí quan Đại Pháp, đại diện chính phủ Bảo hộ, hằng quan tâm đến sự bền vững của Ngai Vàng, Trẫm đã quyết định xin ý kiến của hai Đức Hoàng thái hậu, và đã được hai Ngài chấp thuận.

“Bởi vậy, Trẫm chiếu phong cho con trai cả Trẫm, Vĩnh Thụy, lên chức Đông cung Thái tử, sẽ kế vị Trẫm làm Hoàng đế Việt Nam, và được ngự tại An Định cung phía Đông Hoàng cung.

“Tòa Khâm thiện giám được chỉ định tìm ngày lành tháng tốt, để làm lễ tấn phong cho Thái tử, ngày yết kiến Thái miếu, và đặt chương trình cho ngày lễ long trọng này. Tòa Khâm thiên giám sẽ tấu trình ngay Trẫm, để được chấp thuận và thi hành.

“Khâm thử”

Vào 8 giờ sáng, Hoàng đế được xa giá ra ngự Triều. Xa giá của Ngài là chiếc ghế có lính khênh. Chiếc ghế này có một lịch sử khá dài. Quốc vương Louis XVI của nước Pháp đã gửi tặng tổ tiên tôi là Hoàng đế Gia Long, khi ký Hòa ước Versailles năm 1787, giao kết giữa hai nước, và do Đức Cha Bá Đa Lộc (Monseigneur Pigneau de Behaine) lúc ấy là sứ thần của Chúa Nguyễn, khi đưa Hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện. Từ đó, chiếc ghế được dùng làm vật di chuyển cho các vị Tiên đế đi lại trong thành nội.

Cha tôi vận đại trào: mũ cửu long tranh châu, áo hoàng bào, đai ngọc, gậy ngọc. Bảy phát súng thần công nổ vang báo hiệu lúc đăng triều. Chuông khánh reo vang ở hai bên tả hữu cửa Ngọ Môn, là cửa chính đưa vào điện Cần Chánh, nơi thết đại triều.

Ngay lúc ấy, quan Khâm sứ tới. Ông được một viên quan bộ Lễ đến đón, có lính ngự lâm cưỡi ngựa tháp tùng. Khi đến cửa Ngọ Môn, ông xuống xe và đi bộ, cùng các quan khác người Pháp leo lên đại diện ở đó, tôi đã túc trực sẵn để đưa ông tới triều kiến Hoàng đế.

Chính tại đó, mà quan Khâm sứ đã đọc diễn từ chúc tụng, và cha tôi đã đáp lại như sau:

– Được giáo huấn vào nhiệm vụ lớn lao này, Hoàng thái tử Vĩnh Thụy ngay từ bây giờ, cần phải được trau dồi về học vấn lẫn tâm hồn. Chính vì vậy, Trẫm quyết định cho theo Trẫm sang Pháp trong dịp Tây du của Trẫm nay mai, hầu trao phó sự uốn nắn này cho nước Pháp bảo hộ. Làm như vậy, Trẫm có một niềm tin sắt đá về Thái tử, khi hồi triều, sẽ là một vì Vương sáng suốt, sẵn sàng canh tân đất nước, hầu sửa soạn nhiệm vụ cao cả của Thái tử, khi lên nối ngôi, để thắt chặt tình hữu nghị mặn nồng giữa hai nước Việt Nam và Pháp.

Hoàn cảnh hạnh lạc này giúp Trẫm khẳng định được rằng đường lối chính trị thẳng thắn và trung tín mà Trẫm từng theo đuổi, đã đạt nhiều kết quả tốt đẹp, mà triều đại Trẫm có thể tự hào.

Sau khi đọc xong bản diễn từ, Hoàng đế bước lên ngôi nghiêm chỉnh trên ngai để các hoàng tử khác, theo sự hướng dẫn của viên quan bộ Lễ vào lạy mừng, theo định lệ là lạy năm lạy.

Đến lượt tôi. Cũng lạy năm lạy xong, tôi được quì chênh chếch bên tay trái Hoàng đế, vì không ai được nhìn thẳng vào trước mặt Đức Vua. Hai viên Đại thần khác cũng tới quì ở trước Hoàng đế. Một vị đọc sắc chỉ tấn phong tôi, còn vị kia đọc các hàng chữ khắc lên ấn vàng của tôi. Xong xuôi, họ trao các bảo vật ấy cho tôi và tôi lại trao lại cho hai viên quan tôn thất của Hoàng gia. Lạy năm lạy nữa, bây giờ tôi mới được phép lui vào phòng đợi.

Lúc ấy, một vị Đại thần trong Nội các, được coi là Ngự tiền Văn phòng của Đức Vua đến tấu trình xin được ban bố chiếu chỉ tấn phong này. Hoàng đế chấp thuận, và một vị quan trong bộ Lại (tức bộ Nội vụ) đến lấy tờ sắc chỉ để trong ống quyển, có đầu chim Phụng bằng vàng, cho rước ra phòng sắc chỉ. Tại đây, sắc chỉ được niêm yết trước khi được đem phổ biến cho các cơ quan và các tỉnh.

Trước khi Vua lui chầu, các hoàng tử và các đại thần lại phải lạy năm lạy tạ ơn, để chấm dứt buổi lễ.

Cha tôi dự tiệc trà nhỏ với quan Khâm sứ và các quí khách người Pháp. Khi họ ra về, cha tôi mới hồi cung.

Lúc các hoàng tử và các đại thần tiễn tôi về An Định cung thì mới chín giờ sáng. Đám rước này, ngoài các hoàng tử và các quan, còn có lính kỵ mã của Hoàng đế và lính ngự lâm vận áo nậu đỏ, và vác những cờ ngũ hành nghi biểu. Xe chở tôi do hai con bạch mã kéo, và có lọng đỏ che phủ hai bên. Chiếc hương án đi dẫn lộ mang sắc chỉ và ân tín cũng đều có lọng che như vậy. Đến An Định cung, các hoàng tử và các quan được ban trà nước.

Hôm sau, tôi đến lăng thờ Đức Nguyễn Kim, là vị khai sáng ra dòng chúa Nguyễn, và thủy tổ của các vì Tiền đế, kể từ Vua Gia Long trở đi. Tôi phải làm lễ bái tạ, xong đâu đó, tôi lại đến cung của hai Đức Thái hoàng Thái hậu, và cuối cùng đến Cung của Hoàng hậu Hữu Phi là thân mẫu của tôi.

Ba ngày sau, lại một lễ nữa tổ chức ở triều đình để các quan đến dâng Vua lời xứng tụng, đựng trong một hộp gỗ sơn son thếp vàng, và phủ một vuông nhiễu điều.

Đến hôm sau nữa, thì các quan đến An Định cung cũng để dâng cho tôi lời chúc tụng viết trên giầy hồng điều, và đựng trong một gỗ tương tự như đã đệ trình Đức Vua. Tôi tiếp kiến họ, và ngồi trên một ghế làm ở giữa cung, nhưng chỉ có các hàng quan tam phẩm được phép vào chào mừng mà thôi, vì cung này còn quá nhỏ. Các vị khác đứng ngoài hiên mà xá vào.

