Người dịch: Đào Thị Bích Diệp
Biên tập: Nguyễn Thu Trang
MỆNH LỆNH NĂNG LƯỢNG BẮT BUỘC:
100% TÁI TẠO NGAY BÂY GIỜ
CHƯƠNG 1: Không Có Lựa Chọn Nào Khác Ngoài Năng Lượng Tái Tạo (Phần 9)
1D. Xung đột cấu trúc:
Mối quan hệ căng thẳng giữa các hệ thống năng lượng đối lập
Sự khác biệt chính thứ ba giữa năng lượng truyền thống và năng lượng tái tạo nằm ở tính hệ thống của chúng (sự khác biệt thứ nhất là giữa một nguồn tài nguyên có hạn và một nguồn vô hạn; sự khác biệt thứ hai là giữa một bên phát thải và một bên không phát thải). Sự khác biệt thứ ba này mang tính khách quan và do đó không nên bị làm nhòa đi bởi lý do chủ quan muốn tránh xung đột, hoặc là bị lờ đi mà không nghĩ gì đến. Thất bại trong việc xem xét sự khác biệt hệ thống này dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng trong lối tư duy chiến lược.
Một trong những sai lầm đó là quan điểm cho rằng sự kềm giữ của công nghiệp năng lượng truyền thống đối với năng lượng tái tạo sẽ bị phá vỡ một khi năng lượng tái tạo trở nên “cạnh tranh” hơn hoặc thậm chí là được sản xuất với giá rẻ hơn. Tuy nhiên đây là một sai lầm có tính hệ thống. Hệ thống năng lượng truyền thống được tổ chức song hành với dòng năng lượng mà nó tạo ra. Nếu nhân tố đơn chủ chốt là nhà máy phát điện bị tách khỏi dòng chảy năng lượng này và được thay thế bởi điện năng sản xuất từ năng lượng tái tạo, thì cơ sở hạ tầng thượng nguồn và hạ nguồn sẽ chịu ảnh hưởng tức thì.
Nguồn năng lượng sơ cấp được sử dụng trước đó phải tìm cho mình khách hàng mới, nếu không nguồn năng lượng này sẽ không được tiêu thụ nữa. Điều này ảnh hưởng đến giá cả của nguồn năng lượng sơ cấp cũng như tính khả thi về mặt kinh tế của cơ sở hạ tầng vận chuyển năng lượng. Điều này cũng đúng đối với phần hạ nguồn, đặc biệt là với mạng lưới truyền dẫn năng lượng được thiết kế riêng cho mỗi vị trí đặt nhà máy năng lượng.
Khi một nhà máy bị tách khỏi hệ thống (vì nguồn năng lượng thay thế có thể được sản xuất tại một nơi khác), một phần của hệ thống truyền dẫn đang tồn tại trở nên thừa thãi. Điện năng thu được từ năng lượng tái tạo hầu như không bao giờ được sản xuất tại cùng một địa điểm như điện năng được tạo ra bởi các nhà máy điện truyền thống, mà thông thường hơn là được sản xuất bởi các đơn vị phát điện nhỏ tại nhiều vị trí khác nhau.
Do đó, một công ty năng lượng không thể chỉ căn cứ vào việc đánh giá đơn lẻ giá thành sản xuất điện để quyết định xem đến khi nào và bằng cách nào họ sẽ thay thế nguồn năng lượng truyền thống bởi năng lượng tái tạo. Các công ty năng lượng đưa ra quyết định dựa trên tiêu chí khác.
Điều đó giải thích tại sao, xét thí dụ một công ty năng lượng vừa vận hành các nhà máy nhiệt điện đốt than, vừa hoạt động trong ngành công nghiệp mỏ (chẳng hạn để đảm bảo nguồn cung nhiên liệu cho chính nó) vừa góp vốn cho một mạng lưới truyền dẫn điện, lại lưỡng lự về năng lượng tái tạo, bởi lẽ năng lượng tái tạo cản trở hệ thống đã được thiết lập.
