Người dịch: Phạm Thị Ngọc Nho
Biên tập: Phạm Thu Hường
MỆNH LỆNH NĂNG LƯỢNG BẮT BUỘC:
100% TÁI TẠO NGAY BÂY GIỜ
CHƯƠNG 2: Phương Pháp Và Tâm lý Của Sự Trì Hoãn
(Phần 15)
2B. Những chiếc cầu dễ gãy:
Năng lượng hạt nhân và những nhà máy điện thu giữ và lưu trữ cac bon bằng bất kỳ giá nào? (tiếp theo)
Những rủi ro chi phí hiển nhiên
Lựa chọn CCS cũng là vấn đề đáng nghi ngờ từ một quan điểm kinh tế. Hiện nay, các nhà máy điện đốt than hiện đại đạt khoảng 45% hiệu suất tính theo lượng than tiêu thụ. Quá trình mất công sức để tách CO2 ra làm giảm mức độ hiệu suất này xuống còn 35%. Năng lượng tiêu thụ trong vận chuyển CO2 dọc theo đường ống, và quá trình nén tiếp theo sau, làm giảm hiệu suất hơn nữa.
Do đó, có thể tăng thêm lên đến 40% năng lượng sơ cấp yêu cầu cần thiết trong một nhà máy điện CCS chỉ đơn giản để sản xuất cùng một lượng điện như trong một nhà máy điện không CCS. Điều này làm tăng chi phí nhiên liệu ngoài các chi phí phụ trội thu giữ CO2, cơ sở hạ tầng đường ống, giao thông, nén và giám sát. Những sự gia tăng khôn lường trong giá điện như vậy là không thể tránh khỏi. Ngay cả dự toán chi phí vừa phải ngày nay cho thấy rằng điện được sản xuất bởi các nhà máy điện đốt than CCS là không hề rẻ hơn điện sản xuất sử dụng năng lượng gió. Tuy nhiên, sự khác biệt là, các chi phí sản xuất điện sử dụng năng lượng gió sẽ giảm vào lúc các nhà máy điện CCS đã trở nên sẵn sàng hoạt động, cho dù đến năm 2020 hoặc sau đó.
Việc đề cao một dự án, để khởi động cho sự bắt đầu và để kêu gọi sự ủng hộ chính trị, là một phương pháp phổ biến để làm cho các dự án lớn có thể được chấp nhận bởi các chính phủ và công chúng, và trong quá trình này những người biện hộ cho các dự án này thường khéo léo dựa vào các tuyên bố chưa được chứng minh. Bằng chứng về tính khả thi của dự án CCS đã được đưa ra bởi Statoil, doanh nghiệp nhà nước Na Uy, đã chỉ trình bày tách riêng về phần của CO2 từ khí được chiết xuất, trực tiếp tại các điểm khai thác, trước khi ngay lập tức nén khí. Vì vậy, những gì xảy ra sau đó khiêm tốn hơn nhiều khi vào tháng 5/2010, Statoil thông báo rằng đã dừng lại sự thử nghiệm lớn nhất thế giới về tách và lưu trữ CO2 tại nhà máy điện chạy khí ở Mongstad, do các vấn đề kỹ thuật và không có hiệu quả chi phí. Các nhà máy nhiệt điện mới của họ bây giờ sẽ bắt đầu hoạt động mà không có CCS.
Lý do chính thức của Statoil là “kỹ thuật CCS được chứng minh thực tế là đắt hơn nhiều so với giả định trước đây và riêng kỹ thuật này sẽ có chi phí nhiều hơn toàn bộ nhà máy điện. Việc ấy hoàn toàn phức tạp hơn nhiều những gì chúng ta giả định bốn năm trước đây“. Cùng lúc đó, chính phủ Na Uy (là sức mạnh động lực đằng sau dự án này, đã quyên góp 1 tỉ euro cho sự phát triển và huy động sự hỗ trợ tại hội nghị khí hậu thế giới), tuyên bố sẽ không cung cấp thêm tài trợ nữa cho dự án CCS. Thậm chí cho đến tận cuối năm 2007, Thủ tướng Chính phủ Na Uy, Jens Stoltenberg, đánh đồng tầm quan trọng của dự án CCS với chương trình hạ cánh xuống mặt trăng của Mỹ trong những năm 1960.