Thế là ngày tấn phong của tôi là lễ tấn phong lần thứ hai của triều Nguyễn. Lần. Lần phong thứ nhất đã được cử hành ngày 6 tháng 4 năm 1816 đối với Hoàng tử Hữu, con trai thứ hai của Vua Gia Long, về sau là Hoàng đế Minh Mạng.

°

Thưa Điện hạ, Đức Kim thượng đang chờ Điện hạ. Đã đến lúc khởi hành rồi.

Viên nội giám đến báo tôi, trịnh trọng cúi đầu, khi tôi bước qua mặt ông ta để đến điện Kiến Trung.

Lúc ấy khoảng tám giờ sáng, ngày 15 tháng 5 năm 1922. Ngày đó là ngày mà các chiêm tinh thuộc Tòa Khâm thiên giám sau khi xem thiên văn, và tính toán kỹ lưỡng, đã công nhận là ngày lành tháng tốt, để cha tội và tôi xuất hành sang Pháp.

Cha tôi mặc chiếc ảo dài màu vàng sẫm, là màu chỉ riêng Vua mới được dùng, còn tôi thì mặc áo mầu da cam, dành riêng cho Thái tử kế vị.

Đến điện Kiến Trung, tôi khấu đầu trước Vua cha, và không ai nói một lời, hai cha con ra hành lang bên hữu đưa về điện Cận Thành, ở đó có cuộc tiễn đưa nhỏ. Dọc theo các bức tường màu hồng, mười hai bà cung phi của Hoàng đế đã phủ phục đợi chờ, theo thứ bậc của họ. Không ai dám ngẩng đầu nhìn lên. Trong các bà này có mẫu thân tôi là Thứ phi, đang âm thầm nhỏ lệ. Cha con tôi thản nhiên bước đi như kẻ vô tình. Tôi chỉ chú trọng làm sao cho bước chân mình đi đúng vào vết chân của Vua cha, và giữ khoảng cách nghiêm chỉnh phía sau. Tôi có một sự tôn kính vô cùng đối với cha tôi, và tôi cảm thấy rất hãnh diện được đi cùng với Người, bởi sự đó rất hiếm. Đối với tôi, Người là sợi giây bằng xương bằng thịt nối liền dòng họ lê thê của tổ tiên tôi kế thế mãi sau này, đồng thời do chứa đựng lẽ huyền vi của bậc người khác phàm trên hết mọi người khác.

Tại điện Cận Thành là nơi cung điện cuối cùng của hoàng thành, một đội thị vệ đã túc trực sẵn sàng. Họ dẫn chúng tôi đến điện Cần Chánh vẫn dùng để thết đại triều. Ở bên ngoài đã có một chiếc ngự xa chờ sẵn. Tất cả các quan triều thần vận đại trào đã tập trung, để tiễn đưa cha con tôi đi xa. Các quan Tứ trụ Triều đình mặc áo gấm tía, các quan nhị phẩm mặc gấm xanh, các quan tam phẩm trở đi mặc áo thụng xám. Màu sắc lộng lẫy này đem lại chút ít tươi sáng cho buổi ban mai ẩm ướt trong mùa mưa ở Huế.

Tôi ngồi đối diện với Vua cha trên chiếc xe tứ mã này, có lính thị tập đứng phía trước và phía sau xe.

Qua sân chầu, ra cửa Ngọ Môn là cửa chính chỉ dành riêng để đương kim Hoàng đế đi qua, chiếc xe tứ mã đi chầm chậm trong sự tịch mịch hoàn toàn, chỉ có tiếng sương cô đọng ban đêm trên những tàu lá rơi tí tách, thưa trầm, đều đặn. Ra cửa Nam, qua những hồ sen, xe lên cầu Clémenceau trên sông Hương, đi về phía hữu ngạn, bây giờ mới phi nhanh. Dọc đường, dân chúng đứng hai bên tung hô vạn tuế.

Đến ga xe lửa, quan Khâm sứ Pierre Pasquier đang chờ đợi. Ông đi cùng với chúng tôi sang Pháp, có gia đình mang theo về, gồm có phu nhơn và ba đứa con. Đoàn tùy tùng khoảng mười hai người: một vị Thượng thư, một viên thông ngôn (vì hai cha con tôi đều không nói được tiếng Pháp), vài vị quan võ, thêm em họ tôi là Hoàng thân Vĩnh Cẩn cũng cùng đi.

Một toa xe lửa riêng đã dành sẵn để đưa chúng tôi tới Tourane.

Đây là lần đầu tiên, tôi được đi xe lửa, và cũng là lần đầu tiên tôi ra khỏi kinh đô Huế, vì vậy nên tôi rất tò mò.

Đã ba tháng qua kể từ ngày cha tôi tuyên bố quyết định cho tôi sang Pháp du học. Tôi là con trai độc nhất của Người. Biết rằng Pháp là một nước tiền tiến nên Người muốn cho tôi sang thu nhận cái văn minh tiến bộ ấy để dung hoà vởi nền học vấn cổ của phương Đông.

Sau khi tham khảo ý kiến với quan Toàn quyền Long, phụ hoàng quyết định gửi tôi lưu trú tại nhà cụ Charles, cựu Khâm sứ Trung kỳ rất được quan Toàn quyền Long tín nhiệm và ngợi khen khi biết cụ ngày còn ở Huế.

Năm tôi lên hai tuổi thì cha tôi lên ngôi Hoàng đế. Khi lên năm, thì tôi không còn được ở trong cung của các bà hoàng phi, cùng với bà nội tôi, là Đức Thái hoàng Thái hậu, mà phải đưa sang phía Đông cung, gọi là Thanh cung vì màu xanh là màu của phương Đông, và cũng là màu của mùa Xuân, theo ý nghĩa của ngũ hành trong Dịch Lý.

Cung này có một buồng ngủ, một phòng khách, một phòng ăn, và dẫy nhà phụ thuộc. Vài kẻ hầu cận. Hàng ngày, viên quan phụ đạo đến dạy tôi học chữ nho, học Luận ngữ của Khổng phu tử, để học theo đạo làm người, và đạo làm Vua. Đây là một nhà Nho, một vị quan học vấn uyên bác. Ông cũng cùng đi sang Pháp để kèm tôi về môn cổ học, trong thời gian lưu trú tại Pháp.

Trong bốn năm liền, tôi đã sống hoàn toàn cô lập, ăn một mình, học một mình theo một chương trình đã được ấn định, ngày hôm nay không khác ngày hôm qua.

Mỗi buổi sáng, sau khi điểm tâm qua loa, ông thầy đến giảng một đoạn của sách Luận ngữ, bắt tôi học và đọc lại. Bài học chữ nho này luôn hướng vào những châm ngôn, tục ngữ, hay những ca dao rất thông thường phổ biến trong dân gian, đại để:

“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”

“Bảo hành tắc nan, sú hành tắc dị”

“Kính bất như tuân mệnh”

Những phương châm xử thế này phản ảnh rất trung thực đời sống thực tế của con người, tạo nên quốc giáo Khổng giáo ở nước tôi. Có thể duy linh tất nhiên, vì nó hướng thiện, đưa con người vào mục đích tối cao là sự toàn thiện, toàn mỹ, những phương châm đó không phải đã không đem lại một ý niệm triết học lấy căn bản thực tế, và dứt khoát.

