Thủng thẳng với thơ… (phần 9)

    Sự cô đọng là cốt lõi của thành công. Do đó sự tự loại bỏ những hình ành, hình tượng không cần thiết, cắt những ý, những câu không thuộc về chủ đề là một “đau lòng” đáng có. Chính cái đó đã quyết định sự thành công.

    Ngày xưa, các bài thơ ngắn được qui định bởi niêm luật rất nghiêm ngặt, sự gò bó này có làm khó dễ cho nội dung tư tưởng, song lại đòi hỏi người làm thơ phải có nhiều công phu và muốn có thơ hay người viết đã trả đúng giá cho nó. Biết bao nhiêu bài tứ tuyệt, bát cú, đã thành bất tử chỉ với 4 câu hay 8 câu. Ngày nay, các bài thơ gọi là ngắn đã không còn là ngắn nữa, 50 câu như tôi nói cũng được coi là ngắn, nhưng dưới 100 câu cũng chưa phải thơ dài. Do sự mở rộng ước lệ dài ngắn này, đã khiến tính cô đọng của thơ có bị giảm sút, nguyên nhân chính là do người viết nhiều tham lam. Cái tinh túy của vàng, bạc lẫn quá nhiều với quặng và sỏi đá. Người đọc phải thanh lọc rất nhiều mới được những hạt bạc, hạt vàng.

Loại Thể Những Khúc Ca

Trong quá trình lao động, tôi đã cố gằng sử dụng gần hết các thể loại có thể sử dụng được để biểu đạt thơ. Tuy vậy, vẫn không đúc rút được kinh ngiệm gì đáng kể, chưa định được qui luật đã là sự nhảm nhí, định một khuôn mẫu cho thơ mà hổ thẹn ư?

Đối với các loại thể, không hề có sự khó dễ hơn nhau, nếu lấy cái hay làm tiêu chuẩn đo lường. Xưa nay việc định ra khó dễ phụ thuộc vào sự quen tay, có người quen tay loại này, lại có người quen tay loại khác. Sự quen tay gây cho người viết cảm tưởng là thể loại ấy dễ hơn, thể loại khác khó hơn. Cũng từ sự quen tay này mà dẫn đến cái gu thể loại, dẫn đến sự bài xích lẫn nhau, cho rằng thể loại này cao quí hơn thể loại kia. Có thể có điều ấy được không? Không, bởi lẽ cái hay của bất kỳ loại thể nào cũng đều có vị trí xứng đáng của nó. Một bài thơ trữ tình hay,một đoản kịch thơ hay, và tất nhiên cái hay đó hơn hẳn một trường ca hay một kịch thơ tồi. Dẫn một đoản kịch thơ, Mưa Hến

/ Ngây thơ hỏi trời/ Sao không cho mưa hến/ Để nghêu thôi thèm hến/ Êm thơ sông tình/

/ Hến ra sân đình/ Lưng thuyền chao sóng/ Ngực lửa đỏ lò/ Môi tiếu khuynh đa/ Nghiêng miếu/ Nghêu só ốc nổi mặt sông/ Ngụp tranh tròn méo/ Chống sào phẩm phục khom lưng/ Sợ thất kinh hồn/ Đa đổ/ Miếu đổ/ Sách tiền theo gió bay đi/ Sợ mai hậu cháu con kiệt phúc/ Nghêu đem sợ dọa sò/ Sò đem sợ dọa ốc/ Ốc dọa đêm/ Đêm tiếu lâm cười hến/

/ Sân đình đong đưa/ Lãng trăng thuyền hến/ Ngực đông lưng hạ khe xuân/ Tích trò chòng chành/ Ảo ảnh đưa tay cầm được/ Nguyện cầu thơm ngát hoa chanh/ Lạy trời đừng mưa hến/ Một hến đủ mù mưa/ Đời nghêu, đời sò, đời ốc/ Tha cho người nguyện hến ơi!/

Tự lựa chọn cho mình một thể loại sau khi đã thí nghiệm tất cả các thể loại tùy thuộc vào cái tạng chất của người viết.