Sự hủy bỏ thử nghiệm Mongstad đáng ra đã cung cấp đủ lý do để bỏ đi phương pháp tiếp cận CCS và, không có thêm khó khăn gì, để lái tới sự chuyển đổi sang năng lượng tái tạo. Tại sao chúng ta phải tiến hành với một lựa chọn không rõ ràng như vậy, một sự lựa chọn mà sẽ đắt đỏ hơn và đòi hỏi nhiều thời gian để thực hiện hơn năng lượng tái tạo? Một lựa chọn CCS yêu cầu các năng lực xử lý thường trực lâu dài rất lớn, mặc định có sẵn trong các thông số được yêu cầu, trong các tuyên bố tự mâu thuẫn rằng không có đủ khả năng lưu trữ cho năng lượng tái tạo, cho dù ở dạng khí nén, khí sinh học, hydro hoặc các trạm bơm lưu trữ ngầm (nhưng lại có khả năng đủ cho lưu trữ CO2? -ND).
Một thỏa hiệp hệ thống giả tạo
Chúng ta khó có thể hy vọng rằng những người ủng hộ CCS sẽ tự rút ra những kết luận này. Quá nhiều trong số họ đã tham gia vào dự án CCS đã nói ở trên trong khi chờ đợi, bao gồm các công ty điện lực và các chính phủ cũng như các tổ chức môi trường như WWF và thậm chí cả Viện Sinh thái ứng dụng Đức. Dự án này xuất hiện là một hình thức của Quả trứng Columbus*, một sự thỏa hiệp đã đem lại lợi ích cho cả các công ty điện lực cũng như sự bảo vệ khí hậu.
* Columbus’s Egg: một thành ngữ ý nói một ý tưởng hoặc một phát kiến xuất sắc có vẻ đơn giản hoặc dễ dàng sau khi đã được tìm ra trong thực tế. Câu thành ngữ này có nguồn gốc từ một câu chuyện tương truyền về Christopher Columbus, khi được cho biết rằng việc khám phá ra châu Mỹ là chuyện chắc chắn sẽ xảy ra và chẳng phải là thành tựu to lớn gì, đã thách thức những người bình luận đặt một quả trứng đứng thẳng trên đỉnh của nó. Sau khi những người đó bỏ cuộc, Columbus đã thực hiện việc đó bằng cách đập nhẹ một đầu của quả trứng lên bàn và làm quả trứng đứng thẳng trên đầu được làm phẳng đó. Thành ngữ thường được dùng để ám chỉ khả năng sáng tạo.
Do đó đây là một ví dụ điển hình về việc theo sai đường, mặc cho bài học thực tế về điện hạt nhân. Gần như chỉ sau một đêm, dự án đã trở thành một triển vọng mới đặt chính trị vào chuyển động ngay sau đó, trong một “báo cáo đặc biệt” vào năm 2005, IPCC đã tuyên bố rằng CCS là một thành phần thiết yếu của chính sách bảo vệ khí hậu. Mặc dù là lần đầu tiên được nghiên cứu, quá trình này đã ngay lập tức được tích hợp vào các dự đoán năng lượng và việc lên kế hoạch. Công quỹ đã được cung cấp và các khuôn khổ pháp lý đã được giới thiệu, đến một mức độ và ở một tốc độ mà chưa bao giờ xảy ra với năng lượng tái tạo.