Chính vì vậy, dựa vào Khổng học, mà quyền hạn của nhà Vua có gốc rõ rệt, đồng thời cái quyền năng ấy cũng bị tự chế do giáo lý này đưa lại. Chỉ có thấu đáo nền Khổng học, mới có thể hiểu được hình thái gần như mâu thuẫn trong cơ cấu xã hội nước tôi. Khi học kỹ lưỡng bổn phận của bậc Đế vương, tôi mới làm tròn sứ mệnh của ngôi Hoàng đế, sứ mệnh làm Đại giáo chủ, làm Đại tư ý làm cha mẹ dân, và sứ mệnh làm thiên tử.

Buổi trưa, sau khi ngủ chợp mắt ít nhiều, tôi đi dong chơi trong vườn hoa, ở phía sau cung điện. Vườn hoa đó có tường cao bao bọc, về mùa xuân hoa cỏ xinh tươi: phượng vĩ trổ hoa đỏ rực cả vườn, hoa anh đào, hoa lê, hoa lựu đua nhau nở… thật như ngày hội. Giữa vườn có chiếc ao sen tôi thường ngồi đó câu cá hằng giờ.

Thỉnh thoảng, cha tôi đến xem tôi đã học được đến đâu. Ngài thường hỏi tôi về những điều đã học, và chỉ yên trí khi tôi đã nhập tâm rồi. Một hai lần trong tháng, tôi được phép ngồi ăn cùng Ngài. Rất hiếm khi Ngài cho tôi đi theo sang dinh quan Khâm sứ. Nhưng nếu có lần nào, khi Ngài bận đàm đạo với vị quan này, thì tôi rất thích thú được vui đùa với các con của ông ta, nói tiếng Việt Nam rất sõi. Một đứa trong bọn cùng tuổi với tôi. Trong thời gian đó, chẳng bao giờ tôi có món đồ chơi nào. Tuy nhiên, ngắm nhìn thiên nhiên như tôi vẫn làm hàng ngày, chính là vui chơi với toàn thể vũ trụ rồi.

Cũng như sự học của tôi, sự giải trí nào của tôi cũng nhuốm màu trung tín, qui củ và trật tự. Nhiều khi trong những dịp lễ lạc, kỷ niệm của hoàng gia, tôi có thể đến các cung cấm của các bà cung phi, hoàng hậu ở về phía bên kia cung điện của Vua cha, có bức tường kín mít che khuất. Mỗi bà phi có một cung riêng. Đức Thái hoàng Thái hậu ngự nơi tốt đẹp nhất.

Trong những dịp này, tôi đến vấn an bà tôi, và theo một nghi thức rất chặt chẽ là chỉ được quì mà thưa gửi, trong khi bà ngồi sau một bức mành tre, tôi chỉ trông thấy lờ mờ. Cung cấm của các bà phi còn có một vài quan thái giám và rất nhiều cung nữ. Mỗi bà phi được sử dụng một số cung nhân tùy theo phẩm trật của các bà. Các cung nhân này thường làm các món ăn ngon để hàng ngày mang đến cho tôi.

Thế rồi, biết bao nhiêu những cuộc tế lễ long trọng mà tôi phải dự, đưa tôi từ chỗ huy hoàng này đến chỗ huy hoàng khác giữa những gấm nhung thêu rồng vẽ phượng, trong bầu không khí vừa ngây ngất vừa huyền bí, có nhạc bát âm và quyện màu hương khói.

Tất nhiên, một qui chế nghiêm khắc, thiếu hoạt động, vắng thể dục, thể thao, đâu có tốt gì cho đứa bé con? Sự đó đã chứng minh là nhiều hoàng tử đã chết non chết yểu, như ông nội tôi chết năm mới 25 tuổi. Bào đệ của ngài chết năm 14 tuổi. Còn tôi, túy đã 9 tuổi mà chỉ cân nặng có hơn 20 kí lô.

Vì không biết các lối sống nào khác, nên cuộc sống của tôi cũng chẳng làm tôi buồn. Tôi chấp nhận các thể thức bắt buộc, mà chỉ biết có nhắm mắt thi hành. Bởi thế, tâm hồn hiếu thuận của tôi đối với phụ hoàng bao giờ cũng là sự tôn kính, bởi tính chất thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Ngài. Đó chính là điều nằm trong tam cương của Khổng Mạnh: Quân, Sư, Phụ. Sự giáo huấn dành cho một hoàng tử quả nhiên đã bao gồm toàn diện. Sự rửa tim gạn đục khơi trong, từ bỏ mọi cám dỗ và sa ngã là điểm chính để hun đúc vì Thiên tử tương lai. Hơn thế nữa, vị Thái tử kế vị chẳng những chỉ biết có đè nén tình cảm, mà còn phải gạt bỏ mọi tình cảm để trở thành vô ngã. Chưa từng bị đau về thể xác, tôi học dễ dàng sự bất động, trơ như đá, vững như đồng. Phương ngôn có câu rằng: Mặc ai nói đông nói tây, thì ta cứ vẫn như cây giữa rừng, và tôi đã đạt. Ông thầy học đã kể cho tôi nghe về vấn đề này, một câu chuyện lạ kỳ của một vị Hoàng đế ngày xưa, mà cả triều đình muốn truất phế, dưới hình thức ôn hòa, không đổ máu. Theo thông lệ, đầu năm nhà vua được các quan vào chúc tụng. Ông ta phải ngồi nghiêm chỉnh trên ngai, bất động để các quan triều bái. Vào lạy, mà lạy càng lâu thì đó là sự phục tòng, sự trung thành, không có gì đáng quí bằng. Đối với nhà Vua, thì càng nghiêm chỉnh, bất động bao nhiêu, càng chứng tỏ các thần uy của bậc Thiên tử bấy nhiêu.

Triều thần muôn biến cuộc đại bái này thành hình thức nổi loạn. Lẽ ra, lạy xong rồi thì đến lượt người khác, nhưng họ đã quay lại đứng tiếp phía sau để vào lạy nữa, cứ thế kéo dài vô tận. Trong khi đang hành lễ, nhà Vua không được cử động gì, để xứng đáng là vị chân mạng đế vương. Khi hiểu biết cái âm mưu kia, ông ta vẫn ngồi yên, trơ trơ như tượng. Dần dà mệt mỏi và kiệt sức, người ông tái nhợt xanh lè. Nhưng ông càng cương quyết giữ vững. Mãi sau ba ngày mới ngã xuống mà chết. Bọn khởi nghịch đã thành công.

Quốc phá, gia vong, thân bại, danh liệt tất khởi do phi lễ. Tức là xã tắc đổ, nhà bị suy vong, thân bị diệt, chính đều do mất lễ mà ra Thánh đã dạy như vậy. Hệ thống giáo dục ấy, đã thiểu tình mẫu tử, không bạn bè, trong một sự cô lập liên tục hoàn toàn, đưa tôi đến chỗ rất nhạy cảm trong tự vệ, và quay về sự suy tư thầm kín của nội tâm mình.