Có người rất thành công với thơ trữ tình, nhưng lại thất bại với trường ca hoặc truyện thơ. Có người rất thành công khi viết thơ miêu tả, có cái mênh mông kỳ vĩ của trường ca, nhưng không có cái đọng của thơ tình.

Do vậy, phải tự tìm cho mình thể loại thích hợp. Nhưng đối với nhà thơ – tất nhiên ai cũng có mặt mạnh và mặt yếu của mình – nhưng không thể không một lần thực nghiệm các giải pháp diễn đạt  thơ, không nên vội vã đầu hàng các thể loại mà mình chưa thực nghiệm. Vì rằng: Trong cuộc sống muôn mầu muôn vẻ này cần phải có rất nhiều thể loại mới mong diễn đạy được một cách phong phú và sâu sắc. Và chỉ có thực nghiệm đa dạng thể loại thì mới tránh được sự đơn điệu (Monotonce) – Nhân của mọi thất bại và nhàm chán.

Đứng về mặt hình thức mà phân loại, thì chỉ có hai loại thơ: Thơ ngắn và thơ dài. Sự phân loại này dễ nhìn nhận hơn là cách phân loại theo nội dung biểu đạt – vì trong nội dung biểu đạt có thể có hàng chục thể loại khác nhau, và trong bất kỳ thể loại nào cũng có những quan niệm, lý lẽ rắc rối và phức tạp của nó.

Thường thường loại bài thơ xếp loại ngắn số lượng câu không nhiều – thường không quá 50 câu – vấn đề diễn tả trong bài thơ đó có thể là những vấn đề lớn như: Đất nước, dân tộc, chiến tranh…Cũng có thể là những vấn đề chỉ trong một phạm vi tâm sự cá nhân như: Tình yêu, học đường, cảm hứng…Thực ra cái lớn nhỏ không thuộc về đề tài, mà thuộc về năng lực của người viết. Nhưng dù đề tài thế nào nhất thiết đều nằm trong giới hạn câu chữ. Giới hạn câu chữ quyết  định việc sử dụng vốn liếng về hình ảnh, hình tượng, âm thanh, sắc mầu…của người cầm bút. Không thể dài dòng, miên man khi giới hạn về số câu không cho phép. Không thể nhiều hình ành diễn đạt một ý, không thể nhiều hình tượng chở một tư duy. Sự cô đọng là cốt lõi của thành công. Do đó sự tự loại bỏ những hình ành, hình tượng không cần thiết, cắt những ý, những câu không thuộc về chủ đề là một “đau lòng” đáng có. Chính cái đó đã quyết định sự thành công.

Ngày xưa, các bài thơ ngắn được qui định bởi niêm luật rất nghiêm ngặt, sự gò bó này có làm khó dễ cho nội dung tư tưởng, song lại đòi hỏi người làm thơ phải có nhiều công phu và muốn có thơ hay người viết đã trả đúng giá cho nó. Biết bao nhiêu bài tứ tuyệt, bát cú, đã thành bất tử chỉ với 4 câu hay 8 câu. Ngày nay, các bài thơ gọi là ngắn đã không còn là ngắn nữa, 50 câu như tôi nói cũng được coi là ngắn, nhưng dưới 100 câu cũng chưa phải thơ dài. Do sự mở rộng ước lệ dài ngắn này, đã khiến tính cô đọng của thơ có bị giảm sút, nguyên nhân chính là do người viết nhiều tham lam. Cái tinh túy của vàng, bạc lẫn quá nhiều với quặng và sỏi đá. Người đọc phải thanh lọc rất nhiều mới được những hạt bạc, hạt vàng.

