Mệnh Lệnh Năng Lượng Bắt Buộc – CHƯƠNG 1 (PHẦN 7)

Người dịch: Nguyễn Quỳnh Anh
Biên tập: Phạm Thu Hường

MỆNH LỆNH NĂNG LƯỢNG BẮT BUỘC:
100% TÁI TẠO NGAY BÂY GIỜ

CHƯƠNG 1: Không Có Lựa Chọn Nào Khác Ngoài Năng Lượng Tái Tạo (Phần 7)

1C. Những kịch bản sử dụng 100% năng lượng tái tạo:
Từ khả năng kỹ thuật đến chiến lược (tiếp theo phần trước)

Ngoài ra, còn có sự tăng lên về số lượng của các kịch bản 100% tập trung vào cấp độ thị trấn và quận huyện vùng sâu vùng xa. Cuốn sách 100% Năng lượng tái tạo của Peter Droege đã đưa ra một cái nhìn tổng quan khá tốt, đồng thời làm rõ các khái niệm này bằng cách áp dụng với những thành phố lớn như Munich, hay những  thành phố mới như Madas ở tiểu vương quốc Abu Dhabi.16 BAUM, nhóm công tác của Đức về sự quản lý tính thân thiện với môi trường, cũng đã xuất bản 1 cuốn sách về những kịch bản 100% nghiên cứu các sáng kiến cấp khu vực.17

Tất cả những ví dụ này cho thấy rõ rằng kịch bản được mô tả là có thể áp dụng cho đơn vị cá nhân, và thậm chí là một hoặc nhiều quốc gia công nghiệp hóa tầm cao, về nguyên tắc là có khả năng áp dụng ở khắp mọi nơi, mặc dù có sự khác nhau về nội dung và sự nhất quán. Điều này càng có khả năng áp dụng rộng rãi hơn khi xem xét kỹ rằng, không có một kịch bản hay ý tưởng thực tiễn nào đã tận dụng được hết tiềm năng hiện tại và tiềm năng tối đa của rất nhiều giải pháp và lựa chọn cung cấp bởi năng lượng tái tạo. Để có thể tận dụng được hết những tiềm năng và các lựa chọn này cần phải tính toán phức tạp hơn rất nhiều.

Năm 2009, một kịch bản 100% toàn cầu được công bố trong tạp chí Khoa học Mỹ – Scientific American bởi Mark Z. Jacobson ở Đại học Stanford và Mark A. Delucchi ở Đại học California. Với tiêu đề Lên kế hoạch cho một Tương lai Bền vững, bài viết trình bày một kịch bản về sự chuyển đổi hoàn toàn sang năng lượng tái tạo vào năm 2030.18 Việc này đòi hỏi khoảng 3.8 triệu nhà máy điện gió với công suất 5 MW mỗi nhà máy, 490 000 nhà máy điện thủy triều công suất 1 MW, 5350 nhà máy điện địa nhiệt công suất 100 MW, 900 nhà máy thủy điện lớn công suất 1300 MW (trong đó có 70% đã tồn tại sẵn), 720 000 nhà máy điện sóng biển công suất 0.75 MW cùng 1.7 tỷ hệ thống quang điện lắp đặt trên mái nhà với công suất 3 kW và 49 000 nhà máy nhiệt điện Mặt Trời công suất 300 MW.

Tổng năng lượng cần cho toàn cầu vào năm 2030 được dự đoán khoảng 16.7 TW nếu được sản xuất bằng năng lượng truyền thống, nhưng chỉ khoảng 11.5 TW nếu được sản xuất bằng năng lượng tái tạo, vì năng lượng tái tạo được đánh giá có hiệu suất cao hơn đáng kể, ví dụ như tiết kiệm năng lượng khi sử dụng xe điện.

Giá thành trên mỗi kWh điện được tạo ra bằng năng lượng tái tạo sẽ rẻ hơn điện được tạo ra bằng năng lượng hóa thạch hay năng lượng hạt nhân. Jacobson và Delucchi không đề cập đến việc sử dụng năng lượng sinh học trong kịch bản của họ, do sự lo ngại về tác động sinh thái của loại năng lượng này đối với hệ thống nông nghiệp và khí thải được tạo ra. Họ đề nghị việc áp dụng chính sách ưu đãi giá cho năng lượng tái tạo như một công cụ chính trị để thúc đẩy việc triển khai kịch bản này, nhất là khi chính sách này đang được áp dụng triệt để ở Đức và hơn 50 quốc gia khác vào thời điểm này.

Tuyên bố quan trọng được đưa ra trong kịch bản toàn cầu này là vốn đầu tư cần thiết sẽ ở mức 100 tỷ đô la. Tổng số tiền này được so sánh với chi phí hàng năm toàn cầu tiêu tốn vào nhiên liệu và điện, ước tính khoảng 5.5 – 7.75 tỷ đô la trong năm 2009. Điều này có nghĩa là chuyển đổi sang năng lượng tái tạo là một giải pháp kinh tế hơn, kể cả khi chỉ xét riêng chi phí trực tiếp của sản xuất năng lượng truyền thống mà đã bỏ qua không xét đến các chi phí ngoài dành cho thiệt hại về khí hậu, môi trường, sức khỏe.