Học vấn đã nhẹ về văn chương, không có tí gì về khoa học, chẳng cho tôi một kiến thức khả quan nào là lẽ tất nhiên. Chỉ có giáo điều luân lý. Thực hành các giáo điều này trở thành một thứ xã tắc thứ hai của tôi. Tính tình tôi được tôi luyện trong bốn năm ấy, làm tôi giữ mãi đến bây giờ sở thích được trầm tư và đi tìm sự cô đơn.

Vì vậy, lần gặp gỡ đầu tiên đối với xã hội bên ngoài ở sân ga, nếu không làm tôi ngạc nhiên thế, thì cũng buộc tôi phải tò mò.

Khi cha tôi bảo cho tôi biết là sẽ sang Pháp, người đã lưu ý tôi rằng; tôi là hoàng tử thứ hai của triều đại đã đi xa như vậy. Bởi vì vào năm 1787, Hoàng tử Cảnh mới lên bảy tuổi và là con của Hoàng đế Gia Long là vị Vua sáng lập ra triều đại, đã tới cung điện Versailles cùng với Đức Cha Ba Đa Lộc (Mgr Pigneau de Behaine). Vua Gia Long khi ấy đang bị mất đất, muốn tìm một đồng minh cường mạnh ở phương Tây, để liên kết chứ không phải để phụ thuộc làm chư hầu. Vì thế, Ngài cử Đức Cha này sang Pháp để ký với quốc vương nước ấy một hiệp ước hầu lấy viện trợ. Với sứ mạng đó, Ngài phong cho Đức Cha được toàn quyền, và để chứng minh sự tấn phong này, Ngài đã giao cả quốc tỉ cho ông, để làm bằng. Hơn thế nữa, Ngài muốn cho sứ bộ này tính chất quan trọng tuyệt đối, và sự tín nhiệm vô biên của Ngài, nên đã trao cho con ngài là Hoàng tử Cảnh cho Đức Cha mang đi.

Sử bộ đã đạt kết quả. Ở triều đình Versailles, ông hoàng tí hon Nam kỳ đã chinh phục được tất cả mọi cảm tình, kể từ hoàng thái tử, con trai cả của Vua Louis XVI và Hoàng hậu Marie Antoinette vốn cùng tuổi với hoàng tử. Trong một xã hội chán ngán của hậu thế kỷ 18, hoàng tử đã mang lại điều bí mật của phương Đông. Quả là một kỳ quan cần phải cho nổ tung ra. Thế là chàng Leonard bất hủ, thợ làm tóc cho hoàng hậu Antoinette liền tung ra mốt “khăn quàng đầu kiểu ông hoàng Nam kỳ” cho quí khách nam, và “búi tóc kiểu Trung Hoa” cho quí khách nữ. Người ta say mê đi mua sắm những đồ sứ, đồ sơn của Viễn Đồng. Đức Cha Bá Đa Lộc ký được hiệp ước tương trợ cả về công lẫn về thủ, và những lời hứa hẹn viện trợ. Sau bốn năm vắng mặt, Hoàng tử Cảnh về nước năm 1789 và chết vào năm 1801, và chưa từng được lên ngôi ngày nào.

Hoàng thái tử Louis Joseph Xavier François, người bạn nhỏ xa xôi, từng đùa rỡn với nhau trong vườn ở Versailles, cũng bị chết vì bệnh tim mất từ 1789.

Cha tôi không quên nhắc nhở tôi rằng: “Nếu con có sang Pháp như Hoàng tử Cảnh, thì không phải cùng trường hợp như nhau. Cha đưa con sang đây để theo đuổi việc học; dù sao nữa, đây cũng là lần đầu tiên mà một vị Hoàng đế Việt Nam đã đi chơi xa như vậy”.

Đoạn đầu đi mất ba giờ. Phong cảnh gợi màu hoài cảm. Cành cây thấp la đà mặt nước, những con trâu đứng dưới ruộng cày, nước đến khuỷu chân, hếch mũi ướt nhìn trời. Cò, le, bay loáng trên những bụi ven sông. Đồng quê man mác ảo huyền thơ mộng.

Tàu qua nhanh vịnh Phú Án, trước khi len lỏi giữa các sườn núi dựng như thành của rặng Trường Sơn. Đường xe lửa tách rời quan lộ, chui vào các đường hầm xuyên sơn, như con rồng sắt nhả khói, khạc lửa. Đây đã tới đèo Hải Vân, và đổ xuống Tourane. Chúng tôi xuống chiếc tàu nhỏ duyên dáng 7.000 tấn, tàu Claude Chappe, thường xuyên đi lại giữa Hải Phòng và Sài Gòn.

Cả một ngày, tàu chạy ven bờ biển miền Trung, rất gập ghềnh của núi non nhô ra thụt vào về bên phải và người ta nhận được rõ ràng đường xe lửa cũng như đường quan lộ số 1. Cồn cát, mũi, cù lao, bãi biển liên tiếp kéo dài. Qua Qui Nhơn, đến mũi Varella, núi nhè nhẹ thấp dần, rồi đến Vũng Tàu, từ đó chúng tôi vào sông Sài Gòn để đến thủ đô của Nam kỳ.

Chúng tôi nghỉ ngơi ở dinh Thống đốc, trong nhà quốc khánh. Nghỉ ở đó hai ngày thì đáp tàu Porthos của hãng Messagerie Maritimes sang Pháp. Tôi ngủ chung một ca-bin với Hoàng để Vĩnh Cẩn, Về sau Hoàng đệ Cẩn bị say sóng và mệt mỏi nhiều lần trong khi đi đường. Còn tôi, không bao giờ bị say sóng cả.

Nghỉ ở nhiều chặng. Đến Singapour, chúng tôi thăm thành phố bằng xe ngựa. Tôi trông thấy người Mã Lai lần đầu tiên. Đến Colombo, người Ấn Độ không làm tôi ngạc nhiên, họ ăn trầu như các phụ nữ Huế. Rồi Djibouti, Ismaklia. Tôi chẳng biết tí gì về đoạn đường mà tôi phải đi qua, vì không có một bản đồ ở dưới tay. Tuy nhiên, có một sự lạ lùng mà tôi được mục kích: đó là núi lửa Stromboli đang phun. Trước đây, tôi không biết gì về núi lửa cả…

Thời thanh niên ở Pháp

Đến Marseille, Bộ trưởng bộ Thuộc địa Albert Saraut, cựu Toàn quyền Đông Dương đón chúng tôi ở bến tàu. Quân cảch dàn chào. Phụ hoàng vấn áo chẽn, có ngù đen ở hai vai, quần đen có nẹp, đi ủng và đeo kiếm. Tôi cũng ăn vận tương tự, theo màu sắc riêng dành cho tôi. Một chiếc ô tô đưa chúng tôi về thị sảnh, và chúng tôi ở đấy hai ngày để tiếp tân và dự tiệc.

Xe lửa chạy đêm, đưa chúng tôi từ Marseille lên Paris, nên tôi không có dịp quan sát dọc đường. Chèo lan thuyền quế, nay đã lên bờ. Đến cửa ngõ Paris, chúng tôi vào bằng cửa Dauphine là cửa ô vào kinh đô chỉ dành cho các bậc Vua Chúa phương xa.

