Tân Nhạc VN – Thơ Phổ Nhạc – “Mộng Dưới Hoa” – Đinh Hùng & Phạm Đình Chương

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn thi khúc “Mộng Dưới Hoa” (“Tự Tình Dưới Hoa”) của Thi sĩ Đinh HùngNhạc sĩ Phạm Đình Chương.

Thi sĩ Đinh Hùng (1920-1967) là một nhà thơ tình nổi tiếng thời tiền chiến. Ngoài việc ký tên thật Đinh Hùng, ông còn dùng bút hiệu Thần Đăng khi làm thơ châm biếm và Hoài Điệp Thứ Lang khi viết tiểu thuyết.

Ông sinh ngày 3 tháng 7 năm 1920 tại làng Phượng Dực tỉnh Hà Đông (nay thuộc Thủ đô Hà Nội), là con út của cụ Hàn Phụng. Thuở nhỏ ông theo học bậc tiểu học tại trường Sinh Từ, rồi bậc trung học tại trường Bưởi (Hà Nội).

Sau khi đậu “cao đẳng tiểu học” hạng bình thứ và được học bổng theo ban chuyên khoa để thi tú tài bản xứ thì “thần Ái tình đã hiện đến cùng một lúc với sự thành công đầy hứa hẹn trên” (theo lời kể của ông Vũ Hoàng Chương), khiến ông bỏ ngang đi viết văn, làm thơ.

Thi sĩ Đinh Hùng.
Thi sĩ Đinh Hùng.

Năm 1943, ông theo sống với chị là bà Thục Oanh. Cũng năm này, ông cho xuất bản tập văn xuôi “Đám Ma Tôi” và đăng thơ trên Hà Nội Tân Văn của Vũ Ngọc Phan, Giai Phẩm Đời Nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn… Nhưng ông thật sự bắt đầu nổi tiếng với bài thơ “Kỳ Nữ” mà Thế Lữ chọn in trong truyện “Trại Bồ Tùng Linh”.

Năm 1944, ông Vũ Hoàng Chương cưới bà Thục Oanh rồi về Nam Định, thi sĩ Đinh Hùng ở lại Hà Nội và cho ra đời giai phẩm “Dạ Đài”, với sự cộng tác của một số bạn như Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch,…Cũng trong năm này, Đinh Hùng tản cư theo báo Cứu Quốc. Sau đó, ông về Thái Bình dạy học cùng người vợ mới cưới, Nguyễn Thị Thanh. Khi ấy, ông Vũ Hoàng Chương và vợ cũng đang tản cư về ở nơi đó.

Năm 1949, ông cùng vợ con trở lại Hà Nội. Tại đây ông cho ấn hành giai phẩm “Kinh Đô Văn Nghệ” (1952) và tập thơ “Mê Hồn Ca” (1954).

Tháng 8 năm 1954, ông cùng vợ con vào Sài Gòn, lập ra tờ nhật báo “Tự Do”, có sự cộng tác của Tam Lang, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong,…

dinhhung_Tập thơ Mê Hồn Ca

dinhhung2

Năm 1955, nhật báo trên đình bản, ông cộng tác với Đài Phát Thanh Sài Gòn, giữ mục Tao Đàn, chuyên về thơ ca, cho đến hết đời.

Trong những năm tháng ở Sài Gòn, Đinh Hùng viết tiểu thuyết dã sử “Cô Gái Gò Ôn Khâu”, “Người Đao Phủ Thành Đại La” và làm thơ trào phúng trên báo Tự Do, báo Ngôn Luận.

Năm 1961, ông cho in tập “Đường Vào Tình Sử” – tác phẩm này được trao giải thưởng Văn Chương Thi Ca năm 1962.

Năm 1962, ông cho ra tuần báo Tao Đàn Thi Nhân, nhưng mới phát hành được 2 số thì ông mất lúc 5 giờ sáng ngày 24 tháng 8 năm 1967 tại bệnh viện Bình Dân, Sài Gòn, vì bệnh ung thư gan.

Sau khi ông mất, nhà xuất bản Giao Điểm cho phát hành tác phẩm “Ngày Đó Có Em” vào ngày 16 tháng 10 năm 1967.

Ngoài những tác phẩm vừa kể trên, Đinh Hùng còn có 8 tác phẩm chưa xuất bản: “Tiếng Ca Bộ Lạc” (thơ), “Tiếng Ca Đầu Súng” (hồi ký), “Dạ Lan Hương” (văn xuôi), “Sử Giả” (tùy bút), “Vần Điệu Giao Tình” (cảo luận) và 3 kịch thơ: “Lạc Lối Trần Gian”, “Phan Thanh Giản”, “Cánh Tay Hào Kiệt”.

dinhhung6

Thi phẩm “Tự Tình Dưới Hoa” (Thi sĩ Đinh Hùng)

Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng:
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng,
Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại,
Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng

Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay,
Ôi mộng nào hơn giấc mộng nàỷ
Mùi phấn em thơm mùi hạ cũ,
Nửa như hoài vọng, nửa như say

Em đến như mây, chẳng đợi kỳ
Thương hàng gió núi động hàng mi
Tâm tư khép mở đôi tà áo,
Hò hẹn lâu rồi — Em nói đi

Em muốn đôi ta mộng chốn nào
Ước nguyền đã có gác trăng sao
Chuyện tâm tình: dưới hoa thiên lý,
Còn lối bâng khuâng: ngõ trúc đào

Em chẳng tìm đâu cũng sẵn thơ,
Nắng trong hoa, với gió ven hồ
Dành riêng em đấy. Khi tình tự,
Ta sẽ đi về những cảnh xưa

Rồi buổi u sầu, em với tôi
Nhìn nhau cũng đủ lãng quên đời
Vai kề một mái thơ phong nguyệt,
Hạnh phúc xa xa mỉm miệng cười

dinhhung_Mộng Dưới Hoa

dinhhung_Mộng Dưới Hoa1

dinhhung_Mộng Dưới Hoa2

Thi khúc “Mộng Dưới Hoa” (Nhạc sĩ Phạm Đình Chương)

(Lời 1):

Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại
Âu yếm nhìn tôi không nói năng

Ta gặp nhau yêu chẳng hạn kỳ
Mây ngàn gió núi đọng trên mi
Áo bay mở khép nghìn tâm sự
Hò hẹn lâu rồi em nói đi

Nếu bước chân ngàn có mỏi
Xin em dựa sát lòng anh
Ta đi vào tận rừng xanh
Vớt cánh rong vàng bên suối

Ôi hoa kề vai, hương ngát mái đầu
Đêm nào nghe bước mộng trôi mau
Gió ơi gởi gió lời tâm niệm.
Và nguyện muôn chiều ta có nhau.