Nghiên cứu của tổ chức Hòa bình Xanh, sự tiến hóa (cách mạng) năng lượng – energy (r)evolution, được công bố tháng 6 năm 2010 cũng đưa ra kết luận tương tự.19 Nghiên cứu này dự đoán tổng nhu cầu năng lượng hàng năm toàn cầu vào năm 2050 là 13.2 TW, trong đó 94.6% sẽ được tổng hợp bằng năng lượng tái tạo. Năng lượng gió sẽ đóng vai trò chính, chiếm 24.7%, tiếp đến là năng lượng nhiệt điện Mặt Trời chiếm 20.5%, điện từ năng lượng quang điện chiếm 15.6%, năng lượng từ nước 11.6%, năng lượng địa nhiệt 9.7%, năng lượng sinh học 8.1% và năng lượng biển 4.4%. Tổ chức Hòa bình Xanh cũng đề nghị việc áp dụng luật ưu đãi giá cho điện từ năng lượng tái tạo (feed-in laws), ứng dụng tính linh động của mua bán mức phát thải và ngừng trợ cấp cho năng lượng hóa thạch và năng lượng hạt nhân.

Không một kịch bản nào trong những kịch bản trên nên được hiểu theo nghĩa đen, như thể chúng sẽ hay có thể được thực hiện theo cơ sở tỷ lệ 1:1 đúng y như vậy. Việc dự báo tỷ lệ phần trăm chính xác, đến mức một phần nghìn, cho một giai đoạn kéo dài nhiều thập kỷ trong tương lai, là không thể và cũng không cần thiết. Không ai có thể đoán trước được chi phí và hẳn nhiên là giá cả sẽ ra sao đối với từng kỹ thuật sau khoảng thời gian dài như vậy, vì không thể đoán được mức độ năng suất và tiến bộ kỹ thuật và, trên hết là những người tham gia tiềm năng cùng động cơ của họ.

Không ai có thể đánh giá được động cơ của nhà đầu tư chỉ đơn thuần dựa trên các điều kiện kỹ thuật hay lợi nhuận. Và cũng không ai có thể đoán được sự phát triển chính trị sẽ tạo điều kiện hay gây cản trở cho quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo, hay đưa quá trình này theo hướng phi tập trung hay tập trung hóa. Các kịch bản cũng thất bại trong việc chỉ ra cách có thể vượt qua những chướng ngại và tránh khỏi những xung đột giữa các quá trình hành động. Nói cách khác, các kịch bản không thay thế cho việc thiết lập các mục tiêu chính trị và tham gia vào các hành động tương ứng. Điều hiển nhiên là, vai trò của mỗi dạng năng lượng tái tạo sẽ khác với những gì được dự đoán trong kịch bản.

Tương tự, không phải tất cả các nhà máy đều có thể đạt đến công suất được đề ra trong mỗi kịch bản, bởi những lý do về sự đơn giản hóa và sai số của sự dự đoán. Vì vậy, tất cả những lựa chọn phương án kỹ thuật vẫn không được bàn đến trong những kịch bản quy mô lớn này. Tuy nhiên, quan trọng hơn cả, tất cả những kịch bản này dù trên quy mô một quốc gia, trên toàn Châu Âu hay trên quy mô toàn cầu, đều bỏ qua những khả năng của vô số hệ thống quy mô nhỏ (dù là sản xuất năng lượng điện Mặt Trời, điện gió, sử dụng năng lượng địa nhiệt hay sự kết hợp giữa sản xuất điện, nhiệt và điện lạnh) cũng như những tiềm năng mà tiêu biểu là các phương pháp tích hợp thu năng lượng từ các tòa nhà và các thiết bị và rất nhiều phương pháp dự trữ năng lượng đa dạng.

Nhưng chính các hệ thống quy mô nhỏ này, do bản chất tự nhiên độc lập, nên chúng có thể được triển khai nhanh nhất và rộng rãi nhất, vì vậy chúng đại diện cho phương diện văn hóa của sự chuyển đổi năng lượng. Do đó thật đáng ngạc nhiên khi hầu hết những kịch bản được đưa ra gần đây tập trung vào cấp độ quốc gia vẫn đưa ra giả định về một mạng lưới cung cấp sâu rộng trên toàn cầu (ngoại trừ mạng lưới tự chủ năng lượng địa phương và khu vực được đưa ra bởi Cơ quan Môi trường Liên bang Đức và một trong ba phương án do Hội đồng tư vấn Môi trường Đức -SRU đề xuất). Đối lập với những kịch bản với mạng lưới quy mô lớn này, những kế hoạch và sáng kiến 100% năng lượng tái tạo cấp thành phố và khu vực đã và đang được tích cực triển khai.

(còn tiếp)

Tham khảo:

16 Peter Droege (ed.) 100% Renewable Energy, Energy Autonomy in Action (London 2009)

17 Michael Stohr et al., Auf dem Weg zur 100%-Region. Handbuch fur eine nachhaltige Energieversorgung in Regionen (Munich 2006)

18 Mark Z. Jacobson and Mark A. Delucchi, ‘A Plan for a Sustainable Future: How to get all energy from wind, water and solar power by 2030, Scientific American (November 2009)

19 Greenpeace, energy (r)evolution: A Sustainable World Energy Outlook (2010)

© 2014 copyright Verlag Antje Kunstmann GmbH

Permission granted for translating into Vietnamese and publishing solely on dotchuoinon.com for non-commercial purposes.

Bản quyền bản dịch:  dotchuoinon.com

Leave a comment