Mệnh Lệnh Năng Lượng Bắt Buộc – CHƯƠNG 2 (PHẦN 22)

Người dịch: Lê Thùy Dung
Biên tập: Nguyễn Thu Trang

MNH LNH NĂNG LƯỢNG BT BUC:
100% TÁI TO NGAY BÂY GI

CHƯƠNG 2: Phương Pháp Và Tâm lý Của Sự Trì Hoãn
(Phần 22)

2D. Sự thiếu can đảm về đạo đức chính trị: Làm kiệt quệ tương lai từ hôm nay (tiếp theo)

Theo cảm tưởng của tôi, có ba động cơ quan trọng hơn cả khiến người ta chấp nhận cơ sở vật chất của hệ thống năng lượng đã được thiết lập này.

Động cơ thứ nhất đã được mô tả trong nghiên cứu của nhà khoa học chính trị Martin Greffenhagen về lợi thế tâm lý của những nhà chính trị đương nhiệm, mà chính đó là nơi chủ nghĩa bảo thủ chính trị phụ thuộc vào. Người ta cho rằng những ai kêu gọi thay đổi hệ thống là những người muốn chứng minh một điều gì đó mà không có bằng chứng cụ thể nhằm cho thấy điều mới mẻ chưa tồn tại ấy còn  tốt hơn những gì vẻ như đã được thử-nghiệm-và-kiểm-tra. Điều này mô tả lợi thế tâm lý khổng lồ mà những tập đoàn năng lượng truyền thống hiện nắm giữ, thứ gây ra phản ứng tự động làm quên mất rằng những gì xuất hiện dưới hình thức là được thử-nghiệm-và-kiểm-tra, theo đúng định nghĩa mà nói, là không có tương lai. Hệ thống năng lượng cũ với các cấu trúc trên quy mô lớn thể hiện mình đầy hấp dẫn, một cách lừa gạt, trong việc đáp ứng nhu cầu an ninh năng lượng của chúng ta cũng như làm người ta sợ hãi các sự thay đổi. Những khuynh hướng bảo thủ máy móc này cũng là đặc tính cố hữu trong hệ thống nghiên cứu khoa học. Các nhà khoa học có ý muốn tránh những phỏng đoán để bảo vệ mình khỏi những cáo buộc là thiếu cơ sở khoa học, thường thích tập trung vào các cấu trúc có sẵn hơn là chấp nhận các điều kiện thể chế mới và xem xét các công nghệ mới. Người ta có thể tìm thấy những dẫn chứng gián tiếp của vấn đề này trong rất nhiều công trình nghiên cứu và các kịch bản khoa học được công bố.

Động cơ thứ hai là giả thuyết quá trình chuyển đổi năng lượng chỉ có thể diễn ra song hành với ngành công nghiệp điện đang tồn tại, và do vậy quá trình chuyển đổi phải ép mình sao cho phù hợp với hệ thống đang tồn tại. Thật là “không tưởng” nếu không thực hiện theo hướng đó. Quan điểm này đặc biệt phổ biến trong bộ phận các bên liên quan đến chính trị. “Nếu anh đọ sức với ngành công nghiệp năng lượng, anh sẽ không đi đến đâu đâu” là những gì tôi thường được nghe thấy, phần lớn là từ những nhà chính trị chưa từng đọ sức với ngành công nghiệp đó và vì thế hầu như chưa từng thay đổi được gì. Tuy nhiên, thực tế thực nghiệm cho thấy thành công vang dội khi đưa năng lượng tái tạo vào hệ thống, chống lại phe lợi ích đối với hệ thống năng lượng thiết lập sẵn và tưởng như không thể thay đổi. Đó là hiện thực chính trị. Bạn chỉ có thể tăng tốc hết lực khi không bị ràng buộc vào giới hạn của hệ thống hiện tại (ví dụ như những khoản đầu tư cũ chưa được phân bổ và các khoản đầu tư hệ thống khác).

Chúng ta thậm chí không thể tính toán một thời điểm lý thuyết khi mà tất cả các khoản đầu tư cho năng lượng truyền thống sẽ cùng lúc đạt được mức mất mát chấp nhận được (write off)*,  bởi những khoản đầu tư này chênh nhau và có vòng đời khác nhau.