Vào năm 2008, EU đã bao gồm CCS như là một đường lối hành động trong chỉ thị về định mức phát thải và giao dịch khí thải của mình. Với Luật Biến đổi khí hậu, chính phủ Anh đã phong cho CCS, cùng với điện hạt nhân, một địa vị cao cấp như là một biện pháp bảo vệ khí hậu. Sau đó là vào năm 2009 với chỉ thị về CCS của EU, Chính phủ Đức đã đệ trình một dự luật dự thảo CCS, mặc dù sau đó đã được thu hồi vào phút cuối trong tháng 6 năm 2009 trong bối cảnh lo ngại về một làn sóng phản đối tức thì trước các cuộc bầu cử quốc hội Đức tiếp theo. Chính phủ Úc thành lập Viện CCS toàn cầu với một ngân sách hàng năm 100 triệu USD – một khoản tiền nhiều hơn gấp 6 lần so với ngân sách năm 2010 cho Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế (IRENA) mới được thành lập với hơn 140 quốc gia thành viên.
Liên minh châu Âu đã tài trợ 2 tỷ Euro cho 12 nhà máy điện CCS, Úc 1.2 tỷ USD, Canada 1.2 tỷ USD và chính phủ Mỹ 3.4 tỷ USD. Tất cả mọi thủ tục đã được sắp đặt để công nhận các nhà máy điện CCS thuộc về Cơ chế Phát triển Sạch (CDM). Tổ chức môi trường lớn nhất Hoa Kỳ, Hội đồng Bảo vệ Tài nguyên Thiên nhiên (NRDC) với 1.3 triệu thành viên, đã trở thành mũi nhọn để giới thiệu CCS. Khi làm như vậy, họ hy vọng lái về phía trước cuộc chiến chống khí thải CO2, tin tưởng rằng cuộc đấu tranh cho các giải pháp thay thế đối với các nhà máy điện đốt than là vô ích. Tổ chức bảo vệ môi trường Na Uy, Bellona, đã coi việc đóng cửa của dự án CCS Mongstad như một “cú đâm sau lưng” và rên rỉ rằng: “Chúng tôi đã dành rất nhiều năng lượng bảo vệ chính sách này“.
Vì vậy, CCS đã trở thành một trọng tâm chiến lược toàn cầu cho các lợi ích năng lượng truyền thống. Như đã nói trong phần Giới thiệu, Tổng công ty Shell đã đình chỉ phần lớn các hoạt động của mình đối với năng lượng tái tạo, thay vào đó công bố sự thay đổi tập trung vào CCS. Công ty điện lực với danh mục đầu tư các nhà máy điện đốt than, và các công ty công nghệ đặt hy vọng của họ vào kỹ thuật CCS, liên kết với các hoạt động quảng cáo tài trợ như khu công nghiệp Klima Đức, một trung tâm thông tin cho các nhà máy điện đốt than thân thiện với môi trường.
Một tổ chức khác, DEBRIV, đại diện cho ngành công nghiệp than non Đức, thường xuyên đặt các quảng cáo lớn trên các tờ báo hàng ngày, trong đó một loạt các giáo sư đều nói cùng một điều: than có thể và phải được sử dụng một cách thân thiện môi trường bằng kỹ thuật CCS, bởi vì năng lượng tái tạo không thể thay thế các nhà máy điện đốt than. Các cảnh báo và các cuộc biểu tình đã được giải thích như là các định kiến vô lý và trái ngược với sự đồng thuận chung của các chuyên gia.
Các viện nghiên cứu khí hậu đánh giá các công nghệ năng lượng chỉ dựa vào (hoàn toàn hợp lý từ quan điểm của họ) khả năng của các kỹ thuật để giảm khí thải CO2. Thậm chí là vậy, ngoài năng lực chuyên môn của họ trong vấn đề nghiên cứu khí hậu, họ cũng được trao quyền tuyên bố về các chiến lược chính trị và kinh tế có lợi nhất để cung cấp năng lượng trong tương lai. Khi các viện nghiên cứu khí hậu hàng đầu cũng tham gia vào IPCC, họ tự động áp dụng các mô hình của sự đồng thuận hiện có trong cộng đồng trong việc đánh giá những gì là khả thi, có thể đạt được và chấp nhận được. Tuy nhiên, IPCC không phải là một ủy ban có các đề xuất hoàn toàn dựa vào các tiêu chí phân tích khoa học, mặc dù tổ chức này chắc chắn xứng đáng với lời khen ngợi đã làm cho công chúng toàn cầu nhận thức được sự nguy hiểm của biến đổi khí hậu khi đối mặt với các chiến dịch phản đối có tổ chức.