(Lời 2):

Tôi cùng em, mơ những chốn nào
Ước nguyện chung giấc mộng trăng sao
Sánh vai một mái lầu phong nguyệt
Hoa bướm vì em nghiêng cánh chao

Hy vọng thơm như má chớm đào
Anh chờ em tới hẹn chiêm bao
Dưới hoa tưởng thấy ngàn sao rụng
Hoa lệ ân tình môi khát khao

Bước khẽ cho lòng nói nhỏ
Bao nhiêu mộng ước phù du
Ta say thành mộng nghìn thu
Núi biếc sông dài ghi nhớ

Ôi chưa gặp nhau như đã ước thề
Mây hồng giăng tám ngã sơn khê
Bóng hoa ngả xuống bàn tay mộng
Và mộng em cười như giấc mê.

Bên dưới mình có các bài:

– Đinh Hùng, người làm thơ tình kiệt xuất
– NHẠC SĨ PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG

Cùng với 10 clips tổng hợp thi khúc “Mộng Dưới Hoa” do các nghệ sĩ xưa và nay diễn xướng để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.

Mời các bạn.

Túy Phượng

(Theo Wikipedia)

dinhhung3

Đinh Hùng, người làm thơ tình kiệt xuất

(Hữu Đạt)

“Ngát một vườn thơm nhạc cảm hoài
Lâng lâng hồn tưởng thoát trần ai.
Chia đôi thân xác tiên liền tục,
Nghe lắng tiền thân trở gót hài”

Như đáp lại lòng mong mỏi của khách yêu thơ, trong quý II năm 1995, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn (Hà Nội) đã cho tái bản tập thơ MÊ HỒN CA của thi sĩ Đinh Hùng. Việc làm ấy, lại một lần nữa, xác nhận thi tài của nhà thơ này. Thi phẩm Mê Hồn Ca được Nhà Xuất Bản Tiếng Phương Đông Hà Nội in lần đầu năm 1954, nhà sách Khai Trí Sài Gòn tái bản năm 1970 và lần này là lần in thứ ba. Tập thơ đầu tay này của Đinh Hùng đã từng gây xôn xao một thời trong thi giới không chỉ vì tài hoa của tác giả mà còn vì những nét lạ lùng kỳ bí trong thơ.

Tháng 7 năm 1995, Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội lại cho tái bản tập thơ ĐƯỜNG VÀO TÌNH SỬ của Đinh Hùng. Hai Nhà xuất bản của Nhà nước vào loại lớn nhất nước này đã tái bản thơ Đinh Hùng cho thấy thơ anh giá trị nhường nào.

Trên đây là bốn câu thơ tuyệt mệnh mà Đinh Hùng đã viết tại Trà Hoa trang Gia Định cuối mùa hạ năm 1967, không lâu trước ngày anh đi vào cõi vĩnh hằng.

Đinh Hùng là con trai của cụ Hàn Phụng, một gia đình trung lưu ở làng Phượng Dực, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội), nhưng từ lâu đã ra lập nghiệp tại Hà Nội. Đinh Hùng được hoài thai năm 1919 tại Philippines nhưng lại ra đời ở Việt Nam ngày 3 tháng 7 năm 1920 tại trại Trung Phụng gần tòa Khâm Thiên giám cũ ở Hà Nội. Đinh Hùng là con út của một gia đình gồm sáu anh chị em: anh cả là Đinh Lân, các chị là Loan, Yến, Hồng, Oanh. Chị Đinh Thục Oanh chỉ lớn hơn Đinh Hùng một tuổi, kết duyên cùng thi sĩ Vũ Hoàng Chương.. Mới hơn mười tuổi, Đinh Hùng phải chịu liên tiếp ba cái tang: năm 1931 người chị thứ ba là Tuyết Hồng, một nữ lưu tân tiến, hoa khôi của Hà Nội, mới mười tám tuổi xuân đã tự vẫn tại hồ Trúc Bạch vì hờn giận tình duyên. Mấy tháng sau, thân phụ anh đau nặng rối thất lộc, tuổi chưa đến 50. Ba năm sau nữa đến lượt người chị lớn nhất, tên Loan, cũng qua đời, tuy đã lập gia đình nhưng hãy còn trẻ lắm. Những cái tang buổi thiếu thời ấy đã ảnh hưởng rất nhiều đến tâm tính của Đinh Hùng nên thơ anh thường đượm vẻ ảm đạm bi thương đến tê tái cả tâm hồn.

Thuở bé Đinh Hùng học trường Tiểu học Sinh Từ, rồi trường Trung học Bảo Hộ tức trường Bưởi, đậu bằng Cao đẳng Tiểu học hạng Bình thứ nên được cấp học bổng để theo học ban chuyên khoa. Nhưng một ngày đẹp trời kia ái tình bỗng nhiên chợt đến:

Có chàng mang lòng thương
Đi dạo muôn con đường.
Một hôm dừng trước mộng,
Yêu nàng tên Tần Hương.

(Tần Hương – Đường vào tình sử)

Người đẹp ấy tên là Kiều Hương, nhưng Đinh Hùng sợ gây rắc rối cho nàng khi đi lấy chồng nên sửa lại là Tần Hương. Mối tình ấy của Đinh Hùng tuy là mối tình đầu nhưng không sâu sắc lắm và chỉ là tình đơn phương nên khi nàng đi lấy chồng, Đinh Hùng cũng không buồn lắm:

Ngày em mới bước chân ra,
Tuy rằng cách mặt, lòng ta chưa sầu.

(Bài hát mùa thu – ĐVTS)

Nhưng dù sao thì đó cũng là kỷ niệm buổi đầu đời nên không dễ gì dứt được mối tơ vương:

Tần Hương ơi Tần Hương,
Tên nàng như hoa đẹp.
Chàng là bướm tơ vương,
Nên chàng là Hồ Điệp.

(Tần Hương – ĐVTS)

Do đó về sau, khi viết tiểu thuyết, Đinh Hùng ký bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang.