*write off: chấp nhận sự mất mát, tổn thất nào đó hoặc gạt nó sang bên cạnh; trong kinh tế, khi nói về nợ, nó có nghĩa là xóa sổ khoản nợ, ví dụ bằng cách xử lý nợ xấu -ND

Năng lực hệ thống của ngành công nghiệp điện truyền thống là tổng hợp của nhiều phần đầu tư cũ và mới và vì thế chỉ có thể theo đuổi chiến lược thay đổi từ từ, chiến lược luôn dẫn tới việc trì hoãn những gì đã có thể thật sự được nhận thức vào lúc này. Vậy nên chỉ những ai không bị là một phần trong hệ thống sẵn có, những ai có thể hành động như nguồn động lực cho quá trình chuyển đổi năng lượng, là những người đóng vai chính trong sự chuyển đổi này. Chính sáng kiến của họ sẽ thúc đẩy những tập đoàn năng lượng thích nghi với những bước phát triển mới. Và những sáng kiến ấy chỉ có thể phát huy khi chúng chạy ngược vào hệ thống sẵn có và khi những nhà hoạt động mới trong lĩnh vực chính trị, kinh doanh và xã hội lên nắm quyền.

Động cơ thứ ba bắt nguồn từ nội hàm ý nghĩa từ “lớn” và “nhỏ”. Chúng ta thường hiểu từ “lớn” theo đúng nghĩa như vậy, ví dụ như dự án lớn, nhà máy điện cỡ lớn, thay vì là tổng hợp của nhiều sáng kiến quy mô nhỏ, ngay cả khi hiệu quả cộng hưởng của chúng lớn hơn nhiều. Vậy nên cần thiết phải phân biệt thế nào là “lớn” và thế nào là “nhỏ” trong phương diện chuyển đổi năng lượng. Nhu cầu lớn không có nghĩa đồng nhất với nhà máy điện cỡ lớn. Dù quả đúng là chỉ có những dự án lớn mới có thể lái sự chuyển đổi năng lượng về phía trước, nhưng  đánh đồng điều này với việc xây dựng những nhà máy điện cỡ lớn là sai lầm. Ví dụ về dự án quy mô lớn từ vô số những sáng kiến cá nhân độc lập là chương trình điện khí hóa nông thôn do Ủy ban Phát triển Năng lượng tái tạo Tây Bengal (WBREDA) ở Ấn Độ thực hiện, chương trình đã cung cấp điện được sản xuất từ các nguồn tái tạo cho 3000 ngôi làng trong vòng 5 năm. Ví dụ thứ hai là ngân hàng Grameen Shakti (Shakti có nghĩa là Mặt trời) ở Bangladesh, khởi nghiệp từ năm 2004 với hệ thống dịch vụ ngân hàng và tín dụng vi mô, tính đến năm 2012 ngân hàng sẽ mang lại 1.5 triệu hệ thống quang điện, một trăm ngàn hệ thống điện từ khí sinh học và 5 triệu bếp sử dụng năng lượng mặt trời. Dẫn chứng thứ ba là Đạo luật Năng lượng tái tạo Đức, đạo luật đã thúc đẩy các khoản đầu tư trị giá 96 tỷ euro vào việc sản xuất điện từ năng lượng tái tạo trong giai đoạn 2001-2010. Điều này tương phản với các khoản đầu tư chưa tới 10 tỷ euro vào nhà máy điện truyền thống cỡ lớn trong cùng giai đoạn đó.

Lòng trung thành vẫn tiếp tục đối với các nhà máy điện truyền thống cỡ lớn và thậm chí dành cho cả việc xây dựng những nhà máy mới, trước sau như một lòng trung thành này được biện hộ bằng cách khẳng định rằng các nhà máy điện này cần hiện hữu để đáp ứng nhu cầu năng lượng vốn vượt quá vai trò vẫn còn giới hạn của năng lượng tái tạo. Khẳng định này giả định về một căn cứ vững chắc của nhiều kịch bản khác nhau trong đó coi phần tiềm năng đóng góp của năng lượng tái tạo là có hạn. Trong các thảo luận về chính sách năng lượng tại Đức, chính lý do này đã được Đảng Liên minh Dân chủ Thiên chúa giáo/Liên minh Xã hội Cơ Đốc (CDU/CSU) bảo thủ và and Đảng Dân chủ Tự do (FDP) theo đường lối tự do đưa ra nhằm thay đổi quyết định năm 2001 về việc dần loại bỏ năng lượng nguyên tử, lý do này cũng được họ đưa ra để cho phép xây dựng các nhà máy điện đốt than mới. Đối tác cánh tả của họ, Đảng Dân chủ Xã hội (SPD), tiếp tục ủng hộ phương án loại bỏ dần điện nguyên tử nhưng giải thích việc Đảng này chấp thuận các nhà máy điện đốt than mới bằng lập luận rằng đồng thời từ bỏ cả hai phương án là bất khả thi.Và Đảng Xanh, như trong chương sau sẽ đề cập, cũng như vậy tin rằng chúng ta không thể sống thiếu các cấu trúc quy mô lớn, mặc dù các cấu trúc này cần được sử dụng với năng lượng tái tạo và các siêu lưới.

