Nguyễn Trãi: Côn Sơn Ca (TĐH dịch)

Ảnh: Côn Sơn, Hải Dương, ngày nay

Côn Sơn ca

Côn Sơn suối (1)
Réo rắt lành lạnh
Ta ngỡ tiếng đàn
Côn Sơn đá
Mưa sạch rêu, xanh phiến
Ta ngỡ chiếu tiệc
Vách núi đầy thông
Vạn dặm biếc trùng trùng
Ta như ngừng thở
Trúc giữa rừng
Nghìn mẫu in lục biếc
Ta như ca vang bên nớ
Hỏi bạn sao chẳng quay về
Nửa đời bụi đất dài cùm gông
Vạn chuông, chín đỉnh, phải thế không?
Nước lã cơm rau đủ phận
Bạn chẳng thấy Đổng Trác vàng đầy một ụ?
Nguyên Tái hồ tiêu tám trăm bồn? (3)
Lại chẳng thấy Bá Di Thúc Tề (4)
Thú Dương thà chết không ăn thóc?
Hiền ngu hai loại chẳng như nhau
Nhưng tất cả đều tìm ham muốn
Người sống trăm năm
Rốt cuộc là cây cỏ
Vui buồn lo sướng tới và đi
Một tươi một héo thay nhau tiếp
Cồn lớn nhà hoa cũng thế thôi
Chết rồi ai vinh và ai nhục?
Người đời nếu còn bọn Sào Do (5)
Khuyên họ nghe khúc ca ta trong núi

(TĐH dịch
September 13, 2021)
 
Chú thích của người dịch:
(1) Côn Sơn: Một ngọn núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Thắng cảnh đẹp. Ngày nay có khu du lịch Côn Sơn.
(2) Đổng Trác (132-192): Tướng quân phiệt và gian thần nhà Đông Hán, đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
(3) Nguyên Tái (?-777): Tể tướng thời nhà Đường ở Trung quốc, gian xảo và tham lam. Cuối cùng bị vua bắt và hành quyết.
(4) Bá Di Thúc Tề: Thúc Tề là con trai thứ ba của Á Vi – vua nước Cô Trúc thời vua Trụ nhà Thương. Vua cha muốn lập ông lên nối nghiệp. Sau khi cha mất, Thúc Tề nhường lại ngôi vua cho anh cả là Bá Di nhưng Bá Di không nhận, bỏ trốn đi nơi khác. Thúc Tề thấy Bá Di bỏ khỏi nước Cô Trúc cũng đi theo.
Nghe tin Tây Bá Cơ Xương là người trọng đãi hiền sĩ, anh em Thúc Tề tìm đến. Nhưng khi đến nơi thì Cơ Xương đã qua đời, con là Cơ Phát lên thay, mang quân đánh vua Trụ tàn bạo. Bá Di cùng em đến trước ngựa của Cơ Phát can ngăn. Cơ Phát lên ngôi thiên tử, lập ra nhà Chu, tức là Chu Vũ Vương. Các chư hầu đều tôn thờ nhà Chu.
Riêng Bá Di và Thúc Tề xấu hổ về việc đã can ngăn vua Chu diệt bạo chúa, bèn cùng nhau thề không ăn thóc nhà Chu. Bá Di và Thúc Tề lên núi Thú Dương, hái rau vi ăn qua bữa. Rau vi không thể nuôi sống được, cuối cùng ông và Thúc Tề đều chết đói tại núi Thú Dương.
(5) Sào Do: Sào Phủ và Hứa Do, theo truyền thuyết, sóng vào đời vua Nghiêu ở Trung quốc.
Hứa Do được tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi.
Hứa Do từ chối, cười mà về rồi ra suối rửa tai.
Khi đó, Sào Phủ mới dắt trâu tới suối uống nước, thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi tại sao.
Hứa Do trả lời: “Ông Nghiêu đòi tôi, biểu tôi thì làm vua.”
Sào Phủ bèn dắt trâu bỏ lên trên dòng nước cho uống.
Hứa Do hỏi tại sao, Sào Phủ đáp: “Anh rửa tai anh xuống đó tôi sợ trâu tôi uống nhằm.”
Sào Phủ lại nói:
“Anh đi đâu cho người ta biết vua mà muốn nhường ngôi vua cho anh, ấy là tại bụng anh vẫn còn danh lợi.”
_________

Nguồn: Thi Viện, Côn Sơn Ca, Nguyễn Trãi

崑山歌

崑山有泉,
其聲冷冷然,
吾以為琴弦。
崑山有石,
雨洗苔鋪碧,
吾以為簞席。
岩中有松,
萬里翠童童,
吾於是乎偃息其中。
林中有竹,
千畝印寒綠,
吾於是乎吟嘯其側。
問君何不歸去來,
半生塵土長膠梏。
萬鐘九鼎何必然,
飲水飯蔬隨分足。
君不見:董卓黃金盈一塢,
元載胡椒八百斛。
又不見:伯夷與叔齊,
首陽餓死不食粟?
賢愚兩者不相侔,
亦各自求其所欲。
人生百歲內,
畢竟同草木。
歡悲憂樂迭往來,
一榮一謝還相續。
丘山華屋亦偶然,
死後誰榮更誰辱。
人間箬有巢由徒,
勸渠聽我山中曲。

Côn Sơn ca

Côn Sơn hữu tuyền,
Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thuý đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yển tức kì trung.
Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kì trắc.
Vấn quân hà bất quy khứ lai,
Bán sinh trần thổ trường giao cốc?
Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên,
Ẩm thuỷ phạn sơ tuỳ phận túc.
Quân bất kiến: Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ,
Nguyên Tái hồ tiêu bát bách hộc.
Hựu bất kiến: Bá Di dữ Thúc Tề,
Thú Dương ngạ tự bất thực túc?
Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu,
Diệc các tự cầu kì sở dục.
Nhân sinh bách tuế nội,
Tất cánh đồng thảo mộc.
Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,
Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.
Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên,
Tử hậu thuỳ vinh cánh thuỳ nhục.
Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ,
Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.

Côn Sơn là một ngọn núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bắc Việt), trên núi có động Thanh Hư, dưới có cầu Thấu Ngọc, đều là thắng cảnh (theo sách Quảng Dư Chí). Đời Trần, Trúc Lâm thiền sư dựng am ở đây, và trạng nguyên Lý Đạo Tái (tức sư Huyền Quang) sau khi từ chức trở về nhập thiền và trụ trì chùa Ân Tứ ở núi này. Triều Trần, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, thường ngâm thơ uống rượu ở núi Côn Sơn sau khi từ chức vì can gián Hồ Quý Ly chuyên quyền mà không được. Tác giả từng thừa hưởng cơ ngơi của ngoại tổ.

Bài ca này Nguyễn Trãi làm khi về nghỉ ở Côn Sơn, cạnh chùa Hun, nhân dịp sưu tập, sắp xếp tập thơ Băng Hồ Ngọc hác tập của Trần Nguyên Ðán, ông ngoại mình.

Leave a comment