Nguyễn Cung Thông
nguyencungthong@yahoo.com
Nếu chúng ta chỉ nghe đọc hay viết các chữ đẹp hay mỹ (mỹ nhân – người đẹp, mỹ cảnh – cảnh đẹp) theo mẫu tự La Tinh thì không thấy vết tích hay nhận ra phái nữ hay phái nam; tuy nhiên khi viết chữ Hán liên hệ ra thì tình hình lại khác hẳn: các chữ Hán trên ngàn năm nay đã mang trong đó một thành kiến xem thường phái nữ (thành kiến hoá thạch – fossilised prejudice). Tiếng Việt có tiếng cái, một dạng chữ Nôm dùng cái 丐 cho gái và cái, chỉ giống cái và sự lớn hơn hết (đường cái). Khuynh hướng chỉ vật thể lớn nhất (cửa cái, ngón cái) trong tiếng Việt cùng với phái nữ (con dại cái mang, cọp cái) rất khác với khuynh hướng chỉ sự đẹp trong tiếng Hán dựa vào bộ nữ 女 . Ít người biết rằng các từ như nô (lệ), tham lam, ganh ghét, tham ăn, đố kỵ, hiềm nghi, dâm (dật), gian (tà), giận dữ, dấu (diếm), lười (biếng), nịnh (hót), cẩu thả, trộm cắp, bất tài … đã từng được ‘liên kết’ đến phụ nữ qua các chữ Hán truyền thống. Bài viết này sẽ đưa ra một số dữ kiện ngôn ngữ cho thấy ‘thiên kiến’ về phái nữ đã hoá thạch trong tiếng Hán. Giọng Bắc Kinh/BK sẽ được ghi bằng hệ thống pinyin thông dụng hiện nay, không nên lầm số ghi thanh điệu với số ghi phụ chú – như số 1 – đặt sau một âm hay chữ như jian1/ jiān so với ngày1 . Vấn đề kỳ thị giới tính thật ra không đơn giản: một trường hợp đáng ghi nhận ở đây là bà Hillary Rodham (một luật sư tranh đấu cho nữ quyền), sau khi lấy Bill Clinton (cựu Tổng Thống Mỹ thứ 42, 1993-2001) không theo truyền thống đổi tên thành Hillary Rodham Clinton và sau đó cũng trở thành Hillary Clinton (đương kim Ngoại Trưởng Mỹ/2012).
Đọc tiếp tại đây >>