Trong thời gian lưu ngụ ở Paris, chính phủ Pháp để chúng tôi cư trú tại bộ Thuộc địa đường Oudinot. Ba ngày đầu liên tiếp chỉ dành cho những hoạt động về nghi lễ. Tôi theo phụ hoàng đến đặt vòng hoa ở đài chiến sĩ vô danh, tức Khải Hoàn Môn ở Paris. Sự đặt vòng hoa tưởng niệm đó, với nghi thức long trọng trước công chúng có vệ binh Cộng hòa vận đại phục, cờ xí, quân nhạc làm cho tôi nhớ tới những ngày đại lễ ở nước tôi.

Buổi tối, cạnh phụ hoàng, chúng tôi được mời dự buổi dạ hội ca nhạc kịch ở đại hí viện Opéra. Có diễn vở Faust của Gounod. Nghệ sĩ đóng vai Mephisto làm tôi say mê, mặc dù tôi không biết tiếng Pháp. Vở kịch làm tôi thích thú và tôi thấy rạp hát rất đẹp. Sau các vụ tiếp tân đầy đủ, phụ hoàng đến lưu trú tại dinh thự của Quận công De Valencal, trước khi đi thăm thú các nơi theo chương trình đã định của chính phủ Pháp. Tôi và hoàng đệ Vĩnh Cẩn được đưa đến trao phó cho ông bà Charles, hai người đã coi chúng tôi như con đẻ của các cụ.

Cụ Charles trước đây là Quyền Toàn quyền Đông Dương, khi cha tôi mới lên ngôi cụ đã về hưu từ nhiều năm qua. Đây là một vị công chức khuôn mẫu, và khi nhận săn sóc chúng tôi, cụ đã chịu một trách nhiệm hết sức nặng nề.

Quê ở Auvergne, cụ có bộ ria rất đẹp. Tính tình trầm lặng, mà mãi về sau này tôi mới rõ cụ là tay bảo hoàng cự phách và có chân trong nhóm Action Française.

Cụ bà người ở Toulouse rất cởi mở, ngoan đạo và rất hiền, cụ rất thương mến tôi như các con cháu cụ. Thế là tôi gọi ngay cụ là Mêmê (Mémé) như tôi đã nghe cụ xưng với các cháu nhỏ của cụ. Còn chúng thì gọi thẳng tôi là Vĩnh Thụy, chẳng có tước hiệu gì cả, và tôi cũng không lấy thế làm phiền.

Tôi bắt đầu tìm thấy cuộc sống gia đình. Chúng tôi ở trong một chiếc nhà lầu nhỏ, số 95 đại lộ La Bourdonnais, như một gia đình trung lưu, không có gì là lộng lẫy huy hoàng. Tuy nhiên, cạnh tôi vẫn có ông thầy dạy chữ nho, và một tên tiểu đồng Việt Nam để sai vặt.

Khi bắt đầu nhận nuôi tôi, cụ bà Charles may âu phục cho tôi mặc. Từ đó, tôi sống như một tên Tây con. Tôi hòa đồng nhanh chóng vào tập quán của Pháp, cũng như về ẩm thực.

Đầu mùa hạ, chúng tôi đến thành phố Vichy, để nghỉ hè ở khách sạn Albert 1er vào tháng bảy. Lúc ấy tôi mới biết là cha tôi, nhân dịp tôi sang đây du học chính là chữa bệnh, do sức khỏe của Người có chiều quan ngại. Cha tôi về nước vào hồi này.

Tại Vichy, tôi được biết bà Lefoll mà ông chồng trưởc đây cũng từng là Khâm sứ Trung kỳ, rồi Thống đốc Nam kỳ. Bà Lefoll trẻ hơn cụ bà Charles rất nhiều. Bà có đứa con nhỏ, tên gọi Jacques Lefoll về sau là bạn thiết của tôi.

Sau thời gian ở Vichy, thì chúng tôi đến Prades, ở đó hai cụ Charles có một dinh cơ ở trong làng. Chúng tôi gặp được bọn cháu trai và gái của cụ. Nhờ thế, có thêm bà giáo già kèm dạy, nên tôi học rất mau tiếng Pháp. Đến độ rằng, về tam cá nguyệt cuối cùng của niên học, khi trở về Paris, cụ Charles đã ghi tên tôi vào học tại học đường Hattemer, và mặc dù tôi chưa từng được sửa soạn gì về môn học mới này, tôi đã bắt đầu theo lớp tám.

Lập tức, ở trường các bạn học của tôi liền coi tôi là bạn học, y như chúng mà thôi. Những ngày nghỉ, cụ bà Charles thường đưa tôi đi chơi ở công viên Champ-de-Mars. Tôi đánh vòng, cưỡi ngựa gỗ, xem các trò ảo thuật Guignol. Tết Giáng sinh, tôi nhận được món đồ chơi đầu tiên, đó là chiếc đầu máy xe hỏa. Trẻ con Tây chơi thả cửa, hết mình, trò chơi về thể dục thể thao không giống như trẻ con Đông phương. Tôi thấy rạng ra trước mắt một thế giới mới.

Được một năm rưỡi ở Pháp, tôi trở về nước năm 1924 để dự tứ tuần đại khánh của cha tôi. Lễ này kéo dài đến hai tháng. Cha tôi cho xe vào tận Sài Gòn để đón tôi và hai cụ Charles đi đường quan lộ ra thẳng Huế.

Nhờ dịp này tôi được quan sát các tỉnh thành, làng mạc của nước tôi, mà trước ngày sang Pháp, tôi chưa bao giờ ra khỏi kinh đô Huế. Trong ba tháng, tôi ở trong cung của cha tôi và dự nhiều buổi hội hè, khánh tiết. Dịp ấy, tôi vận quốc phục.

Cha tôi rất sung sướng nghe tôi nói tiếng Pháp. Trong lịch sử nước tôi, đây là lần đầu tiên một hoàng tử nói truyện bằng ngoại ngữ, ngoài tiếng nước mình. Phụ hoàng rất quan tâm đến sự học của tôi, sự giải trí, sự giao du với các bạn trẻ người Pháp, và tỏ ra rất hài lòng là đã có quyết định cho tôi sang Pháp trước kia.

Người biết là mình rất suy yếu, nhưng không tỏ ra cho tôi biết. Dù sao nữa, tôi đã được chuẩn bị để kế vị Người.

Tôi cũng được gặp lại mẫu thân tôi, và tất nhiên, mẹ con rất thương yêu nhau như cũ. Bà rất lo lắng khi tôi vắng mặt lâu ngày, và như tất cả các bà mẹ khác, sự tái xuất du của tôi phải làm cho bà lo ngại không ít.

Đức Đoan Huy Hoàng thái hậu, bà nội tôi cũng cho gọi tôi đến. Ngài cũng hỏi tôi cả trăm ngàn câu hỏi về những ngày lưu trú ở Paris. Bà nội tôi có thể so sánh như Hoàng hậu Catherine de Medicis. Khi cha tôi băng hà, và tôi còn ở xa, bà luôn cẩn mật giữ gìn để ngôi Vua phải được truyền lại cho tôi. Để đánh tan mọi âm mưu thoán đoạt chính Ngài đã giữ Ngai vàng cho tôi vậy.