Loại thơ bài dài (không giới hạn về số câu) bao gồm truyện thơ, trường ca, kịch thơ, kinh thơ, sử thi…Ấy chính là những dòng sông, bên cạnh cái hùng vĩ của nó lại là cái rác rưởi, củi rều, bã bọt trôi lềnh bềnh từ nguồn ra biển cả. Loại thơ bài dài đòi hỏi một tay nghề vững vàng, một kiến thức xã hội phong phú và sâu sắc. Không có được cái đó, người làm thơ cứ như nữ diễn viên trong điệu múa lụa, chỉ bằng một dải lụa, lượn tròn lượn khéo đến nhức mắt, nhàm tai. Hạt mực đỏ vốn có, cứ được bôi ra mãi, bôi ra mãi, và càng bôi ra nó càng nhạt dần – cái mầu hồng nhờ nhợ. Vì nếu có quan niệm thơ dài (không bị câu chữ gò bó) là sự tung phá, hệt như người phu mỏ không tuân theo qui trình khai thác than, cứ ra sức mở vỉa, chỗ nào ngon xục vào mở trước. Đến khi nhìn lại công trình của mình, khối lượng than có nhiều, nhưng đất đá cũng nhiều và trông mới nham nhở làm sao…

Nhiều người cho rằng thị hiếu thơ của quần chúng Việt Nam là nghiêng về những bài thơ loại ngắn, không thích đọc những bài thơ dài. Điều này nếu đúng thì hẳn truyện kiều với 3254 câu đã không thể là truyện Kiều lừng lẫy hàng trăm năm nay. Thị hiếu của bất kỳ dân tộc nào cũng vậy, ai chẳng thích hoa, vấn đề không phải dài hay ngắn, mà vấn đề bài thơ ấy đã đạt đến độ cái đẹp của nó chưa. Đã là bài thơ hay thì dù 4 câu hay 1000 câu công chúng cũng đều thích cả.

Không có gì đáng xấu hổ cho rằng ta kém cỏi nếu như chưa viết được  một trường ca. Chỉ cần bằng một số bài tứ tuyệt hay bát cú chẳng phải đã bao nhiêu nhà thơ Đường tồn tại đến muôn năm.

Đề tài đã quyết định cho việc chọn thể loại như thế nào?

Khi viết tập “Linh thiêng, nguyện cầu, nghiệp chướng” – nội dung như tên gọi của nó – tôi có phân vân giữa việc chọn thể loại ngắn và dài. Thực ra với cả hai thể loại đều có thể biểu đạt được nội dung trên. Nhưng tôi đã quyết định chọn thể loại ngắn. Vì sao vậy? Vì nếu với thể loại dài, ý thơ sẽ lập đi lập lại, vấn đề nêu ra sẽ bị hạn chế, và người đọc sẽ rất chán nản với những triết lý nặng nề và buồn tẻ. Thể loại thơ ngắn sẽ khắc phục được những nhược điểm ấy. Vì mỗi vấn đề đều có giới hạn của nó, nhiều hình thức chở cùng một chủ đề tránh được sự đơn điệu.

Nhưng khi viết tập sử thi ” Nước Nam Ta” – tôi đã hoàn toàn sử dụng thể trường ca trong gần 200 trang sách với gần 6000 câu thơ. Điều này dẽ giải thích bởi ngoài loại thơ dài ra không thể loại nào có thể chở được nội dung trên.

Còn với tập “Cố Hương Ca” thì tôi lại dùng kết hợp cả hai thể dài và ngắn. Dụng ý của tôi muốn dùng sự bề thế của thơ dài để chở những đề tài mới mang nội dung ưu Việt, để chứng minh sự đổi mới của nông thôn ta hiện nay.