Tuy vậy, những công ty kiểu này vẫn đầu tư vào năng lượng tái tạo, khi đó họ thường thích đầu tư bên ngoài khuôn khổ của mình. Công ty điện E.ON của Đức đầu tư vào các dự án năng lượng gió ở Anh thay vì ở Đức để không cản trở những cơ sở khách hàng đã được thiết lập trước của họ. Động thái của công ty này là hệ quả logic của cả một hệ thống, và đã được sao chép bởi nhiều công ty khác.
Nói một cách khác, không phải giá thành sản xuất điện hay giá nhiên liệu của năng lượng truyền thống là tiêu chí duy nhất, hoặc thậm chí quan trọng nhất đối với các quyết định của một công ty năng lượng. Nhân tố quyết định ở đây là giá thành hệ thống của công ty. Điều này được áp dụng tương tự đối với lĩnh vực nhiên liệu: xăng, dầu diesel và dầu hỏa được sản xuất trong quá trình lọc dầu. Các sản phẩm phụ tạo ra trong quá trình sản xuất này là những nhiên liệu thứ cấp được sử dụng trong quá trình sản xuất các chất bôi trơn, phân bón và nhựa. Khi không thể xử lý được nữa, các sản phẩm phụ này sẽ trở thành chất thải.
Các hệ thống phản hồi nội bộ giải thích tại sao các công ty năng lượng cũ lại không thể thích nghi với các nguồn thay thế bởi những nhà cung cấp khác, do các nguồn thay thế này cản trở sự vận hành của họ. Các công ty năng lượng là tù nhân của chính hệ thống của mình. Mặc dù vậy, họ thích trình bày vấn đề cụ thể của mình như một vấn đề chung chung, bằng cách tô son điểm phấn lý lẽ của họ là hợp lý về mặt kinh tế hoặc xã hội.
Các công ty năng lượng cũ nhìn nhận việc đưa năng lượng tái tạo ra thị trường từ sự cân nhắc cho chính họ, chứ không xuất phát từ sự cân nhắc cho lợi ích xã hội rộng lớn hơn. Do đó những động thái mà họ đưa ra nhằm tiến đến năng lượng tái tạo đều bị giới hạn và được thiết kế để không gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống đã được thiết lập. Vì thế, trong lúc này năng lượng tái tạo chỉ có thể đóng vai trò như một vỏ bọc hoặc là một sự bổ sung.
“Trường hợp xấu nhất” mang tính hệ thống đối với các công ty năng lượng cũ xảy ra khi bước đột phá về năng lượng tái tạo lại được tiến hành bởi một tổ chức thứ ba, một cách nhanh chóng và trên một mặt trận rộng lớn, với việc các công ty năng lượng cũ mất khả năng kiểm soát quá trình phát triển. Hậu quả là, họ bị ép buộc phải tích cực hoạt động trong lĩnh vực năng lượng tái tạo để không bị tụt hậu, mặc dù họ sẽ luôn ưu tiên cho những hướng tiếp cận cho thấy có thể hoà hợp với các hệ thống mà họ đã thiết lập trước đó.
(còn tiếp)
—
© 2014 copyright Verlag Antje Kunstmann GmbH
Permission granted for translating into Vietnamese and publishing solely on dotchuoinon.com for non-commercial purposes.
Bản quyền bản dịch: dotchuoinon.com
Em cảm ơn anh Hoành đã nói rất rõ về “tính khác biệt hệ thống” mà Hermann nói trong phần này. Bởi vì ông nói cho những người liên quan sâu sắc trong ngành năng lượng cho nên đôi khi mặc định là vấn đề mấu chốt về sự khác biệt đã được nắm rất rõ, ông đi sâu vào những diến biến chi tiết với văn phong phức tạp, ví dụ như phần này nói đến tư duy và cách làm của những nhà năng lượng truyền thống:
“Điều đó giải thích tại sao, xét thí dụ một công ty năng lượng vừa vận hành các nhà máy nhiệt điện đốt than, vừa hoạt động trong ngành công nghiệp mỏ (chẳng hạn để đảm bảo nguồn cung nhiên liệu cho chính nó) vừa góp vốn cho một mạng lưới truyền dẫn điện, lại lưỡng lự về năng lượng tái tạo, bởi lẽ năng lượng tái tạo cản trở hệ thống đã được thiết lập.