Cuối mùa xuân năm 1924, chúng tôi trở lại Paris. Tôi lại theo học ở học đường Hattemer. Năm ấy tôi mười một tuổi, và bắt đầu thích các bộ môn thể thao. Tôi chơi tennis ở hội Bagatelle.

Cũng năm ấy, cha tôi cho tôi chiếc ô tô đầu tiên. Đây là chiếc Panhard, có tài xế Việt Nam lái. Nhờ xe này, tôi đã đi chơi nhiều nơi quanh nước Pháp. Tôi thăm núi Mont Saint Michel, thăm lâu đài bên giòng sông Loire (Chateaux de la Loire). Tôi muốn biết hết, rất khao khát mọi sự mới lạ, để ý đến tất cả mọi điều.

Cuối tháng 11 năm 1925, cụ Charles đợi tôi ngoài cổng trường, và bảo tôi rằng:

– Điện hạ Vĩnh, lão có một tin rất buồn, báo Điện hạ biết. Hoàng đế Khải Định mới băng hà ngày hôm kia (ngày 25 tháng 11 năm 1925). Điện hạ về nước để nối ngôi, kế vị vua cha. Đây là một trách nhiệm hết sức nặng nề, mà Điện hạ phải gánh vác, nhưng lão tin rằng Điện hạ đã sẵn sàng đảm trách.

Năm ấy tôi mới mười hai tuổi.

Tôi liền cùng hai cụ Charles trở về Việt Nam.

Chúng tôi đến Huế vào cuối tháng chạp. Tâm hồn tôi đã cương nghị rồi, nhưng tôi phải chuẩn bị để lên ngôi.

Trước khi mất, cha tôi đã ngỏ ý muốn tôi theo học đến nơi đến chốn ở bên Tây. Các nhà chức trách thuộc chính phủ bảo hộ được triều đình Huế mời đến để hội ý, đều có ý kiến tương đồng. Cơ mật viện liền theo đúng luật của Vua Minh Mạng đề cử một vị Đại thần nhiếp chính, để chờ ngày tôi trở về.

Cụ Tôn Thất Hân là một vị Đại thần trong tứ trụ triều đình, là anh họ tôi, một ông già hiền từ, đạo đức, được cử vào chức ấy, gọi là Phụ chính thân thần.

Sau quyết định đó vài ngày, tòa Khâm Thiên Giám chọn được ngày hoàng đạo để làm lễ đăng quang cho tôi, đó là ngày mùng 8 tháng giêng năm 1926.

Trước hôm đó, tôi đến điện Cần Chánh để nhận các bảo vật truyền ngôi. Người ta vận cho tôi bộ triều phục để lên ngôi. Đó là chiếc áo cẩm bào của Đức Hoàng đế Gia Long khai sáng triều đại. Phẩm phục này được cất giữ như linh vật, gồm có áo bào vàng, có kết trân châu bảo ngọc hia lót lông mịn phía trong, và có đầy châu ngọc đính trên.

Một vị Đại thần trong tứ trụ triều đình đã đệ trình tôi chiếc bài vàng mang chữ Việt Nam Hoàng Đế để đeo ở bên vạt áo phải, một vị Đại thần khác thì đệ trình một cuốn kim sách để mở đầu thời đại, mà trên đó có danh hiệu của tôi, là Bảo Đại, có nghĩa là Triều đại của Huy Hoàng, Vĩ Đại.

Hai chữ này do tôi tự lựa chọn trong danh sách các tên hiệu cao khiết, đẹp đẽ, của tàng Văn chương, mà các quan bộ Học, lấy trong quốc khố đồ thư ra để trình tôi quyết định. Tôi thấy hai chữ Bảo Đại rất hợp với triều đại của tôi trong sứ mạng mà tôi sẽ đảm đương.

Sau đó, theo đúng lễ nghi, tôi phải đến một mình trước nhà Thái Miếu, lễ trước bàn thờ Đức Vua khai sáng Gia Long, mà tất cả các vị Hoàng đế kế tiếp, đều phải vào lạy khi lên ngôi, như một hình thức tuyên thệ.

Lễ đăng quang được cử hành vào sáng hôm sau, và ở điện Thái Hòa. Điện này quay lưng về hướng Bắc, để nhìn xuống hướng Nam, trước mặt có một sân chầu có cắm cờ ngũ hành, viền đuôi nheo, theo đúng nguyên lý về Dịch. Nóc điện được cất trên một rừng cây cột lim, trên đó rui, mè được xếp đặt nhịp nhàng vô cùng đồ sộ. Ngai được đặt ở chính giữa điện hơi cao về phía trước nhìn ra phía sân chầu. Nóc ngai có chiếc mui bằng gỗ chạm trổ hình rồng há miệng nhe nanh trông thật kinh khiếp. Thêm nhiều chữ nho kiểu chữ triện nổi bật lên, sơn son thếp vàng.

Tất cả triều thần đều ở đây, ai cũng vận phẩm phục đại trào, từ hoàng thân quốc thích đến các quan đại thần, cộng chức thượng thặng. Những đuôi cánh chuồn trên mũ sa của họ lấp lánh trong ánh sáng ban mai một ngày rất đẹp trời, Tất cả đứng theo thứ tự phẩm trật của mình. Các hoàng tử, hoàng thân đứng về một phía, các quan thì đông nghịt ở phía sân chầu.

Khi tôi đã ngồi uy nghiêm đúng như nghi thức trên ngai, quan Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne vận lễ phục màu đen, trái ngược hẳn với màu sắc xanh đỏ của các vị triều thần, liền đọc một bài diễn văn rất trịnh trọng trong đó, nhân danh nước Pháp bảo hộ, ông kính chúc triều đại tôi là triều đại của thái bình, thịnh trị đầy hạnh phúc cho toàn thể nhăn dân.

Sau đó là lễ triều bái của các quan. Đầu tiên, các vị hoàng thân quốc thích đến trước Ngai cách khoảng mười lăm mét. Phần đông các vị đó đã có tuổi. Tất cả năm lần, họ lên gối xuống gối, đầu rập sát đất, râu trắng quét thềm. Lạy xong thì về chỗ cũ đứng. Tiếp theo đến lượt các quan Đại thần, cũng năm lạy trịnh trọng như vậy. Khi các vị ấy lễ xong, thì đến lượt tất cả các quan từ tam phẩm trở xuống, phủ phục tập thể. Họ lễ theo tiếng xướng của người bồi tế. Khi hô “Bái” thì tất cả đều sụp xuống sân chầu rất từ tôn thong thả, đầu sát đất. Khi hô “Hưng” thì họ lại ngửng lên để lên gối, để chờ nghe câu xướng Bái khác. Cứ thế năm lần, và lễ triều bái này mang tính chất phục tòng, tôn kính tột bực. Mỗi khi họ phủ phục xuống đất, thì những tà áo, lòa xòa, như muốn tung bay rồi tỏa cả xuống đất như xụp xuống thành đông, không bốc cao lên được nữa.