Đề tài của một tập thơ hay đề tài của một bài thơ có ý nghĩa rất lớn trong việc chọn thể loại biểu hiện. Nếu sự lựa chọn không thỏa đáng thì hiển nhiên bài thơ đó bị phá hoại – hoặc hỏng về nội dung, hoặc hỏng về hình thức. Khi mình thực sự thuộc vấn đề định diễn tả thì chính vấn đề ấy sẽ thôi thúc tìm ra thể loại, và sự hòa đồng bao giờ cũng rất khéo. Hiện tượng thể loại phá vỡ nội dung không phải là không phổ biến. Ấy là khi nội dung là một giọt mực đỏ ta lại cứ muốn hạt mực ấy thành mặt trời thơ. Hoặc một đề tài phì nhiêu, cần sống với nó lâu hơn nữa để khám phá được nhiều hơn nữa, thì ta lại vội vã chặt chân, chặt tay, róc thịt dựng nó lên hình hài. Người mới vào nghề hay người có nhiều năm tuổi nghề cũng đều chưa khắc phục được nhược điểm này. Lại phải nói đến tính nôn nóng và tham lam. Tính nôn nóng và tham lam vô cùng nguy hại!

Trong cả thể loại bài dài và bài ngắn, người viết thường thành công nhiều hơn trong những câu đầu, những chương đầu. Đó không phải là điều khó hiểu. Thực ra những câu đầu và những chương đầu người cầm bút thuộc vấn đề hơn và làm chủ được mình hơn. Tiếp đó là công việc bôi loang giọt mực đỏ.

Như trên đã nói, tôi cố gắng rèn luyện hầu hết các thể loại, nhưng trong các thể loại ấy tôi chưa tìm thấy tạng mình hợp với thể loại nào. Với thể thơ ngắn tôi viết thông minh và sâu sắc, nhưng lạnh lùng. Với thể thơ dài tôi đưa ra được vấn đề, nhưng nặng một bầu không khí kể lể, còn rất nhiều quặng đất trong thơ. Và tất nhiên phải như thế, vì nếu quá tự tin rằng mình đã làm chủ được thơ thì còn gì để phấn đấu nữa. Với bất kỳ ai – dù người đã thiên tài – cũng đều còn con đường trước mặt thuộc về ước mơ, còn cần phải đi xa hơn nữa.

Tôi chỉ nghĩ: Muốn làm cho thơ của mình muôn hình, muôn vẻ thì mình phải diễn đạt thơ bằng chính cái muôn vẻ muôn hình ấy. Do vậy, phải thí nghiệm – nói cách khác phải làm tất cả các thể loại thơ khác nhau. Có như vậy mới hy vọng tìm được những cách diễn đạt mới cho một nền thơ mới.

Trong khi thực nghiệm một cách diễn tả mới, thường vấp ngay phải chính cái khó khăn của chính cái mới đó. Khó khăn thường làm cho ta nản lòng, nhưng tôi tự đặt kỷ luật cho mình phải thực hiện hết khả năng mình, tức là phải viết cho đến câu chót – dù liền sau đó vứt đi toàn bộ. Người làm thơ rất cần kỷ luật lao động, không thể tùy hứng và tùy tiện. Khi đã làm gần thành công với một thể loại mới, thì cần thiết phải tập dượt, phải làm thêm thể loại ấy với đề tài khác. Cố sao cho những nếp nhăn trong óc mình ổn định chân dung của thể loại ấy và không bao giờ quên nữa. Sau những vất vả của lao động, thành quả bao giờ cũng làm cho ta sung sướng đến muốn khóc, dù thành quả ấy chỉ là những tro tàn khi ta đốt chúng đi. Người khác thì cho là ngớ ngẩn, nhưng quả thực tôi đã tự giới hạn khuôn khổ bài thơ hoặc dài, hoặc ngắn của mình, và tôi cố gắng không vi phạm khuôn khổ ấy.

Đối với tôi giá trị làm một bài thơ dài và ngắn ngang nhau, về cường độ lao động thì bài thơ dài chiếm nhiều thời gian hơn, phải nghĩ nhiều hơn, đọc nhiều hơn, nhưng làm bài thơ ngắn mất ăn mất ngủ lắm, vì sự lựa chọn và cắt xén nó.