Tuy vậy tổ chức IPCC phụ thuộc vào sự đồng thuận. Nhưng sự đồng thuận này là một thỏa hiệp hệ thống giả tạo, ít nhất là khi nói đến các đường lối hành động được đề xuất. Các đề xuất hành động khuyến khích các ưu đãi được thực hiện cho các lợi ích có tầm ảnh hưởng và ngăn chặn các đường lối hành động cụ thể không đi quá xa – do vậy mà có mục tiêu “hai độ C” (two degree target**) và cách tiếp cận CCS. Họ đã công bố các dự báo về tính khả thi kinh tế của CCS ngay cả trước khi có dữ liệu thực nghiệm đáng tin cậy.
** “two degree” target: mục tiêu “hai độ C” được đề cập trong Hiệp định Copenhagen tại Hội nghị COP 15 năm 2009 cho Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu. Hiệp định công nhận “quan điểm khoa học rằng sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu nên ở mức dưới 2 độ C” – là ngưỡng nguy hiểm của những ảnh hưởng toàn cầu do biến đổi khí hậu, “trong bối cảnh phát triển bền vững để chống lại biến đổi khí hậu”.
Ottmar Edenhofer, Phó giám đốc của Viện Nghiên cứu Tác động khí hậu Potsdam (Potsdam Institute for Climate Impact Research – PIK), đã lên tiếng ủng hộ CCS với câu nói: “CCS có thể là một công nghệ bắc cầu quan trọng cho sự bảo vệ khí hậu toàn cầu. Nếu được có thể giải quyết những vấn đề kỹ thuật về khí thải và kho lưu trữ địa chất với chi phí cạnh tranh và mức độ rủi ro ở mức chấp nhận được, thì theo các tính toán mẫu của PIK, bằng cách sử dụng CCS, chi phí bảo vệ khí hậu có thể được giảm một phần tư.” Nhưng cơ sở cho các tính toán trong mô hình mẫu này là gì, khi mà các chi phí kỹ thuật không rõ ràng và các chi phí liên quan đến cuộc xung đột tiềm năng bị lờ đi?
(còn tiếp)
—
© 2014 copyright Verlag Antje Kunstmann GmbH
Permission granted for translating into Vietnamese and publishing solely on dotchuoinon.com for non-commercial purposes.
Bản quyền bản dịch: dotchuoinon.com
Em highlight câu này, vì câu đó làm em chú ý. Cám ơn Ngọc Nho và team dịch.
“Việc đề cao một dự án, để khởi động cho sự bắt đầu và để kêu gọi sự ủng hộ chính trị, là một phương pháp phổ biến để làm cho các dự án lớn có thể được chấp nhận bởi các chính phủ và công chúng, và trong quá trình này những người biện hộ cho các dự án này thường khéo léo dựa vào các tuyên bố chưa được chứng minh.”
LikeLike
Chính xác, những ý tưởng không đến từ người dân hay đại đa số người dân và người tiêu dùng mà lại đến từ nhà cầm quyền, hay đến từ những thế lực độc quyền thì lúc nào cũng mệnh danh là cứu giúp con người, cứu giúp trái đất. Nhưng các ý tưởng thực chất là để duy trì quyền lực và sự độc quyền của họ như là điện hạt nhân, như là lưu giữ carbon, và các công nghệ hoành tráng!. Các vị “chuyên gia”, “nhà khoa học”, “hoạch định chính sách” cho rằng họ có quyền định đoạt tương lai con người và trái đất như vậy “thay mặt” cho người dân
LikeLike
Sở dĩ những ý tưởng điên rồ và phi lý như lưu trữ CO2 được nhiều người đề cập và nhiều người đồng ý vì đó là ý tưởng của kỹ nghệ năng lượng hóa thạch để bảo vệ toàn hệ thống hạ tầng cơ sở vĩ đại của họ nhiều năm nữa, và kỹ nghệ này có rất nhiều “nhà khoa học” đang làm việc trực tiếp và gián tiếp cho họ.
LikeLike