Ở trên cao tôi nhìn xuống, quả là một cảnh tượng đáng chủ ý. Nó như chứa đựng một ý niệm thống trị của thể chế quân chủ, đè xuống khắp đại chúng. Năm ấy tôi mới mười hai tuổi. Tôi là Hoàng đế, và sanh ra để làm Hoàng đế. Chưa từng có lúc nào tôi lạc ra khỏi ý nghĩ đó. Trái lại tôi đã cố gắng nghiêm chỉnh làm tròn nhiệm vụ đã được trao phó cho tôi.

Khi lễ tất, súng ca-nông nổ nhiều phát báo cho toàn nhân dân Việt Nam triều đại mới của vị Tân quân.

Tôi bước xuống ngai để lên một chiếc ngự liễn vẫn chờ sẵn ở cuối điện, để về ở điện Kiến Trung từ nay là chỗ ăn ở của tôi.

Ngày 29 tháng giêng là ngày làm lễ an táng cha tôi.

Linh cữu được rước ra lăng của Ngài, đã được xây từ lúc sinh tiền. Bắt đầu rước từ cung Cận Thành ra cửa phía đông hoàng cung là cửa dành cho các vị Hoàng đế băng hà. Các cửa khác thì để cho đương kim Hoàng đế sử dụng. Tôi không được đưa linh cữu của phụ hoàng, vì theo đúng nghi thức, các vị vua đang tại vị không được dự vào các đám táng của vị tiên đế quá vãng.

Linh sàng rất nặng, và được khiêng bằng tay do cả trăm người phụ lực. Họ phải thay phiên nhau, và để mất hai ngày mới tới lăng. Theo đúng phong tục của Việt Nam, người chết cũng có những nhu cầu y như người sống. Để cho linh hồn được tồn tại dưới suối vàng, nên thể xác không được tiêu hủy, và phải được thờ cúng và chăm sóc bởi những người kế tự. Luật ở nước tôi, xâm phạm đến mồ mả là một trọng tội. Nếu lại là đối với các lăng tẩm của các vì Vua Chúa, thì sẽ bị xử tử. Hoàng gia lại còn phải tìm cách giữ bí mật ngôi mộ của nhà vua, để giấu xác bằng mộ giả để linh hồn nhà Vua được an ổn, mà phù trợ cho dòng họ sau này.

Ở Huế, nói đến Lăng, không phải chỉ có nghĩa là một ngôi nhà mồ trong đó có linh cửu người chết, mà cả một khu diện tích rộng lớn bao la.

Khu lăng tẩm ở Huế, nằm ở phía Nam thành phố, rộng hàng trăm mẫu tây với những đồi thông, những cây đa cổ thụ, những hàng cây phượng vĩ xum xuê. Nhiều đường đi rộng thênh thang đưa tới những bệ đá, những thang đá, dẫn tới những sân cao có đỉnh vạc khổng lồ hay hồ nước dài. Khung cảnh đó, phần nhiều rất đẹp và gây nên một mối buồn man mác.

Lăng tẩm của tổ tiên tôi có ba phần:

Đầu tiên, lăng chính gồm một khu đất rất rộng, trong đó có chứa bí mật hài cốt của một vị tiên đế, mà vị trí nơi chôn không thể biết được ở chỗ nào. Trên đống đất ấy có nhiều cây và hoa cỏ mọc đầy. Thông thường, thì có một chiếc cổng ra vào, vốn chỉ là cổng tượng trưng, có chăng rào sắt, chứng tỏ nơi đây là cấm địa.

Sau đó, là một ngôi đền thờ có tãi bày tất cả các đồ ngự dụng của Vua lúc còn sinh thời, có bày linh vị, sách vở, ấm chén v.v…

Cuối cùng, phía xa hơn, trên một khoảng đất cao, có dựng một tấm bia đá, khắc những thành tích võ công, văn trị của triều đại Ngài trị vì.

Thỉnh thoảng, thêm vào ba phần chính ấy, ở một thửa đất cao hơn, còn có một ngôi nhà nhỏ nhắn, gọi là ngự lâu, có thể ở đây nhìn bao quát tất cả ngôi mộ được. Ở nơi đó, Vua có thể ngay khi còn sống ngồi suy tưởng khi ngắm nhìn nơi cuối cùng của mình. Nhìn một lăng nào, người ta có thể biết được tâm hồn của vị hoàng đế ấy.

Tháng 3 năm 1925, tôi lại trở lại Pháp với hai cụ Charles, và sinh hoạt theo nhịp Âu hóa của tôi.

Khi tôi học xong năm thứ năm, tôi đổi học đường Hattemer vào cuối niên học 1926. Từ đó, tôi không còn phải đến trường nữa, mà đã có những giáo sư riêng đến nhà giảng bài. Tuy nhiên, để tạo bầu không khí ganh đua, cụ Charles đã tìm cho tôi một số bạn hữu, cùng một trình độ và cùng tuổi, đến học chung với tôi, còn Hoàng thấn Vĩnh Cẩn thì học ở lớp dưới.

Như vậy, chúng tôi có năm người, thì hai là con gái, cùng theo học một lớp. Vị phụ đạo Việt Nam vẫn ở cạnh tôi, và đóng vai trò gần như tổng giám thị để coi sóc tất cả.

Triều đinh quyết định đặt tôi vào vị trí Vua Chúa nên đã thuê riêng một biệt thự mới xây, ở đại lộ Lambaile số 13.

Đối với các bạn trẻ của tôi, tôi cũng là một thiếu niên như họ, và tôi cố gắng cư xử bình thường như mọi người, nên các bạn đã coi tôi ngang hàng với họ, không khác.

Về thời ấy, tôi bắt đầu chú trọng đến âm nhạc. Người ta liền dạy cho tôi về dương cầm, và tôi trở thành một thính giả chăm chỉ của các nhạc viện. Ngay bây giờ, tôi cũng có thể đưa nhạc phẩm của Chopin vào Tây ban cầm được. Tôi cũng rất say mê văn chương cổ điển Pháp. Tôi có một giáo sư dạy Pháp văn, luôn luôn nhắc nhủ tôi rằng: “Đừng chú trọng vào một tác giả nào, nên giữ và bồi bổ tính chất riêng biệt của mình”. Một lần, tôi đưa cho ông bài luận của tôi, nhiều chỗ dựa vào cuốn sách Tập làm văn, ông ta cho tôi điểm cao, nhưng đã phê bình như sau: “Hoàng tử có khiếu xào xáo rất tài..”.

Mỗi năm, trong những vụ hè, chúng tôi đi nghỉ mát một tháng ở Vichy và về trang trại của cụ Charles ở Prades hai tháng. Từ năm tôi mười lăm tuổi, tôi đã đi thăm nhiều nước như Ý, Thụy Sĩ và Đức.

Sau khi tôi được hun đúc thành một ông Vua kiểu Á Đông, cụ Charles càng quan tâm bồi bổ tôi vào nền học vấn Tây phương.

Vì vậy, một ngày vào năm 1928, cụ đưa tôi đến trường võ bị, lúc ấy do Đại tá Boursier, chỉ huy trưởng đoàn quân kỵ mã da đen làm giám đốc và đàm luận với ông ta. Cho đến lúc ấy, tôi chỉ nói biết cưỡi những con lừa nhỏ đi chơi trong công viên Vichy hay ở cạnh điện Tuileries ở Paris. Mới trông thấy tôi, viên Đại tá nghĩ rằng tôi có thể là tay cưỡi ngựa cừ khôi được.