Nhiều bạn làm thơ khác, hẳn cũng nằm trong tâm trạng của tôi. Cũng đều tung tẩy muốn có bài thơ ngắn lại muốn có khúc thơ dài, và để đối lập cái đó tất cả đều giống như tôi –  đều lao động. Chỉ qua lao động hết mình mới có thể tìm thấy những bí quyết, mà những bí quyết thì không bao giờ vĩnh cửu, nó cũ ngay, vì thế lại phải tìm những bí quyết mới, lại lao động, một nối đuôi nhau tuần hoàn vô tận.

Có thể nói rằng lao động trong việc tìm tòi hình thức biểu hiện là một lao động cực kỳ nặng nhọc – không kém gì việc nhặt trong đời sống những hạt vàng thơ. Việc tìm tòi hình thức, thể loại tác động trở lại với việc tìm kiếm để thơ bước vào cuộc đời, khiến cho khi đã thành thơ, người ta không còn nhận ra đâu là dấu vết tìm tòi nội dung, đâu là dấu vết tìm tòi hình thức nữa. Người ta chỉ nói đến thơ thôi, và người ta mở cửa lòng rước thơ vào…

Bài thơ bốn câu Chân Hương dẫn dưới đây  khép lại chương sách này.

Cháy rồi cháy hết phần thơm/ Chân hương đứng lặng nỗi buồn vô vi/ Rồi mầu phẩm nhuộm phai đi/ Dẫu chẳng còn gì vẫn đứng chân hương

 

Một bình luận về “Thủng thẳng với thơ… (phần 9)”

  1. Cung cấp thêm tư liệu với DCN.

    HÉ MỞ VÀI KHOẢNG ĐỜI TRONG
    KINH THÀNH CỔ TÍCH

    ( Thử bình ba bài thơ * của Nguyễn Nguyên Bảy)

    Trong thế giới của “Kinh thành cổ tích” mà NNB vẽ ra có biết bao con người, sự kiện, biểu tượng, cùng những vẻ đẹp đến nao lòng mà nhà thơ chiêm ngưỡng và tự nguyện ngợi ca suốt đời… Ba bài thơ sau đây, do những người đọc yêu thơ anh chọn lựa ra và có ước mong rất đáng yêu đáng trọng là muốn được hiểu thêm về cái Thật – cái Thiện – cái Đẹp của chúng, nằm trong nguồn mạch cảm hứng nhất quán và sâu lắng nhất của thơ NNB – từ những ngày xa xưa anh đi trên “con thuyền Trương Chi”….

    1. XÓM BÃI

    Nước lên ngập xóm bãi bồi
    Mặt đê cỏ chiếu màn trời ngủ mê
    Mưa trông nước rút lội về
    Rơm bùn trát lại tứ bề vách xiêu
    Thủy tinh với nỗi hận yêu
    Cuồng làm chi mãi để điêu đứng đời
    Đừng nộ thêm nữa nước ơi
    Bắt làm sao được người rời bãi sông
    Nước dâng cao mãi được chăng?
    Bờ đê cô gái cười vang thúng thuyền

    2. LÀNG HOA

    Khi ngọn gió đêm ru giấc ngủ hoa
    Đòn gánh vẫn cong đôi thùng tưới
    Cô gái làng hoa

    Khi ngọn gió cởi áo sương ban sớm
    Cánh tay mềm nâng cắt những mềm hoa
    Cô gái Ngọc Hà

    Trọn một ngày sống cuộc đời hoa
    Trọn cuộc đời sống cuộc đời hoa
    Làng Ngọc Hà

    Bao vất vả gánh hàng hoa ai biết
    Ngũ sắc hoa chào mời
    Cùng nụ cười cô gái làng hoa

    3. CHÂN HƯƠNG

    Cháy rồi cháy hết phần thơm
    Chân hương đứng lặng nỗi buồn vô vi
    Rồi mầu phẩm nhuộm phai đi
    Dẫu chẳng còn gì vẫn đứng chân hương

    Ba bài trên có thể nói là những vần thơ trong trẻo nhất của NNB, và chúng có vẻ đẹp của pha lê – khi những giọt lệ đắng cay của số phận chưa kịp thấm xuống tận đáy trang thơ để nảy mầm lên những tự vấn về thân phận riêng, khi mà những nỗi lo toan chung của cả một dân tộc đang choán ngợp những tâm hồn lương thiện…