Mối tình thứ hai mới thực sự mãnh liệt và ghi dấu ấn suốt đời trong tâm khảm nhà thơ. Nàng là một cô bé họ xa, tên Bích Liên, thỉnh thoảng đến chơi trại Trung Phụng của ông bà Hàn nên Đinh Hùng có dịp quen thân. Thuở ấy nàng còn bé nhưng xinh đẹp tuyệt vời:

Độ em còn trèo cây khế,
Vin hái quả xanh bên tường.
Có phải chúng mình còn bé
Cho nên đời rất thơm hương?

(Tiếc bướm hay Linh hồn Hoài Điệp – ĐVTS)

Vì tên nàng là Liên nên Đinh Hùng viết:

Người đẹp ngày xưa tên giống hoa,
Mùa xuân cây cỏ biếc quanh nhà.
Thùy hương phảng phất sen đầu hạ,
Lén bước trang đài tới gặp ta.

(Liên tưởng – ĐVTS)

Hai người mỗi ngày một lớn, tình yêu cũng cùng với tháng năm mà lớn dần theo, cô bé càng ngày càng đẹp, trên môi luôn nở đóa hồng và cả một trời thu hiện lên trong mắt:

Nắng vàng năm xưa đã tắt,
Cô bé ngày xưa lớn rồi.
Hoa hồng vừa nở trên môi,
Và một trời thu trong mắt.

(Tiếc bướm – ĐVTS)

Hai người yêu nhau tha thiết nhưng mối tình hoàn toàn trong trắng. Không may nàng Liên bị bệnh phổi nặng, sắc đẹp ngày càng kỳ ảo và huyền hoặc khiến Đinh Hùng say sưa ngây ngất, trong khi đó thì sức khỏe của nàng hao mòn nhanh chóng rồi từ trần khoảng năm 1940. Đó là cái chết thứ tư của người thân yêu mà Đinh Hùng chứng kiến trong khoảng thời gian chưa tới mười năm. Mất Liên, Đinh Hùng đau đớn như điên như dại:

Qua xứ ma sầu, ta mất trí,
Thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền.
Trời ơi ! Trời ơi ! Làn tử khí,
Lạc lõng hương thầm đóa Bạch Liên.

(Cầu hồn – Mê Hồn Ca)

Từ đó Đinh Hùng viết những bài thơ “Chiêu niệm”, tên Liên được thay thế bằng những tên khác, nào Diệu Hương, Diệu Thư, nào Ý Liên, Bạch Liên, Diệu Liên, nào Em Buồn, Em Đau Thương, Sầu Hoài Thương Nữ, nào Thần Nữ, Kỳ Nữ vân vân… nhưng thực ra cũng chỉ có một nàng Bích Liên mà thôi (1). Trong bài thơ “Kỳ Nữ” có những câu tuyệt hay:

Thấy cả bóng một vầng đông thuở trước,
Cả con đường sao mọc lúc ta đi.
Cả chiều sương mây phủ lối ta về,
Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ.

(Mê hồn ca)

Nàng Liên chết, Đinh Hùng bỏ trường mà đi, sống lang bạt kỳ hồ, khi thì dạy học ở Hà Đông, lúc thì gia nhập một ban nhạc tài tử của sinh viên lên trình diễn tại hồ Ba Bể miền Bắc Cạn. Đi đâu Hùng cũng mang theo tấm ảnh của nàng Liên. Trong một lá thư gửi Huyền Kiêu, Đinh Hùng viết: “Đó là di vật cuối cùng của Liên, sự được nhìn thấy duy nhất còn lại của người nằm dưới mộ. Liên mất rồi nhưng tôi không chịu tin như vậy. Không. Nghìn lần không. Cái chết của hoa và ánh sáng, ngày và mặt trời, nơi tôi là vĩnh viễn hoài nghi và phủ nhận. Bởi tôi vẫn ghen tuông ghê gớm như khi nàng còn sống. Tấm hình đặt trên mặt bàn dạy học, tôi úp sấp tấm hình xuống cho ngoài tôi, không một kẻ thứ hai nào được nhìn thấy mặt trời…”.

Bích Liên mất, nhưng hình ảnh của Liên, giọng nói của Liên mãi mãi còn âm vang trong tâm hồn nhà thơ, không phút giây nào quên lãng:

Chao ôi ! Mỗi cánh sương run rẩy
Nghe cũng âm vang giọng nói người.

Và xác thân anh tuy còn đó nhưng kể như đã chết rồi:

Và xác thân anh giữa cuộc đời
Tiêu ma vào thạch động làn môi.
Vì trong cấm địa hàm răng ấy
Huyệt lạnh kề bên mỗi nụ cười.

(Trái tim Hồng Ngọc – Nguyệt san Vạn Hạnh số 13 năm 1966)

Cũng như các bạn trẻ khác, Đinh Hùng đã có một thời niên thiếu thật đẹp “làm học trò mắt sáng với môi tươi”, nhưng cậu học trò họ Đinh ấy đi học mà “hồn lơ đãng mộng ra ngoài cửa lớp”, rồi cũng “đã từng phen trèo cổng bỏ trường về” để đi đến những nơi chốn đầy kỷ niệm mà sau này khó lòng quên được:

Riêng ta nhớ những trưa hè sắc đỏ,
Đường hoàng lan nắng động: lối đi quen.
Nghìn bóng cây chen bóng mộng hư huyền,
Ta đến đó lần đầu nghe rạo rực.

(Khi mới lớn – ĐVTS)

Rồi chiến cuộc xảy ra, mọi người bị cuốn hút vào đó, cả nhà thơ họ Đinh cũng vậy. Cuối năm 1946, Đinh Hùng lại rời Hà Nội, rồi khi Cống Thần, khi Chợ Đại, Hà Nam, lúc viết cho tờ báo này, lúc vẽ cho tờ báo khác. Trong thời gian này, Đinh Hùng làm bài thơ “Người nữ du kích Hải Kiến” trong đó có mấy câu khá hay:

Lòng gái rung theo bước lữ đoàn,
Lâu rồi chinh chiến lạnh dung nhan.
Chiêu dương bừng lửa trên gò má,
Gợn sắc hồng pha mây hợp tan.

Ai đã gặp Đinh Hùng một lần thì khó lòng quên được. Thân hình mảnh mai, nước da xanh như tàu lá, đôi chân ngắn, bàn tay đẹp như bàn tay con gái với những đường gân như suốt đời mệt mỏi. Ngón tay dài, mềm mại và thon thon, rất đẹp khi “vân vê” điếu thuốc lào hay khi lướt nhẹ trên chiếc vĩ cầm. Đôi mắt mơ hồ và huyền hoặc dường như luôn luôn in bóng một trời thơ diệu kỳ và mộng ảo. Giọng nói Đinh Hùng rất đặc biệt, nó “vang vang mà nhừa nhựa, nửa như thoát lên cao cùng mây, nửa như la đà cùng khói” (Hoàng Hương Trang). Ngay lúc nằm trên giường bệnh, giọng nói ấy cũng vẫn còn nồng nàn nỗi yêu đời và niềm lưu luyến tình người.

Bên ngoài, Đinh Hùng bao giờ cũng chải chuốt và trang trọng: tứ thời bát tiết lúc nào cũng complet – cravate cho dù nóng chảy mỡ, đầu chải láng, miệng ngậm pipe, đôi vai nghiêng bởi chiếc cặp dày và nặng trĩu. Gặp bạn thơ thì mừng rỡ, chèo kéo bắt uống cho bằng được một vài ly để rồi say sưa nói về Aragon, Eluard, Baudelaire, Rimbaud, Edgar Poe (2) hoặc về chuyện văn thơ không dứt.

Mặc Đỗ cho rằng “Đinh Hùng là con người tài hoa. Từ vóc dáng, nét bút tới giọng nói, từ tuổi nhỏ cho đến ngày lìa đời, Đinh Hùng không ngớt biểu lộ tư chất tài hoa”. Thật vậy, Đinh Hùng không chỉ làm thơ, viết tiểu thuyết, viết kịch (3), làm báo mà còn soạn nhạc, chơi đàn và vẽ nữa. Anh chơi đàn mandoline và kéo violon rất điệu nghệ, đã từng tham gia trong các ban nhạc và đàn cho các phòng trà. Về họa, anh đã tự tay vẽ tranh bìa cho hai tập thơ của mình (Mê Hồn Ca, Đường Vào Tình Sử) và vẽ tranh làm nền cho các trang thơ Mê Hồn Ca.

Tạ Tỵ gợi lại một vài kỷ niệm: “Có những đêm đông Hà Nội tôi đến thăm Hùng tại căn nhà cổ nằm sâu trong ngõ hẹp ở cửa ô Cầu Rền, chẳng cách xa phường Dạ Lạc là bao. Ở tuổi hoa niên, tôi quen nhiều bạn biết uống rượu, nhưng tôi chưa thấy ai uống hào bằng Đinh Hùng và Văn Cao. Riêng Hùng có thể uống hai lít đế không cần đồ nhắm, vì thế Hùng mới có gan đối ẩm với Tản Đà hàng nửa ngày trời” (4). Và cũng vì thế mà bạn bè không ai cảm thấy bất ngờ khi hay tin Hùng bị ung thư gan ở tuổi 48.

Đinh Hùng làm thơ rất sớm, từ ngày còn đi học và có một hồn thơ kỳ ảo. Năm 34 tuổi đã in Mê Hồn Ca (NXB Tiếng Phương Đông Hà Nội 1954) và bảy năm sau đó (1961) in Đường Vào Tình Sử (Nam Chi Tùng Thư Sài Gòn xuất bản).

Thi phẩm Mê Hồn Ca gồm bốn phần, không kể phần ngoại tập và một bài tựa ký Nhà Xuất Bản, nhưng sau này Đinh Hùng chua thêm: Hồ Dzếnh. Thì ra chính Hồ Dzếnh viết bài tựa này. Bốn phần ấy là: Nguyên Thủy, Thần Tượng, Chiêu Niệm và Mê Hồn. Phần Ngoại Tập gồm bài thơ trường thiên “Thần tụng” và hai bài khác: Truyện lòng và Bài hát mùa thu, ghi là trong tập thơ “Tuổi mộng”. Hai bài này về sau in lại trong tập Đường Vào Tình Sử.

Đường Vào Tình Sử hoàn toàn là một tập thơ tình gồm 60 bài và lá thư văn nghệ của Đoàn Thêm thay cho lời đề từ. Đây là tập thơ tình tuyệt hay mà lời lời ý ý là những hàng châu ngọc:

Ôi cặp mắt sáng trăng xưa hò hẹn,
Có nghìn năm quá khứ tiễn nhau đi.

(Đường vào tình sử)

Ở vùng đồng chiêm ngoài Bắc, vào mùa nước lớn ngập cả cánh đồng, mọi người phải đi lại bằng thuyền, ban đêm đèn trên thuyền bập bềnh trôi trên sóng nước khiến Đinh Hùng nhớ đến đôi mắt người yêu. Tưởng tượng thật phong phú và ý thơ bay bướm vô cùng:

Giấc mộng đêm nào cũng gió mưa,
Gối chăn như hải đảo vô bờ.
Sóng dâng bốn vách sầu nghiêng bóng
Thoáng ngọn đèn trôi ánh mắt xưa.

(Sóng nước đồng chiêm – ĐVTS)

Nghĩ đến một ngày kia người yêu sẽ đi lấy chồng, Đinh Hùng viết:

Nghe động bàn chân nắng tỏa hương,
Mong manh từng gợn phấn còn vương.
Em đi, nửa gối hoa tàn mộng,
Thương nhớ bay cùng mây viễn phương.

(Bao giờ em lấy chồng? – ĐVTS)

Các bạn thơ đã từng tranh cãi về giá trị của hai tập thơ này. Trong khi Trần Tuấn Kiệt chọn Đường Vào tình Sử thì Trần Phong Giao lại chọn Mê Hồn Ca. Trần Tuấn Kiệt nói: “Mê Hồn Ca tuy đặc biệt nhưng thua xa tiếng thơ của tập Đường Vào Tình Sử”. Còn Trần Phong Giao thì nói: “Ai cũng bảo Mê Hồn Ca là tuyệt tác, chỉ có mình cậu là khác”. Rồi Trần Phong Giao khẳng định: “Trong tất cả những tác phẩm đã và sẽ in của Đinh Hùng, gặp trường hợp chỉ được quyền cất giữ một cuốn thì tôi sẽ không ngần ngại gì trong việc chọn lựa Mê Hồn Ca. Vì đó là tất cả vũ trụ thơ anh. Vì đó là tất cả anh” (5).

Nhận định về thi phẩm Mê Hồn Ca, nhà nghiên cứu Phạm Việt Tuyền cho rằng “thi phẩm này thuộc loại thơ nói ít hiểu nhiều, cái hay cốt ở chỗ sử dụng nghệ thuật ném hỏa mù mơ mộng lên những mảnh thực tại tản mác, điều mà Đinh Hùng chắc đã chịu ảnh hưởng ít nhiều nơi các nhà thơ tượng trưng Pháp: Baudelaire, Rimbaud. Thế giới Mê Hồn Ca là thế giới của đắm đuối say mê, của hoang sơ man dại, của chết chóc lạnh lùng, của nhiệm mầu huyền bí. Tình yêu trong Mê Hồn Ca thiết tha, mãnh liệt và kinh khủng. Có nhà thơ nào đã xây dựng được cả một khu nghĩa trang huyền ảo như những bài: Tìm bóng tử thần, Màu sương linh giác, Cầu hồn, Thoát duyên trần cấu, Gửi người dưới mộ… như Đinh Hùng?” (Tôi đọc thơ).

Còn Cao Thế Dung thì “giá trị lớn của thơ Đinh Hùng trước sau vẫn một Mê Hồn Ca. Thi phẩm ấy vốn như loài dị thảo và như mười ngón tay của một nhan sắc từ dưới vực sâu chơi vơi giơ lên cao mà với tìm cái tuyệt vời của tình ái. Mê Hồn Ca còn tiêu biểu cho một thứ mỹ cảm bén nhạy và bềnh bồng giữa những yêu ma và huyền hoặc” (Văn học hiện đại).

Bàng Bá Lân cũng thích Mê Hồn Ca hơn Đường Vào Tình Sử và trong Mê Hồn Ca anh thích nhất Bài Ca Man Rợ vì bài thơ này rất giàu vần điệu, chữ dùng táo bạo và gợi hình, nhạc thơ toàn bài hùng mạnh một cách man rợ hợp với nhan đề bài thơ. Chữ dùng táo bạo và gợi hình thì:

Và ta thấy hiện nguyên lòng sơn dã:
Cảnh sắc này bỗng nhuộm máu tà dương.
Ta xót thương, ta căm giận, hung cuồng,
Ta gầm thét, rung mấy trời thế sự.

Và lời thơ hùng mạnh:

Rồi dày xéo lên sông núi đô kỳ,
Bên thành quách ta ra tay tàn phá.
Giữa hoang loạn của lâu đài, đình tạ
Ta thản nhiên, đi trở lại núi rừng.
Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng.

Còn các bạn khác của Đinh Hùng thì sao? Trưa ngày 23-8-1967 – một hôm trước ngày Đinh Hùng mất – các bạn thơ họp mặt trong một quán nhỏ, Thanh Nam đọc bốn câu thơ mà anh rất thích:

Khi tôi ngồi xuống ở bên em,
Giở tập thư xưa đọc trước đèn.
Vẫn ngọn đèn mờ, trang giấy lạnh,
Tiếng mùa thu động, tiếng mưa đêm.

Nhà thơ Kiên Giang khen thơ đẹp và hay quá, nhưng khi hỏi xuất xứ thì Thanh Nam không nhớ rõ, chỉ biết đó là thơ Đinh Hùng trong cuốn Đường Vào Tình Sử. Về đến nhà đã hơn hai giờ chiều mà Kiên Giang chưa vội ăn cơm, tìm cuốn Đường Vào Tình Sử để đọc bài thơ có bốn câu ấy. Đó là bài Gặp nhau lần cuối và Kiên Giang rất thích 8 câu này ở khổ 5-6 của bài thơ:

Mắt lặng nhìn nhau từ dĩ vãng,
Chợt xanh màu áo nhớ thương xưa.
Bóng em, khoảnh khắc thành hư ảo,
Buồn lướt hàng mi thấp thoáng mưa.

Từng nhớ, từng thương, từng chụm đầu,
Từng chung dòng lệ thấm vai nhau.
Mà trong mắt liếc (6) ngờ non ải,
Nhịp thở ân tình cũng biển dâu.

Còn Trần Tuấn Kiệt thì nhắc lại: “Đối với tôi, tập Đường Vào Tình Sử vẫn là tập thơ cao viễn hơn tập Mê Hồn Ca nhiều… nhiều lắm vậy!”.

Vậy đó, khó mà nói được rằng Mê Hồn Ca hay Đường Vào Tình Sử, tập thơ nào hay hơn mà chỉ có thể nói thích tập nào hơn tùy theo sự cảm thụ nghệ thuật của mỗi người.

***

Ngày 24-8-1967 tức 19 tháng 7 năm Đinh Mùi, lúc 5 giờ sáng, Đinh Hùng đã rời bỏ bạn bè và người thân để đi vào cơn trường mộng lúc mới 48 tuổi. Dường như anh linh cảm mình không thọ nên lúc còn trẻ đã tưởng tượng một ngày kia, khi mình nhắm mắt xuôi tay, các em sẽ về bên mộ mà tiếc thương khóc lóc:

Khi anh chết, các em về đây nhé!
Vị chút tình lưu luyến với nhau xưa.
Anh muốn thấy các em cùng nhỏ lệ,
Tay cầm hoa, xõa tóc đứng bên mồ.

…Anh tưởng niệm các em về một buổi,
Ở bên mồ, cỏ úa sắc chiều rơi.
Ngược sông Mê, bàng bạc nẻo luân hồi,
Sầu rũ tóc, ngậm ngùi in khoé mắt.

(Cung đàn tưởng niệm – ĐVTS)

Tháng 7 năm 1967, bệnh tình của Đinh Hùng trở nặng, trên nét mặt của người thơ đã phảng phất bóng dáng của tử thần. Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, vì lòng liên tài, đã đánh xe đến tận nhà Đinh Hùng, tình nguyện đưa anh vào bệnh viện Bình Dân để tự tay cứu chữa (7), nhưng bệnh ung thư thì có thầy tiên thuốc thánh nào cứu nổi. Khi nhà thơ Tô Kiều Ngân vào thăm thì “trước mắt tôi không phải là chàng thơ phong vận từng bơi qua Hồ Tây, từng đánh đàn mandoline trong các phòng trà, nói chuyện có duyên, làm thơ tình ái rất hay. Người nằm đóchỉ là một bệnh nhân, mắt rất buồn, hơi thở mệt nhọc, đang chờ mổ mà tin tưởng thì rất mong manh… Người thơ của chúng ta trầm mình trong nỗi cô đơn giữa bốn bức tường bệnh viện lạnh lùng, đôi vai gầy, gầy thêm, khuôn mặt nhỏ, nhỏ thêm. Cuộc sống ở đây hoàn toàn bị lùi xa, bị tách rời”. Có những người “vô danh” tình nguyện cho anh máu để đủ sức chịu đựng giải phẫu, nhưng đến nơi thì anh đã đuối quá mà đi rồi.

“Trước giờ liệm Hùng, tôi giở tấm vải trắng nhìn anh lần chót. Mớ tóc xõa ra, đôi mắt nhắm nghiền, da mặt trắng xanh. Buồn quá, không ngờ Hùng chết nhanh như vậy. 48 năm, thôi thế cũng được, 48 năm miệt mài với thơ, với nhạc, với Bộ lạc, Hải tần, Kỳ nữ, với “mây trắng bay đầy gối”, với “hiu hắt tiếng dương cầm”, đời anh toàn gắn liền với thơ, với rượu, kể ra đã thừa chất đẹp” (Tô Kiều Ngân).

Hôm đưa tang Đinh Hùng – chủ nhật 27-8-1967 tức 22 tháng 7 năm Đinh Mùi – là một ngày trong tiết thu sơ, bầu trời ảm đạm. Bạn bè đi đưa tuy không đông lắm nhưng ai nấy đều chan chứa trong lòng niềm tiếc thương vô hạn một nhà thơ tài hoa mà yểu mệnh. Bên chiếc huyệt đào sẵn, Vũ Hoàng Chương gọi lớn “Đinh Hùng! Đinh Hùng!” nhưng người thơ phong vận không bao giờ lên tiếng nữa. Bậc đàn anh Vi Huyền Đắc ngậm ngùi bên bờ huyệt, Vũ Khắc Khoan lặng lẽ ném một hòn đất xuống quan tài. Thanh Nam bỏ ra ngoài lặng lẽ đưa khăn lau mắt, Hoàng Anh Tuấn khóc lăn bên nấm mộ… Khi ra về, đi bên cạnh Tuấn, tôi mới hỏi “Toa hôm nay xúc động quá nhỉ !” Tuấn nói “Đâu mình có khóc Đinh Hùng, khóc cho mình đấy chứ ! (Ký giả Lô-Răng).

Đinh Hùng mất, một ngôi sao sáng của thi đàn đã tắt, một thiên tài đã vĩnh viễn ra đi, nhưng hồn thơ kỳ ảo của anh vẫn long lanh trong hai viên ngọc Mê Hồn Ca và Đường Vào Tình Sử. Đinh Hùng mất là một sự thiệt thòi lớn cho thơ, không gì bù đắp được, biết tìm đâu một khuôn mặt thơ như của Đinh Hùng, “một hồn thơ đã lấy tình yêu làm động lực, đã mượn sự chết làm đòn bẩy để vượt lên tuyệt đối, vươn tới vô cùng”. Người yêu thơ luôn nghĩ rằng trong tuyển tập thi ca nổi tiếng là cuốn “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân mà không có tên Đinh Hùng là một thiếu sót lớn, thật đáng tiếc vô cùng. Thời gian gần đây thơ Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương đã lần lượt được tái bản, rồi cuối cùng cũng đến lượt Đinh Hùng. Vậy đó, những người yêu thơ cũng như những nhà xuất bản nặng lòng với sự nghiệp văn chương có thể nào bỏ qua những tập thơ như Mê Hồn Ca và Đường Vào Tình Sử. Gần đây nhất, bài thơ “Đường khuya trở bước” của Đinh Hùng được chọn in vào cuốn “100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ 20”.

Xin mượn lời Cao Thế Dung để kết thúc bài này:

“Ai cũng phải công nhận rằng Đinh Hùng là một thi nhân độc đáo. Không một nhà thơ nào có giọng Liêu Trai như ông, không một nhà thơ nào có cái giọng phong tỏa lên hồn thơ mình những khói hương nghi ngút như ông. Thơ Đinh Hùng như thể một hoang đường và ảo mộng. Thơ Đinh Hùng còn là bản trường ca tình ái. Thơ Đinh Hùng quả là những ngôn ngữ nhiệm mầu của tình yêu.

“Thơ Đinh Hùng chất chứa một bản sắc thơ rất bén nhạy (Kỳ nữ) và kết đọng cả ba yếu tố: Ái tình, Thiên nhiên và Mộng ảo. Ba yếu tố ấy sinh thành trong cái không khí hồ ly và nỗi chết không rời.

“Đinh Hùng như một bông hoa kỳ lạ, một thứ kim cương kết tụ từ huyệt sâu, từ non bồng của mộng ảo. Đinh Hùng là một thiên tài, Mê Hồn Ca đã thể nhận điều đó. Đinh Hùng với Mê Hồn Ca như bức họa có màu sắc âm ty và Liêu Trai, lại vừa như cung đàn bạc mệnh chứa thứ âm thanh mê dại và kỳ ảo”.

Ác Mộng

Niềm khát vọng, ta ghi vào huyết sử,
Dưới chân em, Thơ lạc mất linh hồn.
Ta đau xót trong mỗi giờ tình tự,
Ta khóc nhiều cả những lúc trao hôn.

Đời tàn tạ em đừng ca hát nữa:
Hội thanh bình, cuộc sống gượng vui thôị
Ta muốn điên vì khóe miệng em cười,
Ta cuồng dại bởi nghìn câu em nóị
Nhan sắc ấy chớ nên tàn nhẫn vội,
Tình mất rồi ! oán hận đã mênh mông.
Chớ thờ ơ ! Ta nổi giận vô cùng,
Nhiều ác mộng hằng len vào giấc ngủ.

Ta quên hết ! Ta sẽ làm Bạo Chúa,
Sống nghìn năm ngự trị một lòng em.
Cuộc ân tình ghê rợn suốt muôn đêm
Nào ai tiếc thương gì thân mỹ nữ !
Tay mỏi ôm sẽ dày vò nhung lụa,
Phấn hương nhàu, tan tác áo xiêm baỵ
Ta bắt em cười, nói, bắt em say,
Ta đòi lấy mảnh linh hồn bỡ ngỡ.
Ôi ! ly rượu em dâng toàn huyết đỏ,
Ta uống cùng dòng lệ chảy đêm xưa,
Để ưu tư, hờn giận với nghi ngờ
Về hiển hiện bóng ma kề bên gối
Bao hoan lạc ! sau những giờ tội lỗi,
Một mình Em sửng sốt đứng bên giường,
Ngắm ta nằm say giấc ngủ đau thương,
Trong run sợ bỗng thấy lòng tê tái.

Bao giờ em lấy chồng

Như bao người gái đến xuân thì.
Mỗi đêm say tỉnh vài cơn mộng,
Trở giấc, lòng ơi! buồn làm chi?

Ôi biết bao giờ em lấy chồng?
Đầu thu hay cuối một mùa đông?
Bên người có ánh trăng, đèn mới,
Em nhận thơ lòng tôi nữa không?

Hoa nở cô đơn, bóng động thềm,
Vườn xưa còn thoảng chút hương em.
Xót xa lá cỏ vương mùi tóc,
Tà áo bay về, nhớ suốt đêm.

Em cũng như làn hương phấn kia,
Gió về rồi đến buổi chia ly
Nhớ trong khung cửa, mong ngoài ngõ,
như kẻ xưa buồn lối phượng đi.

Nhớ buổi người yêu, kẻ hững hờ,
Em là thục nữ, chỉ mê thơ.
Còn lòng tôi đấy, em không rõ,
Chẳng đến dò thăm, chẳng muốn ngờ.

Mà chẳng tình chung cũng hẹn nhiều,
Lời em bay bướm, tưởng rằng yêu.
Vì ai làm đẹp mây trời thế?
Tôi đợi tin thu sớm lại chiều.

Em ướp hương vào những giấy thư,
Tôi hôn lên chữ một đôi tờ.
Nghĩ rằng: Em gửi hồn thơm đấy,
Là bởi lòng kia đã ước mơ.

Mơ ước hiền như truyện trẻ thơ,
Hoài nghi từng nét mực phai mờ.
Chữ Yêu lượn nét hoa kiều diễm,
Tưởng thấy nghìn đuôi mắt hẹn hò.

Vầng trăng vừa ngả bóng chung đôi,
Em đã xa như dĩ vãng rồị
Tình cũng quan san từ đáy mắt,
Một hàng mi lặng, mấy trùng khơi.

Nghe động bàn chân, nắng tỏa hương,
Mong manh từng gợn phấn còn vương.
Em đi, nửa gối hoa tàn mộng,
Thương nhớ bay cùng mây viễn phương.

phamdinhchuong_PĐC

NHẠC SĨ PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG

(Nguyễn Đình Toàn)

Nghe nhạc Việt Nam, nói chung, hẳn có lúc chúng ta phải giật mình vì hình như nhạc của chúng ta quá buồn. Một nhà phê bình âm nhạc có nhận xét rằng: “Âm nhạc ở đâu dễ nghe, đời sống ở đó dễ sống.” Không biết có phải vì đời sống của chúng ta khó sống, nên đã tạo ra một nền âm nhạc như thế?

Không phải chúng ta không có nhạc vui. Nhưng cái vui, cái trong sáng của nhạc Hoàng Quý mới chỉ là cái vui, cái hớn hở của một buổi họp đoàn hướng đạo.

Dương Thiệu Tước, Nguyễn Xuân Khoát, Hùng Lân cũng có những bài hát vui. Nhưng đằng sau cái vui của nhạc Dưong Thiệu Tước, Hùng Lân hay Nguyễn Xuân Khoát vẫn lẩn khuất một chút buồn.

Phải chờ đến Phạm Đình Chương, chúng ta mới được nghe, được hát những ca khúc thật sự vui tươi, thật sự khỏe mạnh.

Nhac Phạm Đình Chương bát ngát sức trai, nồng nàn hương sắc của núi rừng đồng nội. Căn cứ vào những ca khúc đầu tiên của ông “Sáng Rừng”, “Được Mùa”, “Tiếng Dân Chài” hay “Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng”, người ta cảm nhận một sức sống rạt rào, nao nức. Cái nao nức của một cuộc lên đường, một bước vào đời có gian lao vất vả nhưng cũng phơi phới tin yêu. Có một vẻ gì đó giống như một thách thức hào hứng.

Nhạc như thế, lòng người như thế, tuổi xuân như thế, phải được hát lên không phải chỉ bằng một người, một giọng mà phải bằng nhiều người, nhiều giọng. Có lẽ điều này cũng giải thích vì sao Phạm Đình Chương đã xuất hiện cùng một lúc với ban hợp ca Thăng Long. Rừng núi, sông biển, ruộng đồng đều được nhắc tới trong nhạc Phạm Đình Chương. Nói như vậy cũng không chính xác. Phải nói rằng, những cảnh sắc ấy, những thực thể ấy, chính là một phần nhạc của ông, một phần tâm hồn ông.

Có bao nhiêu người đã viết về rừng núi, nhưng ca khúc “Sáng Rừng” của Phạm Đình Chương vẫn cứ bừng bừng một nét riêng biệt. Cái âm u không bí hiểm, cái hoang dã không đe dọa. Mà ở đó là thơ. Ở đó là cuộc lễ linh thiêng của con người tiếp nhận tặng phẩm của Thượng Đế. Đó là sự chan hòa giữa thiên nhiên và con người. Tiếng chim hót như thế người ta chỉ có thể nghe thấy trong một sáng rừng. Và rừng là ân sủng của Thượng Đế ban cho. Rừng là của ta. Có lẽ không còn hình thức tiếp nhận nào hơn là hình thức tiếp nhận bằng âm nhạc trong một cuộc lễ như thế. Hay nói như Tagore: “Chỉ với tư cách là ca sĩ tôi mới nhận ra sự hiện diện của Người”.

Nói về tình yêu đất nước trong nhạc của chúng ta có rất nhiều. Nhưng sừng sững như núi non có lẽ không có tác phẩm nào vượt qua bộ “Hòn Vọng Phu” của Lê Thương, “Con Đường Cái Quan” của Phạm Duy và “Hội Trùng Dương” của Phạm Đình Chương. Ôi! Chúng ta chỉ nguyện làm sao có được tấm lòng yêu thương đất nước, yêu thương nhau mãi mãi như thế.

Vết thương nào rồi cũng lành. Sự xa cách nào rồi cũng có ngày nối lại. Núi non sông biển là vĩnh cửu. Có nhạc của Lê Thương, còn nhạc của Phạm Duy và với nhạc của Phạm Đình Chương, rồi những con sông vẫn cứ chảy xuôi một niềm thương, sẽ đưa chúng ta về một biển, dù có phải hòa chung một dòng nước mắt.

Những lúc Phạm Đình Chương trở về với cái riêng của mình, ông cũng để lại cho đời những tình khúc tuyệt vời, dù đó không phải là những bài ca hạnh phúc. Tình ca của chúng ta rất nhiều. Nhưng có vẻ như người ta nói về “tình” nhiều hơn là “tình” nói. Phạm Đình Chương đã bước qua được sự cách biệt này. Chỉ khi người ta thực sự yêu, mới có được cái tiếng nói thiết tha, cái giọng nồng nàn đến thế.

Phổ nhạc thơ, Phạm Đình Chương cũng tỏ ra là một nhạc sĩ cao tay lắm. Song nghe nhạc ông, người ta vẫn cứ thấy những ca khúc do chính ông viết lời ca nó thật hơn, đằm thắm hơn. Tuy nhiên “Khi Cuộc Tình Đã Chết” thơ Du Tử Lê, Phạm Đình Chương phổ nhạc, vẫn cứ là một trong những tình khúc đạt nhất của ông và của chung những tình khúc Việt Nam nữa.

Nếu chúng ta, ai có dịp nghe Phạm Đình Chương hát một lần, trong một quán rượu về khuya, hát một mình với ly rượu trong tay và bằng cái giọng một nửa tưởng chừng bị cháy vì khói thuốc, nửa kia được dập tắt bằng rượu mới thấy được hết cái hay của giọng hát Phạm Đình Chương. Ông không chỉ là nhạc sĩ, ông còn là một ca sĩ nữa.

Chúng ta đã nghĩ đến việc cám ơn các nhạc sĩ, tại sao chúng ta lại không nghĩ chuyện công khai cảm ơn các ca sĩ. Không gì buồn bằng một bản tình ca không được hát. Cũng không gì buồn bằng một bản tình ca bị hát sai. Vậy thì, được nghe một giọng hát trình bày hết những gì chứa dấu trong một bản nhạc, phải chăng cũng là một điều hạnh phúc? Ấy là chưa kể, cùng một ca khúc, mỗi ca sĩ có thể có một cách hát khác nhau, và bằng cách ấy, vẫn mở cho người nghe những cánh cửa tưởng tượng kỳ lạ, vừa có khả năng đưa người ta trở về một quá khứ nào đó, lại vừa dường như làm giàu thêm hiện tại, vẽ ra và kể lại những thế giới kỳ ảo, chỉ khi yêu hay đã ra khỏi tình, người ta mới biết, mới nhận ra được.

oOo

Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Duy Trác:

 

Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Elvis Phương:

 

Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Tuấn Ngọc:

 

Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Ý Lan:

 

Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Vũ Khanh:

 

Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Thu Phương:

 

Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Đức Tuấn:

 

Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Trần Thu Hà, Bằng Kiều:

 

Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Ánh Tuyết, Hồ Trung Dũng:

 

Tự Tình Dưới Hoa – Nghệ sĩ Hồng Vân diễn ngâm:

 

5 thoughts on “Tân Nhạc VN – Thơ Phổ Nhạc – “Mộng Dưới Hoa” – Đinh Hùng & Phạm Đình Chương”

  1. Chi Phuong oi!
    Em cung rat thich tho Dinh Hung va Vu Hoang Chuong. Nhung tho cua hai ong du doi qua, dam me qua va cung negative qua, nen du rat thich em cung khong nho nhieu. Ma nho thi toan nho cac doan trong “Tho say” va ” Tho Dien” cua hai ong thoi, chi a!
    Em chuc anh chi luon khoe manh, binh an!
    Em-Quynh Nhu

    Like

  2. Quỳnh Như ơi..ời,

    Thơ tình của Đinh Hùng thì có người yêu thơ nào mà không mê thích hở em. Chị cũng như em thôi. Càng đọc thì càng mê thích. Hình như chưa có bài nào của ông mà chị không thích. 🙂

    Vũ Hoàng Chương cũng vậy. Chị rất tâm đắc với từ “dữ dội” của em dùng để diễn tả thơ của hai ông.

    Cám ơn em luôn chúc lành cho anh chị.

    Sức khỏe và an lạc Như nhé.

    Chị Phượng XO

    Like

  3. Chi Phuong oi!

    Em luon tu nhac minh noi nhung dieu tot lanh va tranh noi nhung dieu khong tot. Vi trong Kinh Thanh, Chua Jesus da noi: “Lòng có đầy, miệng mới nói ra”, em co gang tap de trong tam tri, trong suy nghi cua minh day nhung dieu tot lanh, va neu phai nghi ve nhung dieu khong hay thi chi de phan tich va rut ra cach lam viec, noi chuyen hoac giai quyet van de tot hon, co ly le hon, chu khong phai de no anh huong negative len cuoc song cua minh. Noi thi don gian, nhung thuc ra day chinh la mot su nhan thuc va fighting ben bi, khong ngung giua dieu tot va dieu xau trong con nguoi cua minh.

    Cang doc, suy ngam nhieu ve Nhung dieu trong Kinh Thanh, doc them duoc cac kien thuc trong psychology, dong hanh voi cac anh chi, cac ban trong DCN, va cac ket qua rut ra trong cuoc song, em cang thay ro suc manh cua Suy nghi Tich cuc, cua tam huong thien va cua cac viec tot lanh chung ta lam trong cuoc song thuong ngay, moi ngay moi lan toa manh me hon. Dung la “mot tieng khay mong tay cung lam rung dong den vo luong the gioi”.

    Chuc anh chi va ca nha DCN luon khoe manh, binh an, tam than an lac.
    Em-Quynh Nhu

    Like

  4. Như à,

    Cám ơn em đã tận tình chia sẻ. I’m with you.

    Ừa, “một tiếng khảy của móng tay sẽ làm rung động đến vô lượng thế giới” em ạ.

    Cám ơn em chúc lành cho mọi người. Cũng vậy Như nhé, chị nguyện xin ân phúc Thiên Chúa & Đức Mẹ luôn ở cùng em và gia đình.

    Chị Phượng XO

    Like

Leave a comment