Cất giọng sẵng, ông ta bảo:

– Tôi sẽ giao Thái tử cho tay em của tôi, và không muốn gặp Thái tử trước sáu tháng.

Tay em này là chú Guignard. Còn soẳn cục hơn ông thầy, chú giao hẹn trước:

– Hoàng đế hay không mặc kệ, tôi sẽ dạy cho Thái tử biết thế nào là cưỡi ngựa.

Chú ta dạy rất giỏi, làm cho tôi mê cưỡi ngựa ngay. Mới mấy bài đầu chú dạy cho tôi biết cách ngã ngựa, đủ mọi kiểu. Quả nhiên, Đại tá Boursier đã nhìn đúng: tôi có khiếu về cưỡi ngựa. Vì có nhiều thì giờ, do các bài học không nhiều, nên ngày nào tôi cũng sang trường võ bị gần nơi tôi ở. Tôi rất thích nơi tập ngựa. Trong ba năm, tôi đã cưỡi tất cả mọi thứ ngựa ở trong nhà trường. Tôi chọn những con ngựa đã được tuyển lựa để dự các kỳ đua ngựa, và trước hôm trình diễn ở thao trường, tôi tập nhảy rào. Từ đó tôi trở thành một kỵ sĩ say mê ngựa cho đến bây giờ.

Tôi cũng không bỏ đánh quần vợt, là thứ thể thao đầu tay của tôi. Ở lãnh vực này, tôi cũng tiến bộ không kém. Năm 1930, tôi ghi danh tranh giải vô địch liên trường, để bảo vệ cờ của trường tôi là trường Carnot. Trong những dịp tranh tài ấy, ở sân vận động Pháp quốc, tôi vào chung kết với trường Lakanal, và thắng danh thủ Jacques Delmas, về sau nổi tiếng là nhà chính trị Jacques Chaban Delmas.

Tất cả các hoạt động thể thao đó làm tôi khỏe mạnh và cao lớn, và đến năm mười sáu tuổi, thì tôi đã trở thành một thanh niên dứt khoát rồi. Nhân dịp nghỉ hè về Vichy, tôi thi lấy bằng lái xe ô tô. Thật là thời vàng son, vì ngày ấy chưa có cần đến căn cước. Vị giám khảo, nhìn bộ mã tôi, và tin lời tôi, đã cấp ngay bằng lái cho tôi, thêm lời khen ngợi nữa.

Nhân dịp kỷ niệm đệ nhất bách chu niên của nước Algérie năm 1930, tôi du lịch sang Bắc Phi và thăm viếng lần lượt hai nước Algérie và Maroc. Ở Rabbat, tôi được vì vua trẻ Mohammed V ben Youssef tiếp đón. Ông ta chỉ hơn tôi ít tuổi mà đã làm vua được ba năm rồi.

Chúng tôi thân thiện với nhau: Ông ta là người Phi Châu, tôi Á Đông, tự cảm thấy gần gũi nhau do cùng được nước Pháp bảo hộ. Khi tôi sang Marraked đang mùa hạn hán, bất chợt trời đổ mưa, thành ra trước mắt nhân dân nước ấy tôi trở thành “người làm cho mưa phải rơi”.

Tôi chỉ có một điểm liên lạc với quê hương ở chỗ vài bức thư của bà nội và của mẫu thân tôi.

Đời tôi là đời một sinh viên Pháp ở Paris vào thời đại vàng son. Tôi tiếp các bạn hữu và được họ tiếp đón lại. Tôi thường giao du với Elie de Rothschild với một con nhà Bourbon-Busset và một con nhà triệu phú, chủ Banque Mallet. Với họ, tôi học đánh Poker và trở thành cao thủ về môn này.

Đối với nhà hiền triết Đông phương, cờ bạc chẳng phải để dành cho đại chúng. Vì với đại chúng, đó là sự buông thả dại dột, một sự liều trong vô vọng. Nhưng đối với bậc hiền nhân quân tử, thì đó là bài học trường đời, xét nghiệm tâm lý hữu hiệu.

Bắt đầu từ niên khóa học 1930, tôi theo học trường Khoa học Chính trị. Mặc dù tôi ít được mời dự các buổi tiếp tân chính thức, chính phủ Pháp cũng mời tôi khánh thành Tòa nhà Đông Dương trong dịp Triển lãm Thuộc địa năm 1931. Dịp này, tôi quen biết Thống chế Lyautey là Trưởng ban Tổ chức của cuộc triển lãm. Trước từng đến Đông Dương, Thống chế mời tôi đến chơi nhà, ở phố Bonaparte, giữa trường Mỹ thuật và bến sông Seine. Thống chế cho tôi mượn nhiều sách, tôi bỗng khám phá ra Phi Châu kỳ bí. Chúng tôi đến thăm ngôi chùa được cất ở Vincennes, nằm trong khuôn khổ của cuộc triển lãm. Trong suốt thời gian này, ông như người che chở bao bọc tôi, với tình phụ tử. Đây là một ông cụ có tài kể truyện, và tôi giữ mãi kỷ niệm những nhân vật đáng yêu của kinh thành Paris, mà tôi đã gặp. Thống chế có rất nhiều ảnh hưởng đối với cụ Charles. Cả hai đều là nhân vật đáng kính của nền chính trị cỡi mở của Pháp, nên có nhãn quan rộng rãi đối với các quốc gia hải ngoại. Theo hai vị đó, sứ mạng của Pháp là sứ mạng giáo hóa, thông cảm, và giao hiếu.

Cũng trong năm ấy, cùng với Tổng thống Pháp Paul Doumer, tôi tham dự lễ khánh thành Nhà Đông Dương trong khu học xá ở Paris. Trong khi Tổng thống Pháp đọc diễn văn, có một sự kiện xảy ra mà tôi không mấy chú ý. Đó là các sinh viên du học Việt Nam đã ném truyền đơn vào khán giả. Lập tức cảnh sát Pháp tịch thu ngay truyền đơn, và lập lại trật tự như không có gì xảy ra. Về sau, tôi mới rõ truyền đơn phản kháng những biện pháp bạo hành đối với các vụ nổi dậy ở nước tôi, do cuộc xử tử mười ba liệt sĩ ở Yên Bái…

Ít ngày sau, Tổng thống Paul Doumer bị ám sát chết, và tôi chính thức dự đưa đám. Tôi đã mười chín tuổi, và được coi như là đủ khả năng để nắm quyền cai trị một mình.

Nên ngày về của tôi đã được ấn định. Mấy hôm trước, Tân Tổng thống Pháp Albert Lebrun vừa được bầu lên, đã gắn Bắc đẩu bội tinh hạng nhất cho tôi. Lễ gắn cử hành đơn giản và thân mật, chỉ riêng có cựu Toàn quyền Albert Saraut và cụ Charles chứng kiến.

Tôi trở về Việt Nam năm 1932, sau tám năm vắng bóng, kể từ ngày, lên nối ngôi Vua. Và đây đã đến lúc mà tôi làm nhiệm vụ của mình đối với Tổ quốc và Dân tộc.

Click vào đây (vietmessenger.com) để đọc tiếp.

Leave a comment