Tuy nhiên, câu trả lời kiên định có tính lo-gic cho câu hỏi làm thế nào để đáp ứng toàn bộ nhu cầu năng lượng của chúng ta mà không quay về phương án nhà máy điện hạt nhân, nhà máy điện đốt than hoặc CCS (thu giữ và lưu trữ cacbon) hiển nhiên sẽ là một chính sách được thiết kế để đồng loạt thúc đẩy sự mở rộng năng lượng tái tạo. Chính sách này sẽ bao gồm các phương án lưu trữ cần thiết dựa trên tiềm năng tự nhiên và các công nghệ đã có sẵn, đồng thời bằng việc thi hành một cách kiên định nguyên lý ưu tiên cho năng lượng tái tạo, hệ thống các cấu trúc cung cấp năng lượng phải được thay đổi cho phù hợp với các phương án lưu trữ đó. Việc thích ứng này cũng cho phép các chức năng hệ thống trở nên phi tập trung theo vô số cách. Quyết định này khác với “chính sách năng lượng tổng quan” thường bị đòi hỏi quá nhiều, trong đó cố gắng quy định phần đóng góp của năng lượng tái tạo và năng lượng truyền thống dưới hình thức ngành công nghiệp năng lượng trong vài thập kỉ tới. Bất kì kế hoạch nào gắng sức thực hiện chính sách này đều sẽ thất bại bởi vì điều đó không tránh khỏi bị bất đồng với sự phát triển thực tế của công nghệ và kinh tế trong lĩnh vực năng lượng.

Không chỉ nhóm lợi ích của ngành công nghiệp năng lượng truyền thống nằm trong các tổ chức chính trị và các đảng phái, thường dưới dạng các cá nhân riêng lẻ, điều  ngăn cản những nhà hoạt động chính trị thực hiện cuộc cách mạng có tính hệ thống về nguồn cung năng lượng. Các phương pháp cố thủ này đã được biết đến từ lâu. Đặc biệt hiệu quả là hình thức tham nhũng hợp pháp đi theo nguyên tắc “chúng tôi sẽ trả sau”, theo đó các thành viên chính phủ và các công chức lãnh đạo sau khi rời khỏi vị trí chính trị của mình, thường được đề nghị các công việc trả lương hậu hĩnh tại những tập đoàn năng lượng. Điều này giải thích được nhiều thứ, mặc dù không có nghĩa là tất cả, vì sao nhóm những người bị ảnh hưởng do vậy là khá nhỏ.

Vấn đề liên quan hơn nữa là sự thiếu can đảm về đạo đức chính trị, là nỗ lực nhằm tránh xung đột chắc chắn xảy ra và kiếm tìm không ngừng nghỉ cho “sự đồng thuận về năng lượng”. Nhưng người ta chỉ có thể ghép các mảnh vừa với nhau lại với nhau. Tuy nhiên, xã hội đã phát triển xa hơn nhiều so với những gì phần lớn các nhà đại diện chính trị của xã hội  nhận ra. Mỗi người trong vai trò chính trị của mình phải tự hỏi bản thân liệu họ có tin hay không rằng những thỏa thuận vốn tê liệt với nhóm lợi ích của hệ thống năng lượng cũ là quan trọng hơn sự cần thiết khách quan của việc lái quá trình chuyển đổi năng lượng về phía trước và sự kì vọng hợp pháp của toàn xã hội rằng chúng ta sẽ làm như thế, hành động với tất cả hàm ý và không trì hoãn.

Hết Chương 2.

© 2014 copyright Verlag Antje Kunstmann GmbH

Permission granted for translating into Vietnamese and publishing solely on dotchuoinon.com for non-commercial purposes.

Bản quyền bản dịch:  dotchuoinon.com

Leave a comment