Người dịch: Trương Lương Vinh
Biên tập: Phạm Thu Hường
MỆNH LỆNH NĂNG LƯỢNG BẮT BUỘC:
100% TÁI TẠO NGAY BÂY GIỜ
CHƯƠNG 3: Các Siêu Lưới – Những Chiếc Phanh Tiến-Bộ-Giả-Hiệu (Phần 4)
3B. CÔNG NGHỆ KHÔNG CÓ GIÁ TRỊ XÃ HỘI: DỰ ÁN DESERTEC VÔ ĐỊNH (tiếp theo)
Các xung đột về đầu tư
Do dự án năng lượng sa mạc chỉ có thể được thực hiện trong sự hợp tác với các chính phủ của các quốc gia mà dự án được lắp đặt, các chính phủ cũng phải có một sự đóng góp tài chính vào dự án. Trường hợp các công ty năng lượng quốc gia ở các nước này không thể xây dựng nhà máy điện từ chính nguồn lực trong nước, vẫn có hàng loạt khả năng tạo ra lợi nhuận bao gồm từ doanh thu cho thuê (mà sau đó được phản ánh trong chi phí sản xuất) cho đến cổ phần trong nhà máy điện này, và thuế xuất khẩu.
Một khả năng khác có thể sẽ là ưu đãi cho nước sở tại để nhận được miễn phí một phần năng lượng điện được tạo ra bởi nhà sản xuất điện nước ngoài, hoặc ở một mức giá tối thiểu. Không thể tưởng tượng được các nước sở tại lưu trữ các nhà máy điện và mạng lưới điện truyền dẫn chỉ đơn giản là sẽ cung cấp các địa điểm mà không mong đợi để tham gia vào chia sẻ lợi nhuận mà dự án tạo ra. Thật vậy, chúng ta phải giả định điều ngược lại – càng nhiều nước tiếp nhận phụ thuộc vào các nguồn cung cấp điện này, càng nhiều kỳ vọng chia sẻ lợi nhuận đến từ các nước sở tại lưu trữ các nhà máy điện. Chỉ cần nhìn vào các nước xuất khẩu dầu mỏ ở nhiều khu vực mà trước đây là thuộc địa. Từng bước từng bước, và sau khi giành được độc lập, các nước này đã tranh đấu cho sự tăng trưởng ngày càng lớn về thị phần lợi nhuận, cho đến khi cuối cùng đã quốc hữu hóa các công ty khai thác và sau đó đưa ra chỉ định về mức giá.
Một yếu tố quan trọng, và rõ ràng hơn nhiều trong sự phát triển kinh tế của các quốc gia sa mạc so với việc tăng trưởng về thị phần lợi nhuận là sự sụt giảm nhanh chóng của việc nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch. Việc nhập khẩu này đại diện cho gánh nặng kinh tế cực kỳ to lớn, điều mà có thể được giảm nhẹ thông qua việc chuyển tiếp sang năng lượng tái tạo. Điều này chắc chắn là phần lớn trường hợp của các quốc gia sa mạc không có trữ lượng dầu mỏ và khí đốt quốc gia. Tuy vậy điều đó đòi hỏi rằng việc sản xuất năng lượng mặt trời và gió được hoàn toàn nhắm vào thỏa mãn nhu cầu của các quốc gia này, chứ không phải của Châu Âu. Đây là cách duy nhất để chuyển hướng sự tập trung cho tiềm năng của năng lượng sa mạc thành một hướng đi mang tính xây dựng hơn, cho cả các nước sa mạc và cho Châu Âu.
Nhưng chiến lược này đòi hỏi một cách tiếp cận hoàn toàn khác, một chiến lược tôi sẽ phác thảo trong chương 5 và gọi là “Nền kinh tế sa mạc” – một thuật ngữ ám chỉ đến dự án DESERTEC nhưng trong đó rất khác biệt ở nội dung chi tiết. Tôi coi cách tiếp cận của tôi là một sáng kiến tái tập trung nền tảng của DESERTEC hướng tới các nhu cầu của các quốc gia mà dự án được xây dựng, bởi vì nhiều vấn đề mô tả ở trên làm cho điều tất yếu rằng dự án ở hình thức hiện tại sẽ không thể thực hiện. Tất cả những gì hiện đang được trình bày như là thành công ban đầu của DESERTEC chính là kế hoạch cho các nhà máy điện ở Bắc Phi để bảo đảm cho nhu cầu địa phương – dự án dù sao đã được hình thành và lên kế hoạch , mà trong nhiều năm qua, các chương trình vốn tài trợ của Liên minh Châu Âu đã luôn sẵn sàng nhưng chưa được sử dụng tối ưu.