    1. Trong những ngày lũ lụt, chắc hẳn anh thanh niên NNB cũng đã từng cùng nam nữ ở một xóm bãi sông Hồng sau đêm ngủ “màn trời cỏ chiếu” xắn tay áo lên, đổ mồ hôi trát lại những ngôi nhà bị đổ nát bằng bùn rơm… Có điều, trong khi những nam thanh nữ tú kia hào hứng hát lên những bài ca lao động quen thuộc như từ cả ngàn năm trước trên bãi bồi châu thổ sông Hồng, thì chàng “Trương Chi” NNB lại “hát” bằng cách riêng của một thi sĩ mà tâm hồn còn rất trẻ trung: sau vài nét sinh động miêu tả lại thực tế, anh liên tưởng tới cơn thịnh nộ của “Thủy tinh với nỗi hận yêu / Cuồng làm chi mãi để điêu đứng đời”… Một sự trách móc đượm nỗi cảm thông song không kém phần nghiêm khắc bởi bao hàm trong đó là thông điệp cô đọng bản chất sự tích lẫn sự phán xét của lương tri. Tiếp theo đó, đặt mình vào tâm trạng và thân phận của những người chốn bãi sông ngàn đời, nhà thơ thốt lên lời kêu gọi Thủy thần – như một lời khấn, một lời cầu nguyện mang sắc thái ca dao dân ca người Việt trước thiên tai:
    Đừng nộ thêm nữa nước ơi
    Bắt làm sao được người rời bãi sông…

    Nhưng điều bất ngờ mà nhà thơ hiện đại tạo ra lại chính ở hai câu kết mà từ lời khấn đã trở thành lời thách thức một cách bất ngờ:

    Nước dâng cao mãi được chăng?
    Bờ đê cô gái cười vang thúng thuyền…

    Người chiến thắng Thủy thần không phải là Sơn thần, mà là những cô gái làng chài bến bãi với tiếng cười vang khỏe khoắn yêu đời ! 5 yếu tố hiện thực của một không gian xác định: nước, bờ đê, cô gái, tiếng cười, chiếc thuyền thúng, hình như khi có tiếng “cười vang” dân dã kia khiến chúng thoát khỏi tính chất cụ thể đơn lẻ của sự vật để mang ý nghĩa khái quát rộng lớn về sức mạnh của nhân dân ; chúng được liên kết với nhau không chỉ bắng vần điệu của hai câu thơ lục bát truyền thống khá ngọt ngào mà còn bằng cách lập luận, bằng tư thế làm chủ thiên nhiên thực bay bổng của con người: đầu tiên là sự thách thức, ngay sau đó là sự khẳng định sự chiến thắng. Tiếng cười của cô gái không chỉ “vang thúng thuyền” mà như còn vang xa cả không gian: tiếng cười đó đã có từ ngàn xưa Dựng nước…

    2. Có thể chính cô gái đã “cười vang thúng thuyền” lúc ban ngày kia, cũng là cô gái khi đêm về lại lặng lẽ bên những luống hoa; cô gái sống cuộc đời bình dị và lam lũ của người dân làng hoa quen “ăn nửa bữa, ngủ nửa giấc” , nhưng qua cái nhìn và trong tâm tưởng của thi sĩ, cô lại giống như một nàng tiên dịu dàng mà mỗi động tác của cô bên từng gốc hoa, từng luống hoa khiến lòng người phải rung động thổn thức! Nhà thơ không phải thi vị hóa công việc vất vả của người trồng hoa, mà đang quan sát cảm thụ công việc ấy với tất cả sự trìu mến và trân trọng tận đáy lòng – từng chữ thơ như cố nén sự nghẹn ngào của tác giả cho thấy rõ điều đó… Phải chăng, người tự nhận là đã được sinh ra “trên cầu dải yếm”, trong xứ sở “Kinh thành cổ tích”, nên mới có khả năng hiểu được “giấc ngủ hoa” và cả sự thức dậy đáng yêu đến ứa lệ của nó lúc sớm mai:

    Khi ngọn gió đêm ru giấc ngủ hoa
    Đòn gánh vẫn cong đôi thùng tưới
    Cô gái làng hoa

    Khi ngọn gió cởi áo sương ban sớm
    Cánh tay mềm nâng cắt những mềm hoa

    Dường như nhà thơ cảm nhận được trong từng tế vi xúc cảm của mình sự dịu dàng thận trọng của cô gái trước sinh mệnh hoa yếu đuối mảnh mai – và đó là cơ sở tâm lý nghệ thuật của một trong những câu thơ rất hay, nếu không muốn nói là hay nhất của anh: “Cánh tay mềm nâng cắt những mềm hoa”… NNB ở đây dường buông thả chữ nghĩa, anh để sự giao cảm thần bí giữa thiên nhiên và con người tự bộc bạch ; nhưng lúc này, nhà thơ cũng không hoàn toàn đặt mình vào cảnh ngộ, anh vẫn là người quan sát tinh tế vẻ đẹp của hoa, người trồng hoa và cả chính lòng mình!

    Nhà thơ đến cuối bài thơ mới cho người đọc biết, cả đêm qua anh đã đắm chìm trong công việc của người trồng hoa ở một vùng đất nổi tiếng: làng hoa Ngọc Hà.

    Cô gái Ngọc Hà
    Trọn một ngày sống cuộc đời hoa
    Trọn cuộc đời sống cuộc đời hoa
    Làng Ngọc Hà

    Cái thú vị của khổ thơ cuối không khó nhận ra: mở đầu là “Cô gái Ngọc Hà”, sau cùng là “Làng Ngọc Hà” mà xen ở giữa là hai câu thơ nói về sự hữu hạn của đời người ( dù là trọn một ngày hay trọn một đời cũng chẳng khác gì nhau, lại đặt bên cạnh sự mong manh của “cuộc đời hoa”) – nhưng chính “Cô gái Ngọc Hà “và địa danh “Làng ngọc Hà” sẽ tạo nên sự bất tử cho một giá trị văn hóa, cho tinh thần trọng thị Cái Đẹp!

    Bao vất vả gánh hàng hoa ai biết
    Ngũ sắc hoa chào mời
    Cùng nụ cười cô gái làng hoa

    Ba chữ ” Làng Ngọc Hà” sẽ còn đọng lại tâm trí người đọc như dư vị ngọt ngào của làng hoa mang tên sông Ngọc từ thở xưa thuộc vùng Thập tam trại… Làng hoa Ngọc Hà nay đã không còn đất để trồng hoa nữa, nhưng ký ức đẹp đẽ về nó thì đã bước vào thơ văn, vào nhạc họa suốt gần một thế kỷ qua – như những tán lá mát rượi che cho bao nỗi gay gắt phiền muộn, kể cả máu lửa của cuộc đời nơi phồn hoa đô hội; sản phẩm của các làng hoa trong đó có làng hoa Ngọc Hà theo chân những người phụ nữ gánh hoa tỏa khắp các phố phường đem đến cho con người niềm vui, sự bình yên, niềm hy vọng… Cả “Cuộc đời hoa” được dệt nên bởi từng ngày sống trọn “cuộc đời hoa” đó đã từng là nguồn sống của biết bao con người, là đầu mối nhân duyên cho biết bao tình yêu và hạnh phúc gia đình…

    Bài thơ kết thúc nhưng lại mở ra bao cảm nghĩ dư ba xốn xang , có khả năng giúp ta lắng lòng lại trước vẻ đẹp của Hoa và vẻ đẹp của Người trồng hoa bên cạnh sự xô bồ chói gắt của thực tại đời sống…