Tuy vậy, những công ty kiểu này vẫn đầu tư vào năng lượng tái tạo, khi đó họ thường thích đầu tư bên ngoài khuôn khổ của mình. Công ty điện E.ON của Đức đầu tư vào các dự án năng lượng gió ở Anh thay vì ở Đức để không cản trở những cơ sở khách hàng đã được thiết lập trước của họ. Động thái của công ty này là hệ quả logic của cả một hệ thống, và đã được sao chép bởi nhiều công ty khác.”
Với hoàn cảnh của Việt Nam, thì EVN lại không đầu tư ngoài ngành về năng lượng tái tạo mà đầu tư vào đủ thứ khác: bất động sản, mạng lưới viễn thông, ngân hàng… Nói chung là với hoàn cảnh của VN thì những điều Hermann Scheer nói ở đây cũng chỉ cho thấy rằng cuộc xung đột của các nước phát triển diễn ra như vậy vẫn còn rất êm dịu!
em H
LikeLike
Mình có cảm tưởng đoạn này Hermann trình bày khó hiểu.
Sụ khác biệt về hệ thống là năng lượng truyền thống là một hệ thống tập trung vĩ đại của các nhà máy phát điện và mạng lưới vận chuyền điện đi khắp nơi trong nước. Hệ thống này đã được thiết lập lâu đời, các tổn phí rất lớn đầu tiên đã xảy ra nhiều năm rồi, cho nên hệ thống có thể có giá thành thấp ngày nay.
Năng lượng tái tạo thì hầu như lắp đặt ở đâu, ngay cả hộ gia đình, thì cũng phải có các chi phí máy móc đầu tiên, và các chi phí đầu tiên này làm giá điện thành cao.
Các nhà sản xuất năng lượng hóa thạch truyền thống có lý là khi giá năng lượng tái tạo thành rẻ hơn năng lượng truyền thống thì cấu trúc của năng lượng truyền thống sẽ thay đổi (Nói giản dị là sập tiệm).
Và trong thời gian chờ đợi, thì các nhà sản xuất năng lượng hóa thạch truyền thống vẫn tiếp tục kinh doanh kiểu truyền thống vì còn có thể bán được hàng.
Sự khác biệt giữa hai hệ thống tập trung của năng lượng hóa thạch truyền thống và phi tập trung của năng lượng tái tạo tự nó có giá trị lớn trong chiến lược – hệ thống phi tập trung luôn sống còn trong mọi tình huống, hệ thống tập trung luộn có thể bị thiên tai hay chiến tranh làm sụp đổ ảnh hưởng đến cả triệu người cùng một lúc.
Còn việc chênh lệch giá cả unfair cần được giải quyết bằng một số phương thức chiến lược: Nhà nước muốn thúc đây năng lượng tái tạo, thì hỗ trợ người tiêu dùng bằng investment credits và chiết khấu nhanh (depreciation in very short time), hỗ trợ nhà đầu tư bằng giảm thuế, quick depreciation cho các đầu tư máy móc và nhà cửa, investment credits….
Nhưng “Nhà nước muốn thúc đẩy năng lượng tái tạo” là một “Nếu” lớn, vì chính sách năng lượng thường là do energy monopoly thúc đẩy.
Đương nhiên là một điều có thể làm cho dụng cụ, và do đó giá cả của NLTT giảm xuống là một breakthrough in technology, như các pin dự trử điện có thể dự trử nhiều mà giá lại rẻ, hoặc các solar panels đạt được giá thành thấp hơn giá hiện tại rất nhiều.
LikeLike