Tính khả thi về mặt kỹ thuật không đồng thời là tính khả thi về mặt xã hội
Chỉ một vài tuần sau khi nền móng của dự án DESERTEC được thiết lập và tập đoàn đã công bố một cách công khai, những người khởi xướng đã buộc phải thừa nhận rằng dự án sẽ không thể đạt được các mục tiêu đã tuyên bố về cung cấp 3% nhu cầu năng lượng của Châu Âu vào năm 2020: các quỹ đầu tư vẫn chưa được bảo đảm, cũng như không có một lộ trình kế hoạch đã có thể sẵn sàng cho việc cấp phép các đường dây cáp điện . Việc chậm trễ được giải thích bởi nhu cầu nghiên cứu sâu hơn và tìm kiếm đối tác ở Bắc Phi. Đến nay, dự án bao gồm chủ yếu là các chính sách công khai rất thành công, trong đó là nhằm mục đích thúc đẩy các chính phủ đóng góp tài chính, đặc biệt là cho việc xây dựng mạng truyền dẫn. Có khả năng cao là đến năm 2020 sẽ không có một đường truyền dòng cao áp một chiều nào có chiều dài dự kiến sẽ được thực hiện. Bởi một mạng lưới bao gồm nhiều hơn là một vài đường cáp điện, sự cung cấp điện đầu tiên có thể chỉ được chuyển đến một số lượng hạn chế của các nước tiếp nhận, có lẽ chỉ là một quốc gia duy nhất, quốc gia sau đó dự kiến sẽ phải có cam kết đặc biệt với dự án. Dự án DESERTEC có thể cũng đã được bắt đầu, nhưng nó sẽ không bao giờ được hoàn thành. Một số công ty sẽ muốn tham gia, chỉ để rút lui sớm hay muộn một khi đối mặt với hoàn cảnh thực tế.
Dự án này là kiểu kỹ trị (được điều hành và quản lý hoàn toàn bằng các chuyên gia công nghệ, thuật ngữ ám chỉ điều chỉ có giá trị về mặt kỹ thuật -ND) và hoàn toàn bỏ qua các yếu tố mang tính xã hội. Các thiết kế kỹ trị thường nói rằng tất cả mọi thứ đó là về mặt kỹ thuật có thể được thực hiện, trong khi bỏ qua những câu hỏi và những sự liên quan đối với các hoàn cảnh bất lợi tiềm ẩn về kinh tế và xã hội như đã được dự báo. Những bên tài trợ của họ rất lạc quan để chỉ ra rằng việc thực hiện chỉ đơn thuần là một vấn đề về “quyết tâm chính trị”. Nhờ cái cớ-đổ-lỗi này này, trách nhiệm của những xét đoán sai lầm và thất bại nằm ở người khác và không bao giờ là lỗi của chính các nhà thiết kế dự án. Đó là phi thực tế để mong đợi rằng khoảng thời gian đã lên kế hoạch trong bốn thập kỷ để đạt được mục tiêu dự án có thể được tuân thủ triệt để – khả năng cao hơn nhiều là cần thiết khoảng thời gian dài hơn nhiều, với khả năng kế hoạch khổng lồ bị biến đổi thành một sai lầm chiến lược khổng lồ.
Biện minh cho hành vi bảo thủ có tính cấu trúc của họ, những người sáng tạo của dự án DESERTEC chỉ đơn giản là bỏ qua nhiều phương pháp lưu trữ năng lượng tái tạo, một chủ đề tôi sẽ khảo sát chi tiết ở phần tiếp theo. Điều này cũng đúng đối với các công ty điện lực – bởi vì sau đó lời biện minh duy nhất còn lại cho sự từ chối của họ để đáp ứng tất cả các nhu cầu điện bằng năng lượng tái tạo, cùng với lý do để truyền điện qua khoảng cách rất xa thông qua một siêu lưới điện, sẽ không còn giá trị. Đây cũng là lập luận đằng sau dự án Seatec.
Khi nói đến dự án điện sa mạc, động lực chính cho các công ty điện lực tham gia không phải là giá điện thấp, mà nghiên cứu ước tính giá từ 0.05-0.06 euro mỗi kilowatt-giờ cho Châu Âu. Những con số hấp dẫn này chỉ đơn giản là một sự biện minh được chào mời nhằm chống lại sự tăng trưởng liên tục của năng lượng tái tạo phi tập trung. Dự án này được dựa trên nguyên tắc vừa không kinh tế vừa không có trách nhiệm. Ngược lại, năng lượng tái tạo phi tập trung đã tăng trưởng từ rất lâu trước khi dòng điện đường dài đầu tiên từ Bắc Phi đến Châu Âu đã được xây dựng và nhà máy điện năng lượng mặt trời đầu tiên có thể được kết nối. Trái ngược với niềm tin của các tác giả nghiên cứu dự án và công chúng bị ấn tượng, không hẳn là các công ty điện lực thực sự tin vào dự án DESERTEC/Transgreen có thể được thực hiện toàn bộ, chứ chưa nói đến với chi phí thấp.
Khó ai có thể buộc tội các công ty điện lực với sự thiếu kinh nghiệm thực tế; đúng hơn thì họ đang cố gắng sử dụng những lời hứa này để giành chiến thắng trong sự xung đột cấu trúc hệ thống trong quốc gia của họ giữa các hệ thống cung cấp điện cũ và cung cấp điện dựa trên năng lượng tái tạo. Trên tất cả, họ giành chiến thắng về thời gian bằng cách làm như vậy. Tuy nhiên, Pháp có thể có động cơ bổ sung cho việc tham gia: sử dụng siêu lưới điện Bắc Phi – Châu Âu để phân phối điện được sản xuất trong các nhà máy điện hạt nhân mà AREVA hy vọng sẽ xây dựng ở Bắc Phi. Claude Turmes, một thành viên của Nghị viện Châu Âu (MEP), nói về một “chương trình hạt nhân ẩn” trong sự tham gia chính thức của Pháp trong dự án điện sa mạc xuyên Địa Trung Hải.55
(còn tiếp)
—
© 2014 copyright Verlag Antje Kunstmann GmbH
Permission granted for translating into Vietnamese and publishing solely on dotchuoinon.com for non-commercial purposes.
Bản quyền bản dịch: dotchuoinon.com