    3. Bài thơ bốn câu giống như một thứ kệ của kinh phật, một bài châm ngôn, càng ngẫm nghĩ càng thấm thía cái dư vị của nó. Một chiếc chân hương quen thuộc, quen thuộc đến tầm thường mà hàng ngày ta vẫn thấy nhưng không thèm để ý, qua cái nhìn của thi sĩ, nó có một cuộc sống riêng, một thân phận riêng, một khoảnh đời riêng xem ra không tầm thường chút nào:

    Cháy rồi cháy hết phần thơm
    Chân hương đứng lặng nỗi buồn vô vi
    Rồi mầu phẩm nhuộm phai đi
    Dẫu chẳng còn gì vẫn đứng chân hương

    Thoạt tiên, tác giả đứng vào vị trí của cây hương để cảm nhận cuộc sống của nó- từ lúc bắt đầu cháy, “cháy hết phần thơm” , tới lúc “đứng lặng nỗi buồn vô vi”, rồi “màu phẩm nhuộm phai đi”…Sau cùng, tác giả thoát khỏi tâm trạng của nó để rút triết lý: ” Dẫu chẳng còn gì vẫn đứng chân hương”. Cây hương đã hoàn tất sứ mệnh của nó, và chân hương tồn tại như một minh chứng về sự hiện hữu cũng như sự cần thiết của nó trong cuộc đời. Hơn nữa, trong thực tế, những chân hương cắm trong một bát hương cũng có ý nghĩa thiêng liêng, và khi người ta buộc phải thay bát hương cần làm thủ tục khá cầu kỳ, và đặc biệt là phải có những chân hương cũ… Ở đây ta hơi bất ngờ trước một khái niệm- tuy phù hợp với khung cảnh hương tàn khói lạnh và tâm trạng chung, song không dễ hiểu chút nào: Vô vi. Vô vi vốn là một khái niệm trong sách Đạo đức kinh của Lão Tử nhằm chỉ một thái độ sống thuận theo tự nhiên, không làm điều trái tự nhiên. Nhưng theo tôi, ở bài thơ này, tác giả không chủ đích hướng người đọc tới ý tưởng triết lý đó, mà chủ yếu tới một sự suy ngẫm về nhân tình thế thái, về giá trị đích thực của con người… Nhưng, để có thể đánh giá nổi một sự vật, một con người cho đúng cách, đúng đạo lý, thì trước hết lại cần phải có thái độ vô vi rất Lão Tử đó của chân hương: hãy tuân theo lẽ Tự nhiên công bằng mà xem xét, cư xử, đánh giá, định lượng moi người mọi vật ở quanh ta, và sau đó là chính bản thân ta…

    Trong những năm tháng rất xa đó, NNB sau khi thắp một nén hương đã gióng một hồi chuông báo động sớm cho sự suy đồi của đạo lý ứng xử giữa con người với con người đang nhỡn tiền ngày hôm nay!

    Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn

    * Ba bài thơ này ( Xóm Bãi/ Làng Hoa/ Chân Hương) và bài Tầu Điện Đêm là 4 bài đã bị Nguyễn Tùng Bách (biên tập sách thơ tự nhận – nguồn vanhac.org) loại bỏ, sau được chính tác giả BNN lấy lại. Khi sách in ra, hai trong số 4 bài đó đã được tuyển ngâm trong chương trình thơ Kinh Thành Cổ Tích của Đài Truyền Hình TPHCM ( link Youtube đính kèm). Để tự minh bạch với mình, Nguyễn Tùng Bách đã “năn nỉ” bạn đọc yêu thơ BNN, và Nguyễn Anh Tuấn đã đáp lại lời “năn nỉ” ấy.

    + Bài thơ Xóm Bài, HTV9 ghi và phát hình, nghệ sĩ ưu tú Hồng Vân diễn ngâm

    + Bài thơ Làng Ngọc Hà, HTV( ghi và phát hình, nghệ sĩ Thúy Hạnh trình bầy

    + Bài thơ Chân Hương, BNN tự đọc

    nguyễn nguyên bảy. com

    